Thứ Hai, ngày 02/12/2024, 18:10

Sự phát triển nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong thời kỳ đổi mới

Trần Thị Thúy Hà
Học viện Chính trị khu vực I.

(GDLL) - Công nghiệp hóa, hiện đại hóa được Đảng Cộng sản Việt Nam xác định là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Bài viết tìm hiểu sự phát triển nhận thức của Đảng về công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong thời kỳ Đổi mới từ năm 1986 đến nay, xuất phát từ thực tiễn đất nước, xu thế thế giới tác động đến quá trình này.

Khai mạc Triển lãm Quốc tế lần thứ 7 về điều khiển, tự động hóa

(nguồn news.vnanet.vn)

Đặt vấn đề

Công nghiệp hóa là một chủ trương lớn được Đảng lãnh đạo thực hiện từ giữa thế kỷ XX, khởi xướng từ Đại hội III năm 1960. Trải qua hơn 60 năm thực hiện, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trải qua nhiều chặng đường, đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, từng bước hiện thực hóa mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh. Nhận thức của Đảng về công nghiệp hóa có sự phát triển quan trọng, từng bước sáng rõ hơn và mang lại những thành công lớn hơn cho sự nghiệp Đổi mới. Trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang phát triển mạnh mẽ, tạo động lực thúc đẩy khoa học và công nghệ phát triển với tốc độ nhanh hơn, quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa của Việt Nam đón nhận nhiều thuận lợi song cũng không ít những thách thức. Thực tiễn đặt ra yêu cầu cần tiếp tục phát triển nhận thức về quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong bối cảnh mới để tiếp tục lãnh đạo thành công sự nghiệp Đổi mới đất nước.

1. Công nghiệp hóa ở Việt Nam trước năm 1986

Công nghiệp hóa là chủ trương xuyên suốt và nhất quán của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Về tính tất yếu của công nghiệp hóa trong tiến trình xây dựng đất nước luôn được Đảng coi là nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Ngay tại Hội nghị trung ương 14 khóa II (năm 1958): Đảng khẳng định "...phải phát triển công nghiệp, nâng cao dần tỷ trọng của công nghiệp trong tổng giá trị sản xuất nông nghiệp và công nghiệp, để nâng cao năng lực sản xuất xã hội, cải thiện đời sống của nhân dân và củng cố liên minh công nông vững chắc" [2, t19, tr. 477]. Đại hội III (9-1960), Đảng khẳng định: "...lấy phát triển công nghiệp làm nhiệm vụ trung tâm, thực hiện công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa nước nhà, xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội'' [2, t21, tr.159]. Đất nước thống nhất, Đại hội IV tiếp tục khẳng định "đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội" [2, t37, tr.792]

Những quan điểm, chủ trương công nghiệp hoá của Đảng trước năm 1986 đã tạo ra được cơ sở vật chất - kỹ thuật bước đầu cho chủ nghĩa xã hội. Công nghiệp được xây dựng nhưng còn chiếm tỉ trọng nhỏ trong cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động, kỹ thuật và công nghệ lạc hậu, hiệu quả rất thấp[9, tr.312]. Nước ta có công nghệ ở trình độ thấp, hệ thống thiết bị lạc hậu từ 2 đến 4 thế hệ so với thế giới, chắp vá từ nhiều nguồn và còn thô sơ (chỉ tiêu tự động hoá chưa đạt 20%). Do vậy tiêu hao nǎng lượng cao, ô nhiễm môi trường, nǎng suất, chất lượng hàng hoá thấp, khả nǎng cạnh tranh kém. Nǎng suất lao động công nghiệp chỉ đạt mức 30% mức trung bình của thế giới...[10]. Sự bất cập và những hạn chế này đặt ra yêu cầu đổi mới tư duy lý luận của Đảng về công nghiệp hóa gắn với hiện đại hóa thời kỳ Đổi mới.

2. Sự phát triển nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về công nghiệp hóa, hiện đại hóa thời kỳ Đổi mới

Bối cảnh của CNH, HĐH thời kỳ Đổi mới có những đặc điểm quan trọng. Cách mạng công nghiệp lần thứ tư với những thành tựu vượt bậc đã làm cho công nghiệp hóa gắn liền với hiện đại hóa. Thúc đẩy sự tăng trưởng thu nhập toàn cầu, cải thiện chất lượng cuộc sống người dân trên toàn thế giới. Điều đó khiến các quốc gia cần phát triển công nghiệp và chuyển dịch cơ cấu trong từng ngành, từng lĩnh vực và toàn bộ đời sống kinh tế xã hội theo hướng hiện đại. Công nghiệp hóa ở các nước đang phát triển không đi theo trình tự như trước, có thể phát triển rút ngắn, tranh thủ lợi thế sớm trở thành nước có nền kinh tế hiện đại.

Nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về CNH, HĐH bước đầu được định hình và từng bước được bổ sung, hoàn thiện. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng năm 1986 là bước ngoặt có tính lịch sử quan trọng, đột phá về đổi mới tư duy; từng bước xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, hình thành cơ chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, thực hiện đường lối Đổi mới và tiến hành CNH, HĐH đất nước. Từ Đại hội VI đến Đại hội XIII, Đảng đã không ngừng đổi mới tư duy nhận thức về CNH, HĐH, sát với tình hình quốc tế và trong nước. Lần đầu tiên Đảng đưa ra định nghĩa về công nghiệp hóa, hiện đại hóa tại Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII (7/1994): "Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học - công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao" [1, tr.1]. Đây là bước tiến trong tư duy lý luận về công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Đảng đã chuyển từ quan niệm công nghiệp hóa truyền thống sang quan niệm “công nghiệp hóa đất nước theo hướng hiện đại".

Tính tất yếu của công nghiệp hóa được Đảng tiếp tục khẳng định trong suốt thời kỳ Đổi mới, từ Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (1991) đến Cương lĩnh bổ sung và phát triển (2011) và văn kiện Đại hội XIII (năm 2021), "nhiệm vụ trung tâm của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội" [5, tr.2].

Nhiệm kỳ Đại hội XIII, Đảng xác định "Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện nền kinh tế và đời sống xã hội"[5, tr 2].

Về mục tiêu, công nghiệp hóa, hiện đại hóa hướng tới sự phát triển bền vững. Thời kỳ đầu đổi mới, khủng hoảng kinh tế xã hội nghiêm trọng, Đảng nhấn mạnh “mục tiêu tổng quát của những năm còn lại của chặng đường đầu tiên là ổn định mọi mặt tình hình kinh tế - xã hội, tiếp tục xây dựng những tiền đề cần thiết cho việc đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa trong chặng đường tiếp theo” [2, t47, tr.376]. Sau 10 năm đổi mới, đất nước bước sang thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Đại hội VIII đề ra “Mục tiêu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa là xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng, an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Từ nay đến năm 2020, ra sức phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp” [4, tr.316]. Các nhiệm kỳ Đại hội IX, X, XI hướng tới mục tiêu "tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại" [3, tr.33]. Đại hội XII của Đảng không đặt ra lộ trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa bằng một mốc thời gian cụ thể như các đại hội trước mà chỉ rõ “phát triển nhanh, bền vững, phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại” [5, tr.21]. Tuy nhiên, "Một số tiêu chí phát triển kinh tế - xã hội trong chiến lược 2011-2020 và việc tạo nền tảng để đưa đất nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại chưa đạt được mục tiêu đề ra" [7, tr.103]. Tại Đại hội XIII, Đảng xác định "phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa"[7, tr. 112]

Như vậy, công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam là nhằm xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội dựa trên một nền khoa học và công nghệ tiên tiến, tạo ra lực lượng sản xuất mới với quan hệ sản xuất ngày càng tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, cải thiện đời sống vật chất, thực hiện dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, trở thành nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Về cách thức tiến hành, từ Đại hội VI với việc đổi mới toàn diện, Đảng tập trung vào nội dung: “xây dựng những tiền đề cần thiết cho việc đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa trong chặng đường tiếp theo” [2, t 47, tr.376]. Đó là tập trung thực hiện ba chương trình kinh tế lớn: Lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu” [2, t47, tr.384]. Đại hội VII đánh dấu sự phát triển tư duy của Đảng, Cương lĩnh năm 1991 đã xác định: "Phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hóa đất nước theo hướng hiện đại gắn liền với phát triển một nền nông nghiệp toàn diện là nhiệm vụ trung tâm nhằm từng bước xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội" [6, tr.425]. Chuyển từ tư duy cải biến cơ sở vật chất trong quá trình công nghiệp hóa theo hướng “ưu tiên phát triển công nghiệp nặng” sang tư duy công nghiệp hóa gắn với hiện đại hóa (từ Đại hội VIII), công nghiệp hóa và hiện đại hóa luôn đi đôi với nhau.

Việc gắn hiện đại hóa với công nghiệp hóa thể hiện sự phát triển tư duy về công nghiệp hóa của Đảng theo đúng bản chất và yêu cầu của công nghiệp hóa. Công nghiệp hóa phải là quá trình ứng dụng công nghệ mới ngày càng hiện đại vào hoạt động kinh tế và đời sống xã hội nhằm cải biến phương thức lao động từ thủ công, lạc hậu tới tiên tiến, hiện đại, tạo ra năng suất lao động ngày càng cao, sự phát triển của tư duy “rút ngắn, hiện đại” trong quá trình cải biến yếu tố vật chất - kỹ thuật. Đại hội X xác định rõ hơn 3 nội dung chính của quan điểm này: ưu tiên hội nhập, tận dụng tiềm năng và lợi thế so sánh của đất nước, và nhấn mạnh vai trò của kinh tế tri thức. Đại hội XI đã đặt quá trình công nghiệp hóa rút ngắn trong mối quan hệ với phát triển bền vững. Đến Đại hội XII, XIII, Đảng nhấn mạnh việc thực hiện quá trình công nghiệp hóa rút ngắn để sớm đưa Việt Nam trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại, dựa "trên nền tảng khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo" [8, tr. 43], tận dụng cơ hội của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.

Về lực lượng thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Đảng luôn nhấn mạnh "Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là sự nghiệp của toàn dân, của mọi thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước là chủ đạo" [4, tr.437]. Hiện nay, Đảng khẳng định "Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa là sự nghiệp của toàn dân và cả hệ thống chính trị, ... doanh nghiệp là chủ thể" [8, tr.2]. Như vậy, động lực CNH, HĐH hóa đất nước là sức mạnh toàn dân dưới sự lãnh đạo, tổ chức thực hiện của Đảng và Nhà nước. 

Những thành công của CNH, HĐH đã thúc đẩy nền kinh tế nước ta tăng trưởng cao, cải thiện chất lượng tăng trưởng, đưa nước ta trở thành nước đang phát triển, có thu nhập trung bình. Quy mô GDP nước ta năm 2020 tăng 1,4 lần so với năm 2015, đạt khoảng 271,2 tỷ USD (theo đánh giá lại, đạt khoảng 343,2 tỷ USD), thu nhập bình quân đầu người đạt 2.779 USD, gấp 1,3 lần năm 2015 [7, tr.9]. Cơ cấu kinh tế vùng có sự chuyển dịch theo hướng phát huy các lợi thế so sánh của từng vùng, tăng cường liên kết, kết nối vùng. Cơ cấu lao động chuyển dịch tích cực theo cơ cấu kinh tế, tốc độ tăng trưởng GDP toàn ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản giai đoạn 2011 - 2020 đạt trung bình 3%/năm. Nông nghiệp chuyển dịch theo hướng sản xuất hàng hóa, hiện đại gắn với thị trường. Công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản được đẩy mạnh; cơ giới hóa, hiện đại hóa trong sản xuất nông nghiệp được áp dụng rộng rãi, tạo nhiều thay đổi về phương thức canh tác, năng suất, chất lượng, sức cạnh tranh. Trình độ khoa học, công nghệ trong sản xuất nông nghiệp từng bước được nâng cao theo hướng áp dụng công nghệ mới...

3. Một số giải pháp tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay

Những bước phát triển nhận thức về CNH, HĐH của Đảng trong thời kỳ Đổi mới đã đem lại những thành công quan trọng. Để tiếp tục thúc đẩy quá trình này, cần nhận thức rõ những biến động mới tác động đến lộ trình CNH, HĐH. Tình hình quốc tế tiếp tục diễn biến nhanh, phức tạp với các xu hướng phát triển mới, đòi hỏi cần được phân tích, nhận diện rõ, kịp thời đề ra những nhiệm vụ, giải pháp khắc phục khó khăn, tận dụng cơ hội, thích ứng với bối cảnh mới. Một số xu thế nổi bật tác động đến phát triển công nghiệp hóa, hiện đại hóa cụ thể như: Đại dịch Covid-19 cho thấy vai trò quan trọng của các ngành sản xuất công nghiệp trong ứng phó với các tình huống khủng hoảng; Sự chuyển dịch quyền lực địa kinh tế và điều chỉnh của toàn cầu hóa; chuyển đổi số và tự động hóa là một trong những xu hướng chính đang tạo ra những thay đổi căn bản trong quy trình sản xuất công nghiệp trên thế giới; Xanh hóa các ngành công nghiệp, phát triển các ngành công nghiệp các-bon thấp là xu thế tất yếu khách quan...

Trên cơ sở đánh giá các xu hướng, chính sách CNH, HĐH của các quốc gia trong bối cảnh mới, một số giải pháp đối với quá trình tiếp tục đẩy mạnh CNH, HĐH của Việt Nam giai đoạn tới như sau: 

Thứ nhất, quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa phải kết hợp nhuần nhuyễn, chặt chẽ với việc thực hiện 3 khâu đột phá chiến lược. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa phải lấy khoa học công nghệ là cốt lõi. Cần tiếp tục xây dựng, hoàn hiện cơ chế, chính sách phát triển thị trường CNH, HĐH, huy động mọi nguồn lực và khuyến khích mọi thành phần kinh tế trong và ngoài nước tham gia hợp tác, đầu tư cho nghiên cứu, phát triển, chuyển giao và đổi mới công nghệ; đầu tư có trọng tâm, trọng điểm để tạo bứt phá với một số công nghệ cao. CNH, HĐH phải coi con người là trung tâm. Cần chú trọng phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, mở rộng, phát huy quyền tự do sáng tạo của đội ngũ trí thức CNH, HĐH, tạo điều kiện để tiếp cận với những vấn đề mới của CNH, HĐH thế giới và có môi trường thuận lợi trong nước để phát huy. CNH, HĐH cần lấy nền tảng phát triển cơ sở hạ tầng là trọng yếu. Cần tập trung đầu tư vào các công trình trọng điểm, đóng góp trực tiếp cho CNH, HĐH như giao thông vận tải, năng lượng, công nghiệp phụ trợ, vườn ươm công nghệ cao, trung tâm đổi mới sáng tạo... kiên quyết loại bỏ đầu tư dàn trải vào những công trình ít hiệu quả, có nguy cơ lạc hậu, gây lãng phí nguồn lực và làm chậm tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Thứ hai, CNH, HĐH phải luôn duy trì sự gắn kết chặt chẽ với quá trình hội nhập và hợp tác quốc tế. CNH, HĐH là một trong những trọng tâm trong quá trình hội nhập và hội nhập để phục vụ CNH, HĐH. Trên cơ sở “môi trường” nội lực, đẩy mạnh khai thác, tận dụng tối đa các nguồn ngoại lực, xác định đây là nhân tố tạo đột phá về công nghệ, vốn, quản trị để phát triển lực lượng sản xuất trong các ngành, lĩnh vực, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế; xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ.

Thứ ba, CNH, HĐH phải kết hợp hài hòa với bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu. Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa cần chú trọng bảo vệ môi trường sinh thái, giảm phát thải, tiết kiệm và sử dụng hiệu quả năng lượng nhằm phát triển bền vững hơn, ứng phó với biến đổi khí hậu, bảo đảm an ninh năng lượng. Ngược lại, CNH, HĐH cần tận dụng, khai thác nhân tố xanh, phát triển bền vững, khuyến khích doanh nghiệp coi đây là lợi thế cạnh tranh mới, nhằm tận dụng cơ hội huy động và thu hút nguồn lực quốc tế.

Thứ tư, trong điều kiện mới, gắn CNH, HĐH với phát triển kinh tế tri thức và kinh tế số là xu hướng lựa chọn tối ưu của các nước đang phát triển. Những nước tiến hành công nghiệp hóa từ một nền kinh tế nông nghiệp sẽ đồng thời phải tiến hành hai quá trình: (i) chuyển từ nền kinh tế nông nghiệp lên kinh tế công nghiệp (công nghiệp hóa, hiện đại hóa); (ii) chuyển từ kinh tế nông - công nghiệp lên kinh tế tri thức, kinh tế số. Đối với các nước đi trước, đó là hai quá trình kế tiếp nhau thì ở các nước đi sau, hai quá trình này cần phải lồng ghép với nhau, kết hợp các bước đi tuần tự với các bước nhảy vọt. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức và kinh tế số là một quá trình tích hợp, phải thực hiện cùng lúc nhiều lộ trình, hướng tới đa mục tiêu.

Kết luận

Nhất quán chủ trương lấy CNH, HĐH là nhiệm vụ trung tâm trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, trước những biến đổi của bối cảnh quốc tế và trong nước, Đảng Cộng sản Việt Nam đã định hình, phát triển nhận thức và từng bước hình thành đường lối CNH, HĐH thời kỳ Đổi mới. Với những thành tựu to lớn của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, công nghiệp hóa, hiện đại hóa không thể tách rời khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo. Quá trình CNH, HĐH sẽ là trụ cột cho quá trình phát triển của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay và trong tương lai, hiện thực hóa mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Tài liệu tham khảo:

[1] Đảng Cộng sản Việt Nam (1994), Nghị quyết số 07-NQ/HNTW ngày 30/7/1994, về phát triển công nghiệp, công nghệ đến năm 2000 theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và xây dựng giai cấp công nhân trong giai đoạn mới, https://tulieuvankien.dangcongsan.vn. 

[2] Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 19, 21, 37, 47, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

[3] Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

[4] Đảng Cộng sản Việt Nam (2015), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 55, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

[5] Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

[6] Đảng Cộng sản Việt Nam (2018), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 69, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

[7] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, Nxb. Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội.

[8] Đảng Cộng sản Việt Nam (2022), Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 17/11/2022 Về tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, https://tulieuvankien.dangcongsan.vn. 

[9] Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh (2008), Quá trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng từ năm 1986 đến nay (sách chuyên khảo), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

[10] https://tulieuvankien.dangcongsan.vn 

Đọc thêm

Việt Nam tích cực, chủ động hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng góp phần bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa trong tình hình mới

Tác giả: NGUYỄN ĐỨC HẠNH

(GDLL) - Hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng là một xu thế tất yếu, hàm chứa cả cơ hội và thách thức đối với các quốc gia trên con đường phát triển. Trong những năm qua, Việt Nam luôn tích cực, chủ động hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng góp phần quan trọng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa từ sớm, từ xa. Trên cơ sở khái quát bối cảnh tình hình tác động và những kết quả nổi bật trong tích cực, chủ động hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng những năm qua bài viết đề xuất một số giải pháp nhằm thực hiện có hiệu quả việc tích cực, chủ động hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng của Việt Nam trong tình hình mới.

Bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc trong đường lối đối ngoại thời kỳ đổi mới của Việt Nam

Tác giả: NGUYỄN ANH CƯỜNG - HOÀNG ANH TÚ - TRIỆU THANH CHÚC

(GDLL) - Trên cơ sở nghiên cứu lý luận về lợi ích quốc gia - dân tộc, bài viết phân tích sự kiên định về lợi ích quốc gia - dân tộc trong đường lối đối ngoại thời kỳ đổi mới của Việt Nam và khẳng định việc bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc trong chính sách đối ngoại của Việt Nam là hoàn toàn đúng đắn.

Phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số ở Việt Nam hiện nay: Thực trạng và khuyến nghị

Tác giả: PHẠM TÚ TÀI - CHU THỊ LÊ ANH

(GDLL) - Phát triển mạnh khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số được Đảng xác định là động lực chính của tăng trưởng kinh tế trong giai đoạn hiện nay. Bài viết phân tích cơ sở lý luận và thực tiễn về tăng trưởng kinh tế dựa vào khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số làm cơ sở khẳng định đây là động lực mới, quan trọng cho tăng trưởng kinh tế và phát triển bền vững. Đồng thời, bài viết cũng tập trung đánh giá thực trạng, đề xuất một số kiến nghị, giải pháp thúc đẩy phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số ở Việt Nam trong thời gian tới.

Quan điểm chỉ đạo của Đảng về xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong Nghị quyết 27-NQ/TW

Tác giả: TRẦN THỊ THANH MAI

(GDLL) - Sự ra đời của Nghị quyết số 27- NQ/TW Hội nghị Trung ương 6 khóa XIII ngày 09/11/2022 Về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Bài viết tập trung làm rõ một số quan điểm chỉ đạo của Đảng về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, qua đó thấy được giá trị lý luận và thực tiễn của Nghị quyết.

Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về bảo vệ an ninh quốc gia trong thời kỳ mới

Tác giả: NGUYỄN VĂN NGHĨA

(GDLL) - An ninh quốc gia và bảo vệ an ninh quốc gia là vấn đề hệ trọng của mỗi quốc gia, dân tộc. Hiện nay, Việt Nam đang phải đối diện với nhiều thách thức trong lĩnh vực an ninh quốc gia, trong đó có cả những vấn đề an ninh truyền thống và an ninh phi truyền thống. Công tác bảo vệ an ninh quốc gia là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên, được Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm lãnh đạo, nhất là trong thời kỳ đổi mới hiện nay. Bài viết khái quát quan điểm của Đảng về bảo vệ an ninh quốc gia, thực tiễn về bảo vệ an ninh quốc gia và đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm thực hiện tốt nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia trong thời kỳ mới.