Thứ Sáu, ngày 15/11/2024, 14:21

Thực hiện lời huấn thị của chủ tịch Hồ Chí Minh tại trường Đảng: “Học để làm việc, làm người, làm cán bộ. học để phụng sự đoàn thể, giai cấp và nhân dân, tổ quốc và nhân loại. muốn đạt mục đích thì phải cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư”

Ngô Quang Trung
Học viện Chính trị khu vực I.

(GDLL) - Lời huấn thị bất hủ của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đào tạo bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo cho Đảng đã trở thành kim chỉ nam, được tất cả các thế hệ học viên học tập, nghiên cứu trong trường Đảng cao cấp Trung ương, nay là Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh thấm nhuần sâu sắc, đó là: “Học để làm việc, làm người, làm cán bộ. Học để phụng sự Đoàn thể, giai cấp và nhân dân, Tổ quốc và nhân loại. Muốn đạt mục đích, thì phải cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư”[3, tr.208]. Bài viết đề cập nội dung cốt lõi trong lời chỉ dẫn của Người và sự vận dụng vào xây dựng Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh và công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý hiện nay.

Học viện Chính trị khu vực I (ảnh: Phạm Bình Dũng)

Đặt vấn đề

Chủ tịch Hồ Chí Minh là người sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện Đảng Cộng sản Việt Nam, cũng là người mở đầu sự nghiệp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cho Đảng. Tháng 9 năm 1949, nhân dịp khai giảng lớp lý luận dài hạn khoá II Trường Ðảng Trung ương Nguyễn Ái Quốc tại Định Hóa - Thái Nguyên, Người đã ghi vào cuốn sổ vàng của nhà trường lời huấn thị bất hủ: “Học để làm việc, làm người, làm cán bộ. Học để phụng sự Đoàn thể, giai cấp và nhân dân, Tổ quốc và nhân loại. Muốn đạt mục đích, thì phải cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư”[3; tr.9]. Thấm nhuần lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trường Đảng mang tên Bác Hồ kính yêu trong suốt 75 năm qua đã góp phần xứng đáng vào sự nghiệp đào tạo cán bộ và nghiên cứu lý luận của Đảng, phục vụ sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

1. Chủ tịch Hồ Chí Minh - tấm gương sáng ngời về học tập, học để đạt được tri thức đúng đắn phụng sự công cuộc đấu tranh cách mạng, vì sự vẻ vang của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân 

Chủ tịch Hồ Chí Minh ra đi tìm đường cứu nước từ buổi nhân dân, đất nước còn đắm chìm trong đêm đen nô lệ, Người không có điều kiện để được học hành trong các trường lớp chính thống. Người sớm dấn thân vào lao động và tranh đấu, nhưng bản thân đã có ý thức học tập từ rất sớm. Người đã từng kể lại: “Khi tôi độ mười ba tuổi, lần đầu tiên tôi được nghe ba chữ Pháp: Tự do, Bình đẳng, Bác ái. Đối với chúng tôi, người da trắng nào cũng là người Pháp. Người Pháp đã nói thế. Và từ thuở ấy, tôi rất muốn làm quen với nền văn minh Pháp, muốn tìm xem những gì ẩn đằng sau những chữ ấy”[2, tr.461]. Đó cũng là nguyên nhân Người đi về phía trời Tây để học hỏi, tìm con đường khả dĩ cứu nước, cứu dân.

Trong hoàn cảnh lao động gian khổ, thiếu thốn, có những lúc bị tù đày, Người luôn có ý thức tự học, tự bồi dưỡng, từ ngoại ngữ, đến các tri thức văn hóa, khoa học. Đi đến đâu, Chủ tịch Hồ Chí Minh đều học và sử dụng được ngoại ngữ, thông hiểu văn hóa để hòa nhập và hoạt động cách mạng. Không được đào tạo một cách bài bản, chính thống qua trường lớp, cấp học, nhưng những tri thức Người có được hết sức sâu sắc và toàn diện. Người còn căn dặn cán bộ phải học ở trường, học ở sách vở, học lẫn nhau và học ở nhân dân. Chính nhờ học qua sách báo, qua bè bạn, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiếp cận với chủ nghĩa Mác - Lênin. Đó là vào năm 1920, ở Pháp, Nguyễn Ái Quốc, đọc bản "Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa" của Lênin Người đã giác ngộ: “Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta!”[5 tr.562]. Từ đó, Người tin theo Lênin, tin theo Quốc tế III, vì đã chỉ ra cho Người con đường tranh đấu cho độc lập tự do của dân tộc mình.

Tinh hoa sự học của Chủ tịch Hồ Chí Minh được thẩm thấu và tỏa ra ở cốt cách văn hóa thanh cao, lịch thiệp, trong trí thông minh xuất chúng, ở lối ứng xử tinh tế, hấp dẫn. Tất cả nhờ Người luôn ý thức tự học và hành. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn tâm đắc câu nói của Lênin: Học, học nữa, học mãi và chính Người cho rằng, học để tiến bộ mãi! 

Từ việc coi trọng tầm quan trọng của sự học đối với tiền đồ quốc gia, dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đi đến coi mục đích của sự học là để phụng sự Tổ quốc và nhân dân. Trong lịch sử, mỗi một chế độ xã hội khác nhau tùy thuộc vào trình độ phát triển và nhận thức, con người đề cao sự học không giống nhau. Dân tộc Việt Nam trong thời đại phong kiến đã từng bị ảnh hưởng bởi quan niệm “học nhi ưu tắc sĩ” (học để làm quan), cái học đó đã đào tạo ra một tầng lớp quan lại bằng con đường khoa bảng; xã hội nông nghiệp đề cao cái học để “vinh thân phì gia”, một người làm quan cả họ được nhờ. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận thức được lợi ích của việc học lớn hơn nhiều. Học để “phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân, làm cho dân giàu, nước mạnh, tức là để làm trọn nhiệm vụ người chủ của nước nhà"[6; tr.179] Đó là ý nghĩa đích thực của sự học theo quan điểm khoa học và cách mạng, tiến bộ và nhân văn. Ở cương vị Chủ tịch nước, đi nhiều, hễ có dịp là Chủ tịch Hồ Chí Minh lại nói với nhân dân về lợi ích của sự học mới, về ý nghĩa của sự học cao cả ấy. 

Trong lời ghi ở trang đầu Quyển sổ vàng của trường Nguyễn Ái Quốc Trung ương, Người viết: “Học để làm việc, làm người, làm cán bộ. Học để phụng sự Đoàn thể, phụng sự giai cấp và nhân dân, phụng sự Tổ quốc và nhân loại...”[3; tr.208] Trong đó toát lên hai vấn đề cơ bản của một người cán bộ cách mạng mà Hồ Chí Minh quan tâm là đạo đức và tài năng. Người từng khẳng định muốn có một đội ngũ cán bộ “vừa hồng vừa chuyên” thì Đảng phải quan tâm giáo dục, đào tạo cho họ cả hai mặt, không thiên về mặt nào. Nhưng bao giờ đức cũng là gốc, là trước hết.

“Học để làm việc” là một mệnh đề bao trùm, khẳng định. Vì rằng, con người muốn tồn tại và cao hơn là muốn làm việc có hiệu quả thì phải học, dù là làm việc gì, kể từ việc đơn giản nhất. Và cũng còn vì con người phải trải qua việc làm thực tế để rèn luyện và tu dưỡng bản thân. Qua đó, tổ chức Đảng phát hiện ra những người làm việc tốt có thể đào tạo tiếp, cao hơn, để trở thành cán bộ.

Sau “học để làm việc”, Bác đã giải thích và chỉ rõ phải đặt cái gì trước cái gì sau. Để làm được những công việc hay là nhiệm vụ của người cán bộ một cách xuất sắc, có ích cho Đảng, cho nước và cho Nhân dân, thì trước hết phải học để “làm người” đã! Như vậy, Người yêu cầu phải rèn luyện, tu dưỡng đạo đức trước tiên. Vì chỉ người thật sự có đạo đức cách mạng mới đủ ý chí, bản lĩnh chấp nhận gian khổ hy sinh để cùng Đảng phấn đấu cho mục tiêu, lý tưởng cách mạng. 

Sau học “làm người”, thì mới có thể “làm cán bộ”. Vì cán bộ là ai? Như Bác đã từng dạy: cán bộ là công bộc của dân, là người đầy tớ trung thành của Nhân dân, gánh vác việc chung cho Nhân dân. Do đó, nếu không phải là người có đạo đức cách mạng thì không thể làm và không xứng đáng làm cán bộ của Nhân dân được. Bác nói: “Có tài mà không có đức ví như một anh làm kinh tế tài chính rất giỏi nhưng lại đi đến thụt két thì chẳng những không làm được gì ích lợi cho xã hội, mà còn có hại cho xã hội nữa”[4, tr.399]. Vì Đảng và dân không thể trao quyền hành Nhà nước cho những kẻ vô đạo đức để họ tác oai, tác quái được! 

Vì thế, chỉ sau khi đã thật sự xứng đáng “làm cán bộ” thì mới có thể nói là “phụng sự đoàn thể, giai cấp và nhân dân, Tổ quốc và nhân loại”. Người kết luận “Muốn đạt mục đích, thì phải cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”. Người chỉ rõ nội hàm của từng đức trong "tứ đức": Cần "là siêng năng, chăm chỉ, cố gắng dẻo dai"; kiệm "là tiết kiệm, không xa xỉ, không hoang phí"; "liêm là trong sạch không tham lam"; chính "nghĩa là không tà, nghĩa là thẳng thắn, đúng đắn". Người còn khẳng định bốn đức tính ấy không thể thiếu đức tính nào, nếu "thiếu một đức thì không thành người".

Nhờ học thấu đáo, năng lực tự học xuất chúng, Chủ tịch Hồ Chí Minh hội tụ được những văn hóa phương Đông, Tây, đem hết tài học, lực học, kiến thức phục vụ sự nghiệp cách mạng của dân tộc, của nhân dân. Khi Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời, Tổ chức Văn hóa, Khoa học và Giáo dục của Liên Hợp Quốc đã tôn vinh Người là: Anh hùng giải phóng dân tộc, Danh nhân văn hóa thế giới. Người là biểu tượng đỉnh cao của đạo đức và trí tuệ Việt Nam ngời sáng. 

2. Thực hiện lời huấn thị của Người vào xây dựng Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh và công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý hiện nay

Tự hào 75 năm qua, mái trường Ðảng mang tên Bác Hồ kính yêu, mỗi bước trưởng thành và dấu mốc phát triển của Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh luôn gắn liền với tiến trình cách mạng Việt Nam. Ðó là: Trường Ðảng Trung ương Nguyễn Ái Quốc (năm 1949) đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cho công cuộc kháng chiến, kiến quốc; Trường Ðảng Nguyễn Ái Quốc Trung ương (năm 1962) đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và sự nghiệp giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước; Trường Ðảng cao cấp Nguyễn Ái Quốc (năm 1977) tăng cường đào tạo, bồi dưỡng cán bộ đáp ứng yêu cầu của thời kỳ đầu cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội; Học viện Khoa học Xã hội mang tên Nguyễn Ái Quốc (năm 1986) mang trọng trách chính trị lớn lao trong những năm đầu thời kỳ đổi mới; Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (năm 1993) và Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh (năm 2007) với những bước phát triển mới mang tính hệ thống và có trọng trách phục vụ sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế. Từ năm 2014 đến nay, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh là một hệ thống bao gồm trung tâm Học viện và năm học viện trực thuộc (bốn học viện khu vực ở Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Ðà Nẵng, Cần Thơ và Học viện Báo chí và Tuyên truyền), với những đổi mới toàn diện nhằm đáp ứng yêu cầu tiếp tục đẩy mạnh đồng bộ công cuộc Đổi mới; phát triển nhanh, bền vững đất nước và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa[7].

Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh đã đào tạo nên lớp lớp cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt của Ðảng và hệ thống chính trị có trình độ lý luận, năng lực tổ chức thực tiễn, có bản lĩnh và phẩm chất cần thiết đáp ứng kịp thời và có hiệu quả mục tiêu, nhiệm vụ chiến lược của sự nghiệp cách mạng trong các thời kỳ. Ðến nay, đã có hàng trăm nghìn cán bộ trung, cao cấp được học tập và rèn luyện tại Học viện, trở thành nguồn cán bộ quý báu lãnh đạo, tổ chức quần chúng nhân dân viết nên những trang sử vẻ vang của cách mạng Việt Nam.

Học viện đã có những đóng góp to lớn vào công tác nghiên cứu, tuyên truyền và giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, khẳng định vị thế là trung tâm quốc gia nghiên cứu lý luận chính trị và tư vấn chính sách cho Ðảng, Nhà nước. Ðội ngũ các nhà khoa học của Học viện là lực lượng chủ lực giảng dạy, truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin; đi đầu trong việc nghiên cứu làm rõ nội dung, khẳng định giá trị, ý nghĩa của tư tưởng Hồ Chí Minh; cung cấp những luận chứng thuyết phục trong quá trình xây dựng và hoàn thiện nền tảng tư tưởng, lý luận của Ðảng. Trong những năm đổi mới, kết quả nghiên cứu khoa học của Học viện đã góp phần làm rõ nhận thức lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta; góp phần phân tích, đánh giá thời đại ngày nay và thế giới đương đại; bổ sung, phát triển Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; bổ sung, hoàn thiện lý luận và chủ trương, đường lối, chính sách về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, về xây dựng, chỉnh đốn Ðảng và hệ thống chính trị, về tôn giáo, quyền con người và bình đẳng giới... Ðặc biệt, trong nhiều nhiệm kỳ qua, cán bộ Học viện đã trực tiếp tham gia nghiên cứu, xây dựng các nghị quyết của Trung ương và các văn kiện Ðại hội Ðảng.

Trong những năm qua, triển khai thực hiện tốt các nghị quyết của Ðảng, tổ chức, bộ máy của Học viện ngày càng được kiện toàn theo hướng hệ thống, đồng bộ, bảo đảm dân chủ, kỷ cương, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Học viện tăng cường phân công, phân cấp, phát huy tính chủ động sáng tạo và những lợi thế của các học viện trực thuộc. Sự phối hợp giữa các đơn vị trong hệ thống Học viện ngày càng chặt chẽ, hiệu quả hơn. Công tác hướng dẫn chuyên môn, nghiệp vụ các trường chính trị tỉnh, thành phố có bước phát triển rõ rệt, khẳng định vai trò là hình mẫu và hạt nhân của Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh trong hệ thống các cơ sở đào tạo lý luận chính trị của cả nước. Hoạt động hợp tác quốc tế được đẩy mạnh, phục vụ có hiệu quả nhiệm vụ đào tạo cán bộ và nghiên cứu khoa học, góp phần nâng cao vị thế và uy tín của Học viện. Công tác báo chí và xuất bản được quan tâm, đầu tư phát triển, giữ vững bản chất của báo chí cách mạng và ngày càng đáp ứng yêu cầu của báo chí hiện đại. Công tác nghiên cứu, biên soạn lịch sử Ðảng được tổ chức chặt chẽ, đồng bộ từ Trung ương tới địa phương, giúp nâng cao nhận thức, giáo dục chính trị và tăng cường lòng yêu nước, trách nhiệm đối với quốc gia, dân tộc trong cán bộ, đảng viên và toàn xã hội. Công tác xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật được chú trọng, trong đó việc ứng dụng công nghệ thông tin và xây dựng mô hình quản trị thông minh tại Học viện được xác định là một trong những nhiệm vụ cấp bách, góp phần hiện đại hóa Học viện.

Phát huy truyền thống quý báu của trường Ðảng, học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Chủ tịch Hồ Chí Minh, tập thể cán bộ, giảng viên, công chức, viên chức và người lao động của Học viện luôn đoàn kết một lòng, gương mẫu chấp hành đường lối, chủ trương của Ðảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, xây dựng và giữ gìn môi trường sư phạm thân thiện, sáng tạo và mẫu mực. Các thế hệ cán bộ của Học viện luôn để lại hình ảnh trong sáng về người đảng viên, cán bộ, người thầy giáo, cô giáo trường Ðảng. Nhiều người được Nhà nước phong tặng danh hiệu Nhà giáo Nhân dân, Nhà giáo Ưu tú.

Với những đóng góp liên tục, to lớn trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ và nghiên cứu lý luận, Học viện đã được Ðảng, Nhà nước tặng thưởng Huân chương Sao Vàng, Huân chương Hồ Chí Minh, danh hiệu Anh hùng Lao động và nhiều danh hiệu cao quý khác. Ðây là sự ghi nhận và tuyên dương của Ðảng, Nhà nước và nhân dân đối với những thành tựu to lớn và đóng góp xứng đáng của Học viện vào sự nghiệp cách mạng của Ðảng và dân tộc; là niềm tự hào của các thế hệ cán bộ đã từng học tập, công tác tại trường Ðảng mang tên Bác.

Tiếp bước các thế hệ đi trước và xứng danh là Trường Đảng cao cấp Trung ương mang tên Bác, Học viện đã đổi mới mạnh mẽ, toàn diện công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, nghiên cứu khoa học, tổng kết thực tiễn, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ và tăng cường cơ sở vật chất - kỹ thuật để ngang tầm với đòi hỏi của công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Để đáp ứng yêu cầu trong tình hình hiện nay, Học viện tiếp tục có những đổi mới toàn diện:

i) Vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quán triệt sâu sắc đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước phù hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam và xu thế phát triển của thế giới hiện đại vào nội dung giảng dạy và nghiên cứu khoa học của Học viện trong giai đoạn mới.

ii) Chú trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ gắn với bám sát mục tiêu, yêu cầu định hướng của chiến lược cán bộ, gắn kết chặt chẽ với công tác quy hoạch cán bộ. Coi trọng chất lượng đào tạo. Phân định rõ giữa đào tạo cơ bản với bồi dưỡng theo chức danh. Rút ngắn hợp lý thời gian đào tạo. Chú trọng đào tạo tập trung.

iii) Tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn cơ bản, nhằm làm sáng tỏ những giá trị, sức sống và ý nghĩa của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta; phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; về xây dựng Đảng vững mạnh toàn diện, trọng tâm là vấn đề Đảng cầm quyền; xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; về vấn đề toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế...

iv) Đổi mới, hoàn thiện chương trình các hệ đào tạo, bồi dưỡng theo hướng chọn lọc, thiết thực, sát hợp với đối tượng và mục tiêu đào tạo, biên soạn lại các loại chương trình sau: chương trình đào tạo cao cấp lý luận chính trị; chương trình bồi dưỡng, chương trình nâng cao, cập nhật kiến thức mới cho cán bộ lãnh đạo, quản lý; chương trình đào tạo lý luận chính trị cho cán bộ để chuẩn hoá chức danh công chức; chương trình đào tạo thạc sĩ, tiến sĩ các chuyên ngành lý luận chính trị và một số chuyên ngành khoa học - xã hội và nhân văn khác; Đổi mới chương trình, nội dung phương pháp đào tạo quán triệt yêu cầu vừa bảo đảm tính khoa học, cơ bản và hệ thống, vừa bảo đảm tính hiện đại, thực tiễn và chuyên môn nghiệp vụ;

v) Thực hiện đào tạo toàn diện, chú trọng nâng cao trình độ kiến thức, rèn luyện năng lực tư duy khoa học, khả năng xử lý tình huống, trau dồi đạo đức, lối sống; gắn bồi dưỡng lý luận với thực tiễn, học đi đôi với hành. Áp dụng phương pháp giảng dạy hiện đại và học tập theo phong cách nghiên cứu nhằm phát huy cao độ tính chủ động, tích cực, khả năng độc lập suy nghĩ của người học;

vi) Đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học nhằm đóng góp kịp thời và thiết thực vào việc hoạch định đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước; tham gia tích cực vào công tác lý luận, tư tưởng của Đảng và nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Gắn tổng kết thực tiễn với phát triển lý luận; tổ chức thảo luận, làm sáng tỏ những vấn đề nảy sinh từ thực tiễn đang có ý kiến khác nhau, đấu tranh chống các quan điểm lệch lạc và luận điệu sai trái, góp phần tích cực vào công tác tư tưởng của Đảng;

vii) Xây dựng quy hoạch, kế hoạch từng bước hiện đại hoá cơ sở vật chất - kỹ thuật của Học viện để tương xứng một trung tâm đào tạo và nghiên cứu lớn của quốc gia và khu vực[1] .

Kết luận

Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, chúng ta có thể học tập rất nhiều điều, tuy nhiên trong bối cảnh, vận hội mới của đất nước hiện nay, cần phải học và thực hành tinh thần “Học để làm việc, làm người, làm cán bộ. Học để phụng sự Đoàn thể, giai cấp và nhân dân, Tổ quốc và nhân loại”; đồng thời phải rèn luyện, trau dồi đạo đức cách mạng, thực hiện “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”. Chỉ với một thái độ học tập, rèn luyện tích cực, đúng đắn và nhân văn như vậy, mỗi người chúng ta mới có thể góp sức học và sức làm việc của mình để dân tộc Việt Nam có thể sánh vai các quốc gia, dân tộc khác, thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế.

 

Tài liệu tham khảo:

[1] Thùy linh (2019), Xứng đáng là Trường đảng trung ương mang tên của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, https://www.tạpchicongsan.org.vn

[2] Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 1, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

[3] Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 6, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

[4] Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 11, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

[5] Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 12, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

[6] Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 9, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

[7] Nguyễn Xuân Thắng (2019), 70 năm truyền thống vẻ vang của trường Đảng mang tên Bác, https://nhandan.vn

Tin liên quan

Đọc thêm

Việt Nam tích cực, chủ động hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng góp phần bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa trong tình hình mới

Tác giả: NGUYỄN ĐỨC HẠNH

(GDLL) - Hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng là một xu thế tất yếu, hàm chứa cả cơ hội và thách thức đối với các quốc gia trên con đường phát triển. Trong những năm qua, Việt Nam luôn tích cực, chủ động hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng góp phần quan trọng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa từ sớm, từ xa. Trên cơ sở khái quát bối cảnh tình hình tác động và những kết quả nổi bật trong tích cực, chủ động hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng những năm qua bài viết đề xuất một số giải pháp nhằm thực hiện có hiệu quả việc tích cực, chủ động hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng của Việt Nam trong tình hình mới.

Bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc trong đường lối đối ngoại thời kỳ đổi mới của Việt Nam

Tác giả: NGUYỄN ANH CƯỜNG - HOÀNG ANH TÚ - TRIỆU THANH CHÚC

(GDLL) - Trên cơ sở nghiên cứu lý luận về lợi ích quốc gia - dân tộc, bài viết phân tích sự kiên định về lợi ích quốc gia - dân tộc trong đường lối đối ngoại thời kỳ đổi mới của Việt Nam và khẳng định việc bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc trong chính sách đối ngoại của Việt Nam là hoàn toàn đúng đắn.

Phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số ở Việt Nam hiện nay: Thực trạng và khuyến nghị

Tác giả: PHẠM TÚ TÀI - CHU THỊ LÊ ANH

(GDLL) - Phát triển mạnh khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số được Đảng xác định là động lực chính của tăng trưởng kinh tế trong giai đoạn hiện nay. Bài viết phân tích cơ sở lý luận và thực tiễn về tăng trưởng kinh tế dựa vào khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số làm cơ sở khẳng định đây là động lực mới, quan trọng cho tăng trưởng kinh tế và phát triển bền vững. Đồng thời, bài viết cũng tập trung đánh giá thực trạng, đề xuất một số kiến nghị, giải pháp thúc đẩy phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số ở Việt Nam trong thời gian tới.

Quan điểm chỉ đạo của Đảng về xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong Nghị quyết 27-NQ/TW

Tác giả: TRẦN THỊ THANH MAI

(GDLL) - Sự ra đời của Nghị quyết số 27- NQ/TW Hội nghị Trung ương 6 khóa XIII ngày 09/11/2022 Về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Bài viết tập trung làm rõ một số quan điểm chỉ đạo của Đảng về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, qua đó thấy được giá trị lý luận và thực tiễn của Nghị quyết.

Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về bảo vệ an ninh quốc gia trong thời kỳ mới

Tác giả: NGUYỄN VĂN NGHĨA

(GDLL) - An ninh quốc gia và bảo vệ an ninh quốc gia là vấn đề hệ trọng của mỗi quốc gia, dân tộc. Hiện nay, Việt Nam đang phải đối diện với nhiều thách thức trong lĩnh vực an ninh quốc gia, trong đó có cả những vấn đề an ninh truyền thống và an ninh phi truyền thống. Công tác bảo vệ an ninh quốc gia là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên, được Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm lãnh đạo, nhất là trong thời kỳ đổi mới hiện nay. Bài viết khái quát quan điểm của Đảng về bảo vệ an ninh quốc gia, thực tiễn về bảo vệ an ninh quốc gia và đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm thực hiện tốt nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia trong thời kỳ mới.