Khai
mạc Triển lãm Quốc tế lần thứ 7 về điều khiển, tự động hóa
(nguồn
news.vnanet.vn)
Đặt vấn đề
Công
nghiệp hóa là một chủ trương lớn được Đảng lãnh đạo thực hiện từ giữa thế kỷ
XX, khởi xướng từ Đại hội III năm 1960. Trải qua hơn 60 năm thực hiện, sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam trải qua nhiều chặng đường, đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, từng bước
hiện thực hóa mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn
minh. Nhận thức của Đảng về công nghiệp hóa có sự phát triển quan trọng, từng
bước sáng rõ hơn và mang lại những thành công lớn hơn cho sự nghiệp Đổi mới.
Trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang phát triển mạnh mẽ, tạo
động lực thúc đẩy khoa học và công nghệ phát triển với tốc độ nhanh hơn, quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa của Việt Nam đón nhận nhiều thuận lợi song
cũng không ít những thách thức. Thực tiễn đặt ra yêu cầu cần tiếp tục phát triển
nhận thức về quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong bối cảnh mới để tiếp
tục lãnh đạo thành công sự nghiệp Đổi mới đất nước.
1.
Công nghiệp hóa ở Việt Nam trước năm 1986
Công
nghiệp hóa là chủ trương xuyên suốt và nhất quán của Đảng và Nhà nước Việt Nam.
Về tính tất yếu của công nghiệp hóa trong tiến trình xây dựng đất nước luôn được
Đảng coi là nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Ngay
tại Hội nghị trung ương 14 khóa II (năm 1958): Đảng khẳng định "...phải
phát triển công nghiệp, nâng cao dần tỷ trọng của công nghiệp trong tổng giá trị
sản xuất nông nghiệp và công nghiệp, để nâng cao năng lực sản xuất xã hội, cải
thiện đời sống của nhân dân và củng cố liên minh công nông vững chắc" [2, t19, tr. 477]. Đại
hội III (9-1960), Đảng khẳng định: "...lấy phát triển công nghiệp làm nhiệm
vụ trung tâm, thực hiện công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa nước nhà, xây dựng cơ
sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội'' [2, t21, tr.159]. Đất nước thống nhất, Đại
hội IV tiếp tục khẳng định "đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa là
nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội" [2, t37, tr.792].
Những
quan điểm, chủ trương công nghiệp hoá của Đảng trước năm 1986 đã tạo ra được cơ
sở vật chất - kỹ thuật bước đầu cho chủ nghĩa xã hội. Công nghiệp được xây dựng
nhưng còn chiếm tỉ trọng nhỏ trong cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động, kỹ thuật
và công nghệ lạc hậu, hiệu quả rất thấp[9, tr.312]. Nước ta có công nghệ ở trình độ
thấp, hệ thống thiết bị lạc hậu từ 2 đến 4 thế hệ so với thế giới, chắp vá từ
nhiều nguồn và còn thô sơ (chỉ tiêu tự động hoá chưa đạt 20%). Do vậy tiêu hao
nǎng lượng cao, ô nhiễm môi trường, nǎng suất, chất lượng hàng hoá thấp, khả
nǎng cạnh tranh kém. Nǎng suất lao động công nghiệp chỉ đạt mức 30% mức trung
bình của thế giới...[10].
Sự bất cập và những hạn chế này đặt ra yêu cầu đổi mới tư duy lý luận của Đảng
về công nghiệp hóa gắn với hiện đại hóa thời kỳ Đổi mới.
2. Sự phát triển nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về công nghiệp
hóa, hiện đại hóa thời kỳ Đổi mới
Bối cảnh
của CNH, HĐH thời kỳ Đổi mới có những đặc điểm quan trọng. Cách mạng công nghiệp
lần thứ tư với những thành tựu vượt bậc đã làm cho công nghiệp hóa gắn liền với
hiện đại hóa. Thúc đẩy sự tăng trưởng thu nhập toàn cầu, cải thiện chất lượng
cuộc sống người dân trên toàn thế giới. Điều đó khiến các quốc gia cần phát triển
công nghiệp và chuyển dịch cơ cấu trong từng ngành, từng lĩnh vực và toàn bộ đời
sống kinh tế xã hội theo hướng hiện đại. Công nghiệp hóa ở các nước đang phát
triển không đi theo trình tự như trước, có thể phát triển rút ngắn, tranh thủ lợi
thế sớm trở thành nước có nền kinh tế hiện đại.
Nhận thức
của Đảng Cộng sản Việt Nam về CNH, HĐH bước đầu được định hình và từng bước được
bổ sung, hoàn thiện. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng năm 1986 là
bước ngoặt có tính lịch sử quan trọng, đột phá về đổi mới tư duy; từng bước xóa
bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, hình thành cơ chế kinh tế thị trường định
hướng XHCN, thực hiện đường lối Đổi mới và tiến hành CNH, HĐH đất nước. Từ Đại
hội VI đến Đại hội XIII, Đảng đã không ngừng đổi mới tư duy nhận thức về CNH,
HĐH, sát với tình hình quốc tế và trong nước. Lần đầu tiên Đảng đưa ra định
nghĩa về công nghiệp hóa, hiện đại hóa tại Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khóa VII (7/1994): "Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là quá
trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ
và quản lý kinh tế, xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một
cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên
tiến, hiện đại, dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học -
công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao" [1, tr.1]. Đây là bước tiến trong tư duy lý
luận về công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Đảng đã chuyển từ quan niệm công nghiệp
hóa truyền thống sang quan niệm “công nghiệp hóa đất nước theo hướng hiện đại".
Tính tất yếu của công nghiệp hóa được Đảng tiếp tục khẳng định trong suốt
thời kỳ Đổi mới, từ Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội (1991) đến Cương lĩnh bổ sung và phát triển (2011) và văn kiện Đại
hội XIII (năm 2021), "nhiệm vụ trung tâm của chiến lược phát triển kinh tế
- xã hội" [5, tr.2].
Nhiệm kỳ
Đại hội XIII, Đảng xác định "Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước là quá
trình chuyển đổi căn bản, toàn diện nền kinh tế và đời sống xã hội"[5, tr 2].
Về mục tiêu, công nghiệp hóa, hiện đại hóa hướng tới sự phát triển bền vững. Thời
kỳ đầu đổi mới, khủng hoảng kinh tế xã hội nghiêm trọng, Đảng nhấn mạnh “mục tiêu
tổng quát của những năm còn lại của chặng đường đầu tiên là ổn định mọi mặt
tình hình kinh tế - xã hội, tiếp tục xây dựng những tiền đề cần thiết cho việc
đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa trong chặng đường tiếp theo” [2, t47, tr.376]. Sau
10 năm đổi mới, đất nước bước sang thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, Đại hội VIII đề ra “Mục tiêu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa là xây dựng
nước ta thành một nước công nghiệp cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại, cơ cấu
kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng, an ninh vững chắc,
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Từ nay đến năm 2020, ra sức phấn
đấu đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp” [4, tr.316]. Các nhiệm kỳ Đại hội IX, X, XI
hướng tới mục tiêu "tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành
nước công nghiệp theo hướng hiện đại" [3, tr.33]. Đại hội XII của Đảng không đặt
ra lộ trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa bằng một mốc thời gian cụ thể như các
đại hội trước mà chỉ rõ “phát triển nhanh, bền vững, phấn đấu sớm đưa nước ta
cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại” [5, tr.21]. Tuy nhiên, "Một số tiêu chí
phát triển kinh tế - xã hội trong chiến lược 2011-2020 và việc tạo nền tảng để
đưa đất nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại chưa đạt
được mục tiêu đề ra" [7,
tr.103]. Tại Đại hội XIII, Đảng xác định "phấn đấu đến giữa
thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ
nghĩa"[7, tr. 112]
Như vậy,
công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam là nhằm xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật
của chủ nghĩa xã hội dựa trên một nền khoa học và công nghệ tiên tiến, tạo ra lực
lượng sản xuất mới với quan hệ sản xuất ngày càng tiến bộ, phù hợp với trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất, cải thiện đời sống vật chất, thực hiện dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, trở thành nước phát triển theo định
hướng xã hội chủ nghĩa.
Về cách thức tiến hành, từ Đại hội VI với
việc đổi mới toàn diện, Đảng tập trung vào nội dung: “xây dựng những tiền đề cần
thiết cho việc đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa trong chặng đường tiếp
theo” [2, t 47, tr.376].
Đó là tập trung thực hiện ba chương trình kinh tế lớn: Lương thực - thực phẩm,
hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu” [2,
t47, tr.384]. Đại hội VII đánh dấu sự phát triển tư duy của Đảng,
Cương lĩnh năm 1991 đã xác định: "Phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp
hóa đất nước theo hướng hiện đại gắn liền với phát triển một nền nông nghiệp
toàn diện là nhiệm vụ trung tâm nhằm từng bước xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật
của chủ nghĩa xã hội" [6,
tr.425]. Chuyển từ tư duy cải biến cơ sở vật chất trong quá trình
công nghiệp hóa theo hướng “ưu tiên phát triển công nghiệp nặng” sang tư duy
công nghiệp hóa gắn với hiện đại hóa (từ Đại hội VIII), công nghiệp hóa và hiện
đại hóa luôn đi đôi với nhau.
Việc gắn
hiện đại hóa với công nghiệp hóa thể hiện sự phát triển tư duy về công nghiệp
hóa của Đảng theo đúng bản chất và yêu cầu của công nghiệp hóa. Công nghiệp hóa
phải là quá trình ứng dụng công nghệ mới ngày càng hiện đại vào hoạt động kinh
tế và đời sống xã hội nhằm cải biến phương thức lao động từ thủ công, lạc hậu tới
tiên tiến, hiện đại, tạo ra năng suất lao động ngày càng cao, sự phát triển của
tư duy “rút ngắn, hiện đại” trong quá trình cải biến yếu tố vật chất - kỹ thuật.
Đại hội X xác định rõ hơn 3 nội dung chính của quan điểm này: ưu tiên hội nhập,
tận dụng tiềm năng và lợi thế so sánh của đất nước, và nhấn mạnh vai trò của
kinh tế tri thức. Đại hội XI đã đặt quá trình công nghiệp hóa rút ngắn trong mối
quan hệ với phát triển bền vững. Đến Đại hội XII, XIII, Đảng nhấn mạnh việc thực
hiện quá trình công nghiệp hóa rút ngắn để sớm đưa Việt Nam trở thành nước công
nghiệp theo hướng hiện đại, dựa "trên nền tảng khoa học công nghệ và đổi mới
sáng tạo" [8, tr. 43],
tận dụng cơ hội của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
Về lực lượng thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Đảng luôn nhấn mạnh
"Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là sự nghiệp của toàn dân, của mọi thành phần
kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước là chủ đạo" [4, tr.437]. Hiện nay, Đảng khẳng định
"Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa là sự nghiệp của toàn dân và cả hệ
thống chính trị, ... doanh nghiệp là chủ thể" [8, tr.2]. Như vậy, động lực CNH, HĐH hóa đất nước là sức mạnh toàn dân dưới sự
lãnh đạo, tổ chức thực hiện của Đảng và Nhà nước.
Những thành
công của CNH, HĐH đã thúc đẩy nền kinh tế nước ta tăng trưởng cao, cải thiện chất
lượng tăng trưởng, đưa nước ta trở thành nước đang phát triển, có thu nhập
trung bình. Quy mô GDP nước ta năm 2020 tăng 1,4 lần so với năm 2015, đạt khoảng
271,2 tỷ USD (theo đánh giá lại, đạt khoảng 343,2 tỷ USD), thu nhập bình quân đầu
người đạt 2.779 USD, gấp 1,3 lần năm 2015 [7, tr.9]. Cơ cấu kinh tế vùng có sự chuyển
dịch theo hướng phát huy các lợi thế so sánh của từng vùng, tăng cường liên kết,
kết nối vùng. Cơ cấu lao động chuyển dịch tích cực theo cơ cấu kinh tế, tốc độ
tăng trưởng GDP toàn ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản giai đoạn 2011 - 2020 đạt
trung bình 3%/năm. Nông nghiệp chuyển dịch theo hướng sản xuất hàng hóa, hiện đại
gắn với thị trường. Công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản được đẩy mạnh; cơ
giới hóa, hiện đại hóa trong sản xuất nông nghiệp được áp dụng rộng rãi, tạo
nhiều thay đổi về phương thức canh tác, năng suất, chất lượng, sức cạnh tranh.
Trình độ khoa học, công nghệ trong sản xuất nông nghiệp từng bước được nâng cao
theo hướng áp dụng công nghệ mới...
3. Một số giải pháp tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa của
Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
Những bước
phát triển nhận thức về CNH, HĐH của Đảng trong thời kỳ Đổi mới đã đem lại những
thành công quan trọng. Để tiếp tục thúc đẩy quá trình này, cần nhận thức rõ những
biến động mới tác động đến lộ trình CNH, HĐH. Tình hình quốc tế tiếp tục diễn
biến nhanh, phức tạp với các xu hướng phát triển mới, đòi hỏi cần được phân
tích, nhận diện rõ, kịp thời đề ra những nhiệm vụ, giải pháp khắc phục khó
khăn, tận dụng cơ hội, thích ứng với bối cảnh mới. Một số xu thế nổi bật tác động
đến phát triển công nghiệp hóa, hiện đại hóa cụ thể như: Đại dịch Covid-19 cho
thấy vai trò quan trọng của các ngành sản xuất công nghiệp trong ứng phó với
các tình huống khủng hoảng; Sự chuyển dịch quyền lực địa kinh tế và điều chỉnh
của toàn cầu hóa; chuyển đổi số và tự động hóa là một trong những xu hướng
chính đang tạo ra những thay đổi căn bản trong quy trình sản xuất công nghiệp
trên thế giới; Xanh hóa các ngành công nghiệp, phát triển các ngành công nghiệp
các-bon thấp là xu thế tất yếu khách quan...
Trên cơ
sở đánh giá các xu hướng, chính sách CNH, HĐH của các quốc gia trong bối cảnh mới,
một số giải pháp đối với quá trình tiếp tục đẩy mạnh CNH, HĐH của Việt Nam giai
đoạn tới như sau:
Thứ nhất, quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa phải kết hợp nhuần nhuyễn, chặt chẽ với việc thực hiện 3 khâu đột phá chiến
lược. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa phải lấy khoa học công nghệ là cốt lõi. Cần
tiếp tục xây dựng, hoàn hiện cơ chế, chính sách phát triển thị trường CNH, HĐH,
huy động mọi nguồn lực và khuyến khích mọi thành phần kinh tế trong và ngoài nước
tham gia hợp tác, đầu tư cho nghiên cứu, phát triển, chuyển giao và đổi mới
công nghệ; đầu tư có trọng tâm, trọng điểm để tạo bứt phá với một số công nghệ
cao. CNH, HĐH phải coi con người là trung tâm. Cần chú trọng phát triển nguồn
nhân lực chất lượng cao, mở rộng, phát huy quyền tự do sáng tạo của đội ngũ trí
thức CNH, HĐH, tạo điều kiện để tiếp cận với những vấn đề mới của CNH, HĐH thế
giới và có môi trường thuận lợi trong nước để phát huy. CNH, HĐH cần lấy nền tảng
phát triển cơ sở hạ tầng là trọng yếu. Cần tập trung đầu tư vào các công trình
trọng điểm, đóng góp trực tiếp cho CNH, HĐH như giao thông vận tải, năng lượng,
công nghiệp phụ trợ, vườn ươm công nghệ cao, trung tâm đổi mới sáng tạo... kiên
quyết loại bỏ đầu tư dàn trải vào những công trình ít hiệu quả, có nguy cơ lạc
hậu, gây lãng phí nguồn lực và làm chậm tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa.
Thứ hai, CNH, HĐH phải luôn duy trì sự gắn
kết chặt chẽ với quá trình hội nhập và hợp tác quốc tế. CNH, HĐH là một trong
những trọng tâm trong quá trình hội nhập và hội nhập để phục vụ CNH, HĐH. Trên
cơ sở “môi trường” nội lực, đẩy mạnh khai thác, tận dụng tối đa các nguồn ngoại
lực, xác định đây là nhân tố tạo đột phá về công nghệ, vốn, quản trị để phát
triển lực lượng sản xuất trong các ngành, lĩnh vực, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu
kinh tế; xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ.
Thứ ba, CNH,
HĐH phải kết hợp hài hòa với bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu.
Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa cần chú trọng bảo vệ môi trường sinh
thái, giảm phát thải, tiết kiệm và sử dụng hiệu quả năng lượng nhằm phát triển
bền vững hơn, ứng phó với biến đổi khí hậu, bảo đảm an ninh năng lượng. Ngược lại,
CNH, HĐH cần tận dụng, khai thác nhân tố xanh, phát triển bền vững, khuyến
khích doanh nghiệp coi đây là lợi thế cạnh tranh mới, nhằm tận dụng cơ hội huy
động và thu hút nguồn lực quốc tế.
Thứ tư, trong
điều kiện mới, gắn CNH, HĐH với phát triển kinh tế tri thức và kinh tế số là xu
hướng lựa chọn tối ưu của các nước đang phát triển. Những nước tiến hành công
nghiệp hóa từ một nền kinh tế nông nghiệp sẽ đồng thời phải tiến hành hai quá
trình: (i) chuyển
từ nền kinh tế nông nghiệp lên kinh tế công nghiệp (công nghiệp hóa, hiện đại
hóa); (ii) chuyển
từ kinh tế nông - công nghiệp lên kinh tế tri thức, kinh tế số. Đối với các nước
đi trước, đó là hai quá trình kế tiếp nhau thì ở các nước đi sau, hai quá trình
này cần phải lồng ghép với nhau, kết hợp các bước đi tuần tự với các bước nhảy
vọt. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức và kinh
tế số là một quá trình tích hợp, phải thực hiện cùng lúc nhiều lộ trình, hướng
tới đa mục tiêu.
Kết luận
Nhất quán chủ trương lấy CNH, HĐH là nhiệm vụ trung tâm
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, trước những biến đổi của bối cảnh quốc
tế và trong nước, Đảng Cộng sản Việt Nam đã định hình, phát triển nhận thức và
từng bước hình thành đường lối CNH, HĐH thời kỳ Đổi mới. Với những thành tựu to
lớn của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, công nghiệp hóa, hiện đại hóa
không thể tách rời khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo. Quá trình CNH, HĐH sẽ
là trụ cột cho quá trình phát triển của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay và
trong tương lai, hiện thực hóa mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng,
văn minh.
Tài
liệu tham khảo:
[1] Đảng
Cộng sản Việt Nam (1994), Nghị quyết số
07-NQ/HNTW ngày 30/7/1994, về phát triển công nghiệp, công nghệ đến năm 2000
theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và xây dựng giai cấp công
nhân trong giai đoạn mới,
https://tulieuvankien.dangcongsan.vn.
[2] Đảng
Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Đảng toàn
tập, tập 19, 21, 37, 47, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
[3] Đảng
Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
[4] Đảng
Cộng sản Việt Nam (2015), Văn kiện Đảng toàn
tập, tập 55, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
[5] Đảng
Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
[6] Đảng Cộng sản Việt Nam (2018), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 69, Nxb Chính
trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
[7] Đảng
Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, Nxb. Chính trị quốc gia sự thật,
Hà Nội.
[8] Đảng
Cộng sản Việt Nam (2022), Nghị quyết số
29-NQ/TW ngày 17/11/2022 Về tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045,
https://tulieuvankien.dangcongsan.vn.
[9] Học
viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh (2008), Quá trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng từ năm 1986
đến nay (sách chuyên khảo), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
[10]
https://tulieuvankien.dangcongsan.vn