Thứ Hai, ngày 02/12/2024, 17:56

Phát triển đội ngũ cán bộ nữ của Học viện Chính trị khu vực I đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn hiện nay

Phạm Thị Ngọc Dung - Vương Hồng Hà
Học viện Chính trị khu vực I.

(GDLL) - Bài viết đề cập đến quan điểm, chủ trương của Đảng về công tác cán bộ nữ; vận dụng đánh giá thực trạng đội ngũ viên chức nữ tại Học viện Chính trị khu vực I. Từ đó, bài viết đưa ra một số khuyến nghị phát huy nội lực, khơi dậy sự sáng tạo, ý chí tự cường của cán bộ nữ nhằm phát triển đội ngũ viên chức nữ tại Học viện Chính trị khu vực I đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong giai đoạn hiện nay.

Gặp mặt cán bộ nữ lãnh đạo chủ chốt công đoàn và biểu dương cán bộ nữ công tiêu biểu lần thứ 3, năm 2024

(nguồn news.vnanet.vn)

Đặt vấn đề

Phát triển cán bộ nữ luôn nhận được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, các cấp, các ngành. Với chủ trương, đường lối, chính sách đúng đắn của Đảng, Nhà nước cùng khung pháp lý tiến bộ, khá toàn diện và phù hợp với yêu cầu quốc tế, với sự nỗ lực vươn lên của các tầng lớp phụ nữ, phụ nữ Việt Nam đã và đang tham gia ngày càng nhiều trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự xã hội và phát triển bền vững của đất nước. Học viện Chính trị khu vực I là đơn vị trực thuộc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, là trung tâm đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý, cán bộ khoa học lý luận chính trị của Đảng, Nhà nước... Học viện có đội ngũ viên chức, người lao động có phẩm chất đạo đức tốt, bản lĩnh chính trị vững vàng, có trình độ cao, trong đó có đội ngũ viên chức, người lao động nữ chiếm tỷ lệ cao. Đội ngũ cán bộ nữ này đã có nhiều đóng góp trong quá trình xây dựng và phát triển Học viện hơn 70 năm qua. Vì vậy, phát huy nội lực, khơi dậy sự sáng tạo, ý chí tự cường của mỗi viên chức nữ nhằm phát triển đội ngũ, xây dựng đội ngũ cán bộ, viên chức nữ chuyên nghiệp, có năng lực, bản lĩnh chính trị vững vàng tại Học viện Chính trị khu vực 1 (sau đây gọi tắt là HV) giai đoạn hiện nay để đáp ứng yêu cầu của thời kỳ đổi mới, phát triển và hội nhập quốc tế là nhiệm vụ cấp bách.

1. Quan điểm của Đảng về công tác cán bộ nữ trong thời kỳ đổi mới

Từ khi ra đời đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn khẳng định vị trí, vai trò và quyền bình đẳng của phụ nữ trong đời sống chính trị - xã hội, quan tâm đến công tác cán bộ nữ, tạo mọi điều kiện và giải quyết tốt các quyền lợi chính đáng, thiết thực của phụ nữ, phát huy tối đa lực lượng, khả năng của phụ nữ trong mọi nhiệm vụ của đất nước. Bước vào thời kỳ đổi mới, Đảng tiếp tục lãnh đạo thực hiện Nghị quyết Đại hội VII của Đảng, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết 04-NQ/TW ngày 12/7/1993 về “Tăng cường và đổi mới công tác vận động phụ nữ trong tình hình mới”; Chỉ thị số 37-CT/TW ngày 16/5/1994 của Ban Bí thư “Về một số vấn đề công tác cán bộ nữ trong tình hình mới”.

Trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Bộ Chính trị khoá X ban hành Nghị quyết số 11-NQ/TW ngày 27/4/2007 về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đề ra mục tiêu: "Phấn đấu đến năm 2020, phụ nữ được nâng cao trình độ về mọi mặt, có trình độ học vấn chuyên môn, nghiệp vụ đáp ứng yêu câu công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế; có việc làm, được cải thiện rõ rệt về đời sống vật chất, văn hóa, tinh thần; tham gia ngày càng nhiều hơn công việc xã hội, bình đẳng trên mọi lĩnh vực; đóng góp ngày càng lớn hơn cho xã hội và gia đình. Phấn đấu để nước ta là một trong các quốc gia có thành tựu bình đẳng giới tiến bộ nhất của khu vực"[1]

Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI (2011), đưa ra yêu cầu “Xây dựng và triển khai chiến lược quốc gia về bình đẳng giới và sự tiến bộ của phụ nữ, tập trung ở những vùng và khu vực có sự bất bình đẳng và nguy cơ bất bình đẳng cao… Tạo điều kiện để phụ nữ tham gia học tập, bồi dưỡng, nâng cao trình độ, đáp ứng yêu cầu công việc, nhiệm vụ”[2, tr.231]. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII (2016), tiếp tục đặt ra nhiệm vụ: “Nâng cao trình độ mọi mặt và đời sống vật chất, tinh thần của phụ nữ, thực hiện tốt bình đẳng giới, tạo điều kiện cho phụ nữ phát triển tài năng. Nghiên cứu bổ sung và hoàn thiện luật pháp và chính sách đối với lao động nữ, tạo điều kiện để phụ nữ thực hiện tốt vai trò và trách nhiệm của mình trong gia đình và xã hội”[2, tr.163].

Trên cơ sở tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết số 11-NQ/TW, Chỉ thị số 21-CT/TW ngày 20/1/2018 “về tiếp tục đẩy mạnh công tác phụ nữ trong tình hình mới”, Ban Bí thư yêu cầu các cấp uỷ, tổ chức đảng, Mặt trận tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội tập trung thực hiện tốt các nhiệm vụ trong thời gian tới. Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 19/5/2018, Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XII) về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ đưa ra các chỉ tiêu về công tác nữ cần đạt được đến năm 2030. Chỉ thị 35-CT/TW ngày 30/5/2019 của Bộ Chính trị về đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đưa ra các chỉ tiêu liên quan đến công tác nữ và yêu cầu: Cấp ủy các cấp, nhất là người đứng đầu phải chủ động và có trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo việc rà soát, đánh giá để đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sắp xếp cán bộ nữ, cán bộ trẻ, cán bộ người dân tộc thiểu số vào các chức danh có cơ cấu tham gia cấp ủy khóa mới; đồng thời, có giải pháp hiệu quả chuẩn bị nguồn cán bộ cả trước mắt và lâu dài. 

Đại hội Đảng lần thứ XIII chỉ rõ: “Phát huy truyền thống, tiềm năng, thế mạnh và tinh thần làm chủ, khát vọng vươn lên của các tầng lớp phụ nữ. Xây dựng phụ nữ Việt Nam thời đại mới. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nữ, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và hội nhập quốc tế. Tăng cường các chương trình phát triển, hỗ trợ cập nhật tri thức, kĩ năng cho phụ nữ có hoàn cảnh khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi. Hoàn thiện và thực hiện tốt luật pháp, chính sách liện quan đến phụ nữ, trẻ em, bình đẳng giới. Kiên quyết xử lý nghiêm theo pháp luật các tệ nạn xã hội, các hành vi bạo lực, mua bán, xâm hại phụ nữ, trẻ em”[3, tr.169]. Văn kiện Đại hội nhấn mạnh: “Đặc biệt coi trọng việc đào tạo nghề nghiệp, giúp đỡ chị em có việc làm phát triển kinh tế gia đình, cải thiện đời sống, bảo vệ sức khỏe phụ nữ và trẻ em… Giảm dần khoảng cách giới trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội và gia đình”[3]. Đây chính là sự tiếp nối, phát triển quan điểm của Đảng về phát triển phụ nữ và công tác phụ nữ trong các kỳ đại hội trước, thể hiện rõ sự tin tưởng của Đảng, Nhà nước đối với phụ nữ và sự đóng góp của tầng lớp phụ nữ trong giai đoạn hiện nay. 

2. Thực trạng đội ngũ cán bộ, viên chức nữ Học viện Chính trị khu vực I 

2.1. Phẩm chất, năng lực và chất lượng cán bộ, viên chức nữ tại Học viện

* Về phẩm chất chính trị của đội ngũ viên chức người lao động nữ 

Viên chức, lao động nữ của Học viện có phẩm chất chính trị vững vàng, luôn kiên định, trung thành với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Chấp hành tốt các chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước; nghị quyết, quyết định, chỉ thị, kết luận của cấp trên. Có đạo đức cách mạng, phẩm chất của người đảng viên, có lối sống lành mạnh, không vi phạm những điều đảng viên không được làm. Luôn giữ gìn đoàn kết nội bộ, thực hiện nghiêm chế độ tự phê bình và phê bình, có ý thức chấp hành tốt tổ chức kỷ luật, thực hiện tốt các nội quy, quy chế của tổ chức Đảng, phục tùng sự phân công điều động, luân chuyển của tổ chức.

* Về số lượng, chất lượng đội ngũ viên chức, người lao động nữ

Tổng số cán bộ, viên chức nữ Học viện hiện nay là 189/300 (63%), cụ thể: PGS,TS 3/7 (42.8%); TS: 45/82 (54.9%); Thạc sĩ: 100/139 (72%); Cử nhân: 35/57(61%); trình độ khác 6/16 (37.5%)[4].

Viên chức nữ khối nghiên cứu, giảng dạy: giảng viên nữ có 99/157 giảng viên (63%), phân chia theo ngạch GVCC: 11/22 (50%); GVC: 36/65 (55.4%); GV: 52/71(73.2%)[4]. Đội ngũ nữ giảng viên được đào tạo cơ bản, đúng chuyên ngành có học vị ngày càng cao, tâm huyết với nghề nghiệp, có tư duy đổi mới, năng động, sáng tạo, chịu khó tìm tòi, phát hiện vấn đề từ thực tiễn để đóng góp cho công tác lý luận của Đảng. Từ năm 2021 đến 2024, nữ viên chức tham gia làm chủ nhiệm đề tài khoa học chiếm số lượng khá cao, cụ thể 61viên chức nữ là chủ nhiệm đề tài cấp cơ sở (cơ sở tự chủ và phân cấp), 08 viên chức nữ là chủ nhiệm đề tài cấp bộ[5].

Đội ngũ cán bộ nữ khối phòng ban chức năng tham mưu, hành chính - hậu cần: về cơ bản được đào tạo bài bản, có chuyên môn, nghiệp vụ, chịu khó học tập nâng cao trình độ, có khả năng tham mưu trong một số lĩnh vực. Tuy nhiên, về cơ cấu khối chức năng hiện nay số lượng còn khá cao, tính chuyên nghiệp chưa cao; năng lực, hiệu quả công tác còn hạn chế, một bộ phận thiếu chuyên môn nghiệp vụ. 

2.2. Một số chủ trương chính sách nâng cao năng lực cán bộ, viên chức nữ tại Học viện

* Về công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nữ

Đội ngũ viên chức nữ có trình độ cao, được đào tạo cơ bản, đúng chuyên ngành, vị trí việc làm, đáp ứng yêu cầu chuẩn hoá đội ngũ cán bộ giảng dạy, nghiên cứu trong hệ thống trường Đảng. Đảng ủy, Ban Giám đốc luôn luôn chú trọng việc đào tạo bồi dưỡng đội ngũ viên chức nữ, đặc biệt là đội ngũ giảng dạy và nghiên cứu. Học viện đã cử nhiều nữ viên chức tham gia các khoá đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, quản lý nhà nước, lý luận chính trị và các khóa bồi dưỡng ngắn hạn.

Bên cạnh đó, để phục vụ công tác giảng dạy bám sát thực tiễn, gắn với đối tượng người học, Học viện đã thực hiện chủ trương của Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh về việc đưa giảng viên đi thực tế dài hạn địa phương. Từ năm 2021 đến nay, Học viện đã cử 24 nữ giảng viên đi nghiên cứu thực tế dài hạn tại các địa phương[4]. Ngoài việc cử giảng viên đi thực tế địa phương, để đào tạo bồi dưỡng giảng viên về mọi mặt, Học viên thực hiện luân chuyển thực tế nội bộ, thực tế hàng năm theo ngạch bậc, trong đó có sự tham gia tích cực của viên chức nữ.

* Về bổ nhiệm, quy hoạch cán bộ, viên chức nữ

Học viện luôn quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo công tác quy hoạch, bổ nhiệm, đào tạo, bồi dưỡng và bố trí sử dụng công chức lãnh đạo, quản lý là nữ phù hợp năng lực, sở trường, có tinh thần trách nhiệm, có khả năng hoàn thành tốt nhiệm vụ, phát huy được thế mạnh, tạo cơ hội và điều kiện thuận lợi để cán bộ nữ phấn đấu, rèn luyện và trưởng thành.

Đội ngũ nữ viên chức giữ vị trí lãnh đạo quản lý năm 2024 của Học viện gồm 17/54 người (31,5%), trong đó có 01 người giữ chức vụ Phó giám đốc Học viện trong tổng số 04 thành viên Ban Giám đốc (25%); 06 người là cấp trưởng các khoa/ban của Học viện (30%); 10 người là phó trưởng khoa/ban (33,3%). Số viên chức nữ lãnh đạo, quản lý là UVTVĐU 02/06 người (33,3%), UVBCHĐU 03/16 người (18,7%): UVTVCĐ 01/03 người (33,3%), UVBCHCĐ 03/10 người (30%)[4]. Cơ cấu trình độ, số viên chức nữ lãnh đạo, quản lý có học hàm, học vị PGS, TS là 01 người (20%); học vị tiến sĩ là 12 người (33,3%); 04/13 viên chức lãnh đạo, quản lý có học vị thạc sĩ (30,8%), trong đó có 15/17 viên chức nữ lãnh đạo, quản lý ngạch GVC trở lên và có 02 CVC. Trong số 17 viên chức nữ lãnh đạo quản lý, có 05 người trong độ tuổi từ 35- dưới 50 (29,4%) và 12 người trên 50 tuổi (70,6%)[4].

* Công tác nữ tại Học viện

Bên cạnh các chính sách của Học viện, các hoạt động nữ được Ban Vì sự tiến bộ của Phụ nữ và Ban Nữ công, trực thuộc Công đoàn Học viện tổ chức thực hiện góp phần thúc đẩy sự phát triển của viên chức, người lao động nữ tại Học viện trong thời gian vừa qua. Trong năm 2024, hai ban đã làm tốt công tác tuyên truyền và thực hiện có hiệu quả các Nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, những chính sách có liên quan đến lao động nữ, tổ chức các hoạt động để gắn bó chị em nữ các đơn vị với nhau, nhằm nâng cao tinh thần, động lực phục vụ nhiệm vụ chính trị. Phối hợp tổ chức các hoạt động báo cáo, tọa đàm với các chủ đề về phụ nữ, công tác nữ, gia đình nhân các ngày 8/3, 20/10, tháng hành động vì bình đẳng giới với mục đích tạo sự hiểu biết hơn về hoạt động và công tác nữ. Kịp thời động viên đội ngũ viên chức nữ phấn đấu vươn lên hoàn thành tốt các nhiệm vụ, tham gia tốt phong trào thi đua “Giỏi việc trường, đảm việc nhà”, giúp đỡ, bồi dưỡng nữ đoàn viên ưu tú, giới thiệu xem xét, kết nạp vào tổ chức Đảng.

2.3. Tồn tại, hạn chế

Cơ chế, chính sách, pháp luật nhà nước về công tác nữ và bình đẳng giới chưa hoàn thiện, thiếu đồng bộ, nhiều quy định còn chồng chéo, mâu thuẫn; nguyên tắc Bình đẳng giới chưa được cụ thể hoá toàn diện và triệt để trong các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành, một số quy định được ban hành nhưng thiếu chế tài, biện pháp, nguồn lực thực hiện. Đặc biệt là khung chính sách, quy định tuổi đào tạo, tuổi nghỉ hưu, tuổi quy hoạch và bổ nhiệm còn hạn chế đối với cán bộ nữ... có ảnh hưởng ít nhiều đến công tác nữ tại Học viện.

Còn một bộ phận nữ cán bộ, viên chức, người lao động chưa chú ý đúng mức đến việc học tập nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ. Quan niệm về thiên chức của nữ giới gắn với làm mẹ, làm vợ gắn với công việc nội trợ, chăm sóc các thành viên trong gia đình khiến cán bộ nữ khó tiếp cận cơ hội, điều kiện trau dồi kiến thức, cập nhật thông tin để phát triển bản thân.

Một bộ phận nhỏ viên chức, người lao động nữ Học viện chưa thực sự yêu nghề, thiếu kiến thức thực tiễn, kinh nghiệm, năng lực nghiên cứu, giảng dạy còn hạn chế, trình độ ngoại ngữ chưa đáp ứng yêu cầu đổi mới. Cơ cấu đội ngũ cán bộ khoa học nữ chưa hợp lý, tỷ lệ cán bộ nữ có học hàm học vị còn thấp, ảnh hưởng và uy tín khoa chưa cao...

Hầu hết cán bộ nữ hoạt động trong ban Vì sự tiến bộ của Phụ nữ, ban Nữ công làm công tác kiêm nhiệm, tổ chức hoạt động còn hạn chế về thời gian, kinh nghiệm, chưa thực sự sáng tạo trong tổ chức các hoạt động, chưa đáp ứng hoàn toàn yêu cầu, nguyện vọng của nữ viên chức, người lao động.

3. Một số khuyến nghị phát huy nội lực, khơi dậy sự sáng tạo, ý chí tự cường của cán bộ nữ nhằm phát triển đội ngũ cán bộ nữ tại Học viện Chính trị khu vực I giai đoạn hiện nay 

Một là, luôn bám sát sự chỉ đạo của Đảng ủy, Ban Giám đốc, Công đoàn để tổ chức, triển khai các hoạt động công tác của Ban vì sự tiến bộ của phụ nữ và Ban nữ công hội và phong trào phụ nữ phù hợp với đặc điểm tình hình chung. Thường xuyên đổi mới nội dung hoạt động, hình thức vận động sao cho phù hợp với đặc điểm của Học viện làm động lực, thu hút, lôi cuốn viên chức, người lao động nữ tham gia. Tiếp tục đổi mới và đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục, vận động, hướng dẫn phụ nữ phát huy truyền thống, nâng cao bản lĩnh chính trị, rèn luyện phẩm chất đạo đức, chấp hành nghiêm pháp luật, kỷ luật, hoàn thành tốt nhiệm vụ.

Hai là, Học viện tiếp tục quán triệt sâu sắc các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, của Bộ Chính trị về “Công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh Công nghiệp hóa, Hiện đại hóa đất nước”; Thực hiện hiệu quả “Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2021 – 2030” nhằm tiếp tục thu hẹp khoảng cách giới, tạo điều kiện, cơ hội để phụ nữ và nam giới bình đẳng trong tham gia, thụ hưởng thành quả các lĩnh vực của đời sống xã hội. 

Ba là, phát huy vai trò của ban Vì sự tiến bộ của phụ nữ trong tham mưu, tổ chức thực hiện tốt các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về công tác cán bộ nữ và bình đẳng giới; Tích cực, chủ động, tranh thủ sự chỉ đạo Đảng ủy, sự ủng hộ của Ban Giám đốc Học viện để công tác phụ nữ, công tác vì sự tiến bộ phụ nữ của Học viện phát triển đúng hướng, đạt kết quả tốt. Coi trọng sơ kết, tổng kết đánh giá và trao đổi kinh nghiệm tổ chức hoạt động giữa các ban Vì sự tiến bộ của phụ nữ trong cùng hệ thống Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh để hạn chế tồn tại, phát huy ưu điểm. Tăng cường công tác tuyên truyền, tổ chức các buổi tập huấn, trao đổi về bình đẳng giới, các hoạt động tăng cường sức khỏe, kết nối của các chị em nữ nhằm động viên, hỗ trợ trong công việc chuyên môn.

Bốn là, Công đoàn Học viện tổ chức phong trào thi đua phải thiết thực, cụ thể, phát huy được lợi thế, tinh thần tự học, tự rèn, tích cực gương mẫu trong học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, đấu tranh với những nhận thức sai lệch, những biểu hiện suy thoái về đạo đức, lối sống, phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Đa dạng hóa hình thức, phương pháp tổ chức thực hiện, tạo môi trường thuận lợi để viên chức, người lao động nữ công tác, học tập, rèn luyện và phát triển toàn diện. Phong trào thi đua của phụ nữ cần phải bám sát đặc điểm tình hình và công tác chuyên môn của Học viên. Quan tâm xây dựng và nhân rộng điển hình tiên tiến, kịp thời biểu dương, khen thưởng các tập thể, cá nhân có thành tích xuất sắc.

Năm là,Ban Nữ công tích cực đổi mới phương pháp, tác phong công tác, chủ động tham mưu cho Công đoàn Học viện, đề xuất với Đảng ủy trong lãnh đạo, chỉ đạo, định hướng công tác nữ và phát triển viên chức nữ Học viện. Chú trọng xây dựng, kiện toàn, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ các đơn vị, công đoàn bộ phận tổ nữ công; động viên chị em tích cực, chủ động học tập, nâng cao trình độ mọi mặt, tích lũy kinh nghiệm và kỹ năng công tác. Chủ động, tích cực, tự giác rèn luyện để đạt được 4 phẩm chất tốt đẹp “Tự tin - Tự trọng - Trung hậu - Đảm đang” của người phụ nữ trong thời đại mới.

Sáu là, xây dựng đội ngũ cán bộ nữ có năng lực, nhiệt tình, tâm huyết, mạnh dạn, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm thực hiện tốt các nhiệm vụ chính trị. Mỗi viên chức, người lao động nữ trong Học viện tự giác học tập, rèn luyện, phấn đấu vươn lên về mọi mặt để khẳng định vai trò, trách nhiệm của mình trên từng cương vị công tác. Mỗi cán bộ, viên chức, người lao động nữ cần xác định rõ trách nhiệm của mình đối với công việc được giao, không tự thỏa mãn, thiếu tự tin; yêu thương, đoàn kết, giúp đỡ nhau nhiều hơn trong công tác, tôn trọng, công nhận nhau, thi đua cùng tiến bộ. Nắm vững quy chế, quy định của Học viện về công tác đào tạo, nghiên cứu khoa học để vận dụng vào giảng dạy và hoàn thành tốt các nhiệm vụ được giao. Xóa bỏ mọi rào cản, định kiến của chính giới nữ, Chủ động rèn luyện nâng cao kỹ năng, năng lực theo các tiêu chí người phụ nữ Việt Nam phát triển toàn diện, gắn với rèn luyện 4 phẩm chất đạo đức: tự tin, tự trọng, trung hậu, đảm đang, đáp ứng yêu cầu thực tiễn.

Kết luận

Trong những năm qua, trên cơ sở thực hiện các chủ trương, chỉ thị, nghị quyết của Đảng, các quy định của Chính phủ đối với cán bộ nữ, Học viện I luôn quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo mang tính đồng bộ các hoạt động trong công tác nữ, tạo điều kiện thuận lợi cho cán bộ nữ hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ, phát huy được thế mạnh, ưu điểm để cán bộ nữ có điều kiện, cơ hội, môi trường phấn đấu, rèn luyện và trưởng thành. Trước những yêu cầu mới của sự nghiệp cách mạng, với nhiệm vụ chính trị của Học viện đòi hỏi cần tiếp tục phát huy vai trò, nội lực, khơi dậy sự sáng tạo, ý chí tự cường, khát vọng phấn đấu vươn lên của mỗi cán bộ nữ nhằm phát triển đội ngũ cán bộ nữ tại Học viện Chính trị khu vực I đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ giai đoạn hiện nay.

Tài liệu tham khảo:

[1] Ban Chấp hành Trung ương, Nghị quyết số 11-NQ/TW ngày 27/4/2007 của Bộ Chính trị khoá X về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

[2] Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội.

[3] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Tập I, Hà Nội. 

[4] Số liệu thống kê của Ban Tổ chức - Cán bộ, Học viện Chính trị khu vực I, 6/2024.

[5] Số liệu tổng hợp của Ban Quản lý khoa học và Hợp tác quốc tế (6/2024), Học viện Chính trị khu vực I.

Đọc thêm

Hoàn thiện thể chế về kinh tế số ở Việt Nam: Thực trạng và giải pháp

Tác giả: NGUYỄN THỊ THÙY DUNG

(GDLL) - Hoàn thiện thể chế về kinh tế số là một nội dung rất cấp thiết nhằm thúc đẩy chuyển đổi số quốc gia và phát triển kinh tế số ở Việt Nam. Trên cơ sở khái quát khung lý thuyết thể chế về kinh tế số, bài viết phân tích thực trạng nội dung này ở Việt Nam thời gian qua, đồng thời chỉ ra những hạn chế còn tồn tại, từ đó đề xuất giải pháp nhằm hoàn thiện thể chế về kinh tế số ở Việt Nam trong thời gian tới.

Một số giải pháp nâng cao hiệu quả công tác xây dựng cấp xã đạt chuẩn tiếp cận pháp luật ở tỉnh Nam Định

Tác giả: NGUYỄN ĐÌNH QUỲNH - TRẦN HOÀI THU

(GDLL) - Việc xây dựng xã, phường, thị trấn đạt chuẩn tiếp cận pháp luật có tác động trực tiếp đến hoạt động của chính quyền các cấp, nhất là cấp xã, nắm rõ được điều đó, cấp ủy đảng, chính quyền trên địa bàn tỉnh Nam Định quan tâm, chỉ đạo, tổ chức và triển khai hiệu quả. Bài viết trình bày nội dung, thành tựu và hạn chế của việc xây dựng cấp xã đạt chuẩn tiếp cận pháp luật ở tỉnh Nam Định từ đó đưa ra một số giải pháp để nâng cao hiệu quả công tác này trong giai đoạn hiện nay.

Phát triển du lịch cộng đồng trên cơ sở văn hóa tộc người nhằm tạo sinh kế bền vững cho đồng bào dân tộc thiểu số vùng Tây Bắc

Tác giả: TRỊNH VƯƠNG CƯỜNG

(GDLL) - Với lợi thế có nhiều phong cảnh thiên nhiên tươi đẹp, môi trường sinh thái trong lành và sự phong phú, đa dạng, độc đáo của bản sắc văn hóa các tộc người, Tây Bắc đã xây dựng và đưa vào khai thác nhiều làng, bản du lịch cộng đồng thu hút được nhiều du khách, đem lại sinh kế, góp phần xóa đói, giảm nghèo, nâng cao thu nhập cho người dân địa phương. Tuy nhiên, du lịch cộng đồng ở Tây Bắc vẫn còn nhiều hạn chế, chưa tương xứng với tiềm năng. Bài viết phân tích tiềm năng văn hóa tộc người và thực trạng phát triển du lịch cộng đồng ở Tây Bắc, từ đó, kiến nghị một số giải pháp nhằm thúc đẩy phát triển du lịch cộng đồng nhằm mang lại sinh kế bền vững cho đồng bào các tộc người nơi đây.

Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943 với vấn đề xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc hiện nay

Tác giả: GIANG THỊ HUYỀN

(GDLL) - Ra đời năm 1943, bản Đề cương về văn hóa Việt Nam do đồng chí Trường Chinh khởi thảo và công bố được coi là bản tuyên ngôn, cương lĩnh đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam về văn hóa. Trong suốt 80 năm qua, Đề cương như ngọn đuốc soi đường cho sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam. Nhiều tư tưởng trong bản Đề cương đến nay còn nguyên giá trị, định hướng cho sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước trong giai đoạn mới.

Phát huy vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội trong tái cơ cấu ngành nông nghiệp tại huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang

Tác giả: VƯƠNG HỒNG HÀ - NGUYỄN HÙNG LINH NGA

(GDLL) - Trong thời gian qua, quá trình tái cơ cấu ngành nông nghiệp huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang đã đạt được nhiều kết quả đáng ghi nhận. Cùng với chính quyền địa phương, các tổ chức chính trị - xã hội của huyện đã phát huy vai trò phối hợp trong tổ chức triển khai các nhiệm vụ, giải pháp nhằm thực hiện hiệu quả công cuộc tái cơ cấu ngành nông nghiệp cũng như tái cơ cấu kinh tế toàn huyện.