Ngày
hội Đại đoàn kết toàn dân tộc tại huyện Sìn Hồ, Lai Châu
(nguồn
news.vnanet.vn)
Đặt vấn đề
Kết hợp
sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại là bài học lớn, xuyên suốt của Đảng
trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong
thời kỳ đổi mới, nhận thức và sự lãnh đạo của Đảng về kết hợp sức mạnh dân tộc
với sức mạnh thời đại tiếp tục được bổ sung, hoàn thiện, góp phần nâng cao thế
và lực của đất nước. Tuy nhiên, bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế hiện
nay đang đặt ra những yêu cầu mới, đòi hỏi Đảng phải nâng cao nhận thức, tăng
cường sự lãnh đạo về phát huy sức mạnh dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại để
củng cố, tăng cường sức mạnh quốc gia, tích cực, chủ động hội nhập quốc tế sâu
rộng và hiệu quả.
1. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về kết hợp sức mạnh dân tộc với
sức mạnh thời đại trong thời kỳ đổi mới
Từ khi
ra đời và lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam xác định kết hợp sức mạnh
dân tộc với sức mạnh thời đại là nhiệm vụ trọng yếu, căn cốt để huy động tối đa
mọi nguồn lực của dân tộc, tạo thành sức mạnh tổng hợp đưa đất nước vượt qua
muôn vàn khó khăn, thử thách. Nhờ kết hợp chặt chẽ sức mạnh dân tộc với sức mạnh
thời đại, Đảng đã lãnh đạo nhân dân đấu tranh chống mọi kẻ thù xâm lược, bảo vệ
vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Bước
vào thời kỳ đổi mới, với tinh thần “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật,
nói rõ sự thật”[1, tr.12],
Đại hội VI của Đảng (12-1986) đưa ra quan điểm mới về sức mạnh thời đại, nhấn mạnh
hơn yếu tố “phát triển của cách mạng khoa học - kỹ thuật ngày nay và xu thế mở
rộng phân công, hợp tác giữa các nước, kể cả các nước có chế độ kinh tế - xã hội
khác nhau”[1, tr.31].
Quan điểm này đã đánh dấu bước chuyển trọng tâm của việc kết hợp sức mạnh dân tộc
với sức mạnh thời đại từ phục vụ sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ
Tổ quốc sang phục vụ phát triển kinh tế, từ quan hệ chính trị sang quan hệ
chính trị - kinh tế, nhấn mạnh hơn vai trò của nội lực.
Đến Đại
hội VII (6-1991) Đảng đã bổ sung, làm rõ hơn sự cần thiết phải kết hợp sức mạnh
dân tộc với sức mạnh thời đại: “Trong điều kiện mới càng phải coi trọng vận dụng
bài học kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với
sức mạnh quốc tế”[2, tr.88].
Để phát huy sức mạnh dân tộc, khai thác hiệu quả nguồn ngoại lực, Đảng chủ
trương phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ
nghĩa; mở rộng quan hệ hữu nghị với tất cả các nước trong khu vực và trên thế
giới, không phân biệt chế độ chính trị - xã hội khác nhau.
Đại hội
VIII (1996) khẳng định: Phải “mở rộng hợp tác quốc tế, tranh thủ sự đồng tình, ủng
hộ và giúp đỡ của nhân dân thế giới”; “động viên mọi nguồn lực bên trong là
chính”. Việc mở rộng quan hệ đối ngoại phải trên cơ sở “giữ vững độc lập tự chủ,
giữ gìn, phát huy bản sắc và truyền thống tốt đẹp của dân tộc”[3, tr.15].
Đại hội IX
(4-2001) nhấn mạnh sức mạnh dân tộc là động lực chủ yếu để xây dựng và phát triển
đất nước, “phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm
độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh
quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ môi trường”[4, tr.120].
Đại hội
X (4-2006) đặc biệt nhấn mạnh vấn đề “phát huy nội lực, xem đó là nhân tố quyết
định đối với sự phát triển; đồng thời coi trọng huy động các nguồn ngoại lực,
thông qua thông qua hội nhập và hợp tác quốc tế, tranh thủ các nguồn lực bên
ngoài để phát huy nội lực mạnh hơn”[8, tr.179-180].
Đại hội
XI (2011) khẳng định: “Trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng cần kiên định ý chí độc
lập, tự chủ và nêu cao tinh thần hợp tác quốc tế, phát huy cao độ nội lực, đồng
thời tranh thủ ngoại lực, kết hợp yếu tố truyền thống với yếu tố hiện đại”[5, tr.66]. Với quan
điểm này, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trở thành nhiệm vụ chiến
lược của toàn Đảng, toàn dân trong bối cảnh mới.
Đại hội
XII (1-2016) khẳng định: “đặt lợi ích quốc gia - dân tộc lên trên hết; kiên định
độc lập, tự chủ, đồng thời chủ động và tích cực hội nhập quốc tế trên cơ sở
bình đẳng, cùng có lợi”[6,
tr.69-70]. Đến Đại hội XIII (2021) nhận thức của Đảng về kết hợp
sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại được thể hiện đầy đủ, toàn diện hơn với
một số điểm mới: Thứ nhất, kết hợp sức mạnh dân tộc
với sức mạnh thời đại trên cơ sở bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc,
tôn trọng “các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc
tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi”[7, tr.161-162]. Thứ hai,
xác định rõ vai trò tiên phong của hoạt động đối ngoại trong việc kết hợp chặt
chẽ sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Thứ ba, gắn kết
chặt chẽ quá trình hội nhập quốc tế với nâng cao sức mạnh tổng hợp, huy động tiềm
năng của toàn xã hội, nâng cao năng lực tự chủ, cạnh tranh và khả năng thích ứng
của đất nước trong bối cảnh mới.
Trải qua
các kỳ Đại hội (từ Đại hội VI đến Đại hội XIII) nhận thức về kết hợp sức mạnh
dân tộc với sức mạnh thời đại của Đảng được hoàn thiện về cả chiều rộng và chiều
sâu, trở thành mục tiêu, phương hướng hành động của Đảng, cụ thể:
Một là, nhận
thức sâu sắc và hoàn thiện hơn về sức mạnh quốc gia - dân tộc, các xu thế của
thời đại và tầm quan trọng của việc kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời
đại trong bối cảnh mới.
Hai là, nhận
thức mới về mục tiêu kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại là nhằm bảo
đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc, phát triển đất nước với lộ trình, bước
đi cụ thể để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội (CNXH).
Ba là, xác định rõ hơn nội dung, phương thức kết hợp sức mạnh
dân tộc với sức mạnh thời đại trên từng lĩnh vực cụ thể, phù hợp với thực tiễn
đất nước và xu thế phát triển của thời đại.
Bốn là, nhận thức mới về vai trò của hoạt động đối ngoại trong
việc huy động các nguồn lực bên ngoài để tăng cường sức mạnh tổng hợp của đất
nước, bảo vệ Tổ quốc “từ sớm, từ xa”.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ đạo thực hiện kết hợp sức mạnh dân tộc với
sức mạnh thời đại trong thời kỳ đổi mới
Bước vào
thời kỳ đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ đạo kết hợp chặt chẽ sức mạnh dân tộc
với sức mạnh thời đại để huy động sức mạnh tổng hợp đưa đất nước vượt qua khó
khăn, thách thức, tạo tiền đề vững chắc đẩy mạnh công cuộc đổi mới và hội nhập
quốc tế sâu rộng. Trong 10 năm đầu đổi mới (1986-1996), để thu hẹp khoảng cách
phát triển giữa Việt Nam với các quốc gia khác, phá vỡ thế bao vây, cấm vận, Đảng
đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước với những đột phá sáng tạo, mang
tính chất nền tảng, then chốt. Để tăng cường sức mạnh dân tộc, Đảng đưa ra quyết
sách quan trọng trong chỉ đạo đổi mới về kinh tế, chính trị, đặc biệt là sử dụng
hiệu quả “đòn bẩy” kinh tế, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc để
củng cố, tăng cường nội lực quốc gia. Đồng thời, tranh thủ những điều kiện thuận
lợi về hợp tác kinh tế, khoa học kỹ thuật, “tham gia ngày càng rộng rãi vào sự
phân công lao động quốc tế”[1,
tr.217]. Năm 1987, Luật Đầu tư nước ngoài được Quốc hội thông qua
đã mở đầu cho việc thu hút đầu tư nước ngoài, tạo đà cho kinh tế quốc gia phát
triển, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế. Thực hiện mở rộng quan hệ đối ngoại với
tất cả các nước không phân biệt chế độ chính trị - xã hội trên cơ sở hợp tác
bình đẳng, cùng có lợi với phương châm “Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước
trong cộng đồng thế giới”[2,
tr.147].
Từ năm
1996 đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục tăng cường các nội dung, hình thức,
phương pháp kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để đưa công cuộc đổi
mới toàn diện đất nước đi vào chiều sâu, đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH và hội nhập
quốc tế. Trước hết, Đảng chỉ đạo phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa (XHCN); “xây dựng nền công nghiệp quốc gia vững mạnh với năng lực sản
xuất mới, tự chủ, khả năng thích ứng, chống chịu cao”[9, tr.120-121]; xây dựng và hoàn thiện Nhà
nước pháp quyền XHCN; “phát huy dân chủ XHCN, sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống
chính trị và của nền văn hóa, con người Việt Nam”[7, tr.110]. Để huy động các nguồn lực bên
ngoài, Đảng chỉ đạo mở rộng quan hệ đối ngoại; “chủ động và tích cực hội nhập
quốc tế toàn diện, sâu rộng và có hiệu quả”[7, tr.117]; “đa phương hóa, đa dạng hóa
quan hệ kinh tế quốc tế”[7,
tr.135]. Nhờ đó, Việt Nam đã tranh thủ mọi nguồn lực, mở rộng hợp
tác quốc tế, để phát triển kinh tế - xã hội, đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, bảo vệ
vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, vì một nước Việt
Nam XHCN giàu mạnh[10,
tr.206].
Gần 40
năm đổi mới, Đảng đã chỉ đạo thực hiện kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời
đại với nội dung, phương thức phù hợp, góp phần mang lại những thành tựu to lớn,
có tính bước ngoặt:
Thứ nhất, kinh tế
tăng trưởng mạnh và bền vững. Từ một nước nông nghiệp lạc hậu, khép kín, đến
nay, Việt Nam đã bứt phá vươn lên trở thành “điểm sáng” kinh tế toàn cầu. Tốc độ
tăng trưởng GDP tương đối cao, trung bình khoảng 7% mỗi năm. Quy mô GDP không
ngừng được mở rộng, năm 2020 đạt 342,7 tỷ USD, trở thành nền kinh tế lớn thứ tư
trong ASEAN[11, tr.31].
Kinh tế phát triển đã góp phần nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân
dân, khơi dậy mọi tiềm năng sáng tạo của con người, thúc đẩy tăng trưởng, phát
triển bền vững.
Thứ hai, quan hệ
đối ngoại được mở rộng, đi vào chiều sâu và toàn diện. Từ chỗ bị bao vây, cấm vận
ngặt nghèo, Việt Nam đã mở rộng và nâng tầm quan hệ ngoại giao với 193 nước và
vùng lãnh thổ[12, tr.31];
có quan hệ kinh tế thương mại với 230 nước, tham gia hơn 500 hiệp định song
phương và đa phương[12,
tr.34]. Đối ngoại Việt Nam đã phát huy vai trò “tiên phong” trong
việc giữ gìn môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước, huy động tối
đa các nguồn lực bên ngoài phục vụ cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc,
nâng cao vị thế, uy tín của đất nước trên trường quốc tế.
Thứ ba, chính
trị ổn định, tiềm lực quốc phòng, an ninh vững mạnh toàn diện. Việt Nam tiếp tục
giữ vững định hướng XHCN; thể chế, hệ thống chính trị được hoàn thiện và có bước
phát triển; dân chủ XHCN được mở rộng và phát huy; khối đại đoàn kết dân tộc được
củng cố, tăng cường; công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực đạt nhiều kết
quả tích cực; tiềm lực quốc phòng, an ninh được tăng cường, góp phần tích cực bảo
vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Tuy
nhiên, quá trình Đảng lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện kết hợp sức mạnh dân tộc với
sức mạnh thời đại còn một số hạn chế, khuyết điểm: Năng lực dự báo còn hạn chế,
chưa bám sát thực tế, dẫn đến chậm đổi mới trong công tác tham mưu, hoạch định
chủ trương, chính sách và tổ chức thực hiện, bị động trong ứng phó với những
thách thức mới nảy sinh, làm giảm hiệu quả trong việc phát huy từng nguồn sức mạnh;
chưa mềm dẻo, linh hoạt giải quyết các vấn đề nảy sinh trong quan hệ quốc tế,
chậm đổi mới chính sách đối ngoại; công tác lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện
kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại có lúc thiếu quyết liệt, chưa
thường xuyên, chưa theo kịp với những chuyển biến mau lẹ, phức tạp của tình
hình quốc tế và trong nước; sự phối hợp, kết hợp giữa các ngành, các địa phương
chưa thực sự chủ động, thiếu tính chặt chẽ nên chưa phát huy tối đa sức mạnh tổng
hợp của dân tộc; năng lực dự báo còn hạn chế, chưa thực sự bám sát thực tế...
3. Giải pháp tiếp tục đổi mới nhận thức và tăng cường sự chỉ đạo của Đảng
về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong giai đoạn hiện nay
Thứ nhất, nhận thức đúng về sức mạnh quốc gia, tình hình thế giới và việc
kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
Cần nhìn
nhận chính xác về sức mạnh quốc gia - dân tộc, sức mạnh thời đại, mối quan hệ
biện chứng giữa hai nguồn sức mạnh này trong bối cảnh mới. Trong đó, sức mạnh
dân tộc là nguồn lực “nội sinh”, giữ vai trò quyết định, là cơ sở để thu hút,
tiếp nhận ngoại lực. Sức mạnh thời đại là nguồn lực bên ngoài, giữ vai trò quan
trọng, góp phần làm cho sức mạnh dân tộc được tăng lên và chỉ phát huy tác dụng
thông qua sức mạnh dân tộc. Khi thực hiện kết hợp cần chú ý “cân bằng” giữa
phát triển nội lực và ngoại lực để nâng cao sức mạnh tổng hợp quốc gia, không
xem nhẹ sức mạnh thời đại hoặc quá phụ thuộc vào bên ngoài để tránh mất độc lập,
tự chủ, bị động, bảo thủ hay biệt lập; chủ động tham gia đóng góp và có trách
nhiệm với cộng đồng quốc tế nhằm tạo ra môi trường thuận lợi, đưa đất nước vượt
qua nguy cơ, thách thức để phát triển bền vững.
Thứ hai, tiếp tục hoàn thiện, phát triển lý luận của Đảng về kết hợp sức
mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
Đẩy mạnh
nghiên cứu, phát triển lý luận về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại
là giải pháp cốt lõi để giữ vững vai trò cầm quyền, lãnh đạo, bảo vệ nền tảng
tư tưởng của Đảng, phát huy tối đa sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại phục vụ
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước. Vì vậy, cần xác định rõ mục tiêu, phương
hướng, liên tục bổ sung, phát triển nội dung, hình thức, phương pháp kết hợp sức
mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; nâng cao năng lực vận dụng các bài học kinh
nghiệm được tổng kết từ thực tiễn để kịp thời khắc phục những hạn chế, vướng mắc,
ngăn ngừa, khắc phục bệnh giáo điều, kinh nghiệm; đồng thời cung cấp thêm các
luận cứ khoa học phục vụ công tác xây dựng, bổ sung, phát triển đường lối đổi mới
của Đảng.
Thứ ba, nâng cao năng lực dự báo, ứng xử linh hoạt, phù hợp với các xu
thế, chuẩn mực chung của quốc tế và khu vực.
Nâng cao
năng lực dự báo là cơ sở khoa học đầu tiên để tham mưu hoạch định đường lối
cách mạng đúng đắn. Vì vậy, cần tăng cường đầu tư nguồn lực, nâng cao hiệu quả
dự báo, chủ động bám sát, theo dõi, nắm vững tình hình quốc tế và khu vực, dự
đoán xu thế phát triển của thời đại để xác định thời cơ và thách thức đối với
việc kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, ứng xử đúng đắn, linh hoạt
trong quan hệ quốc tế, tránh bị động, bất ngờ. Đồng thời, Việt Nam cần chủ động
tham gia, đóng góp tích cực trong xây dựng các “luật chơi” chung của môi trường
quốc tế, qua đó tăng cường uy tín, vị thế quốc gia, gia tăng sức mạnh tổng hợp
để bảo vệ đất nước trong tình hình mới.
Thứ tư, chú trọng xây dựng và củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc,
tăng cường đồng thuận xã hội.
Chăm lo xây dựng và củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc,
đồng thuận xã hội là giải pháp quan trọng để tăng cường sức mạnh tự cường dân tộc.
Khi đồng thuận xã hội, sức mạnh dân tộc sẽ tăng lên gấp bội, dễ dàng huy động
các nguồn lực bên ngoài. Để củng cố khối đại đoàn kết dân tộc, tăng cường sự đồng
thuận xã hội cần coi trọng phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống
chính trị và toàn xã hội; tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt
của Đảng; phát huy vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội trong việc tập hợp,
xây dựng khối đoàn kết toàn dân tộc; coi trọng ý kiến đóng góp của nhân dân đối
với chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước.
Kết luận
Kết hợp
sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại là một bộ phận hợp thành chiến lược của
Đảng, là nguyên lý phát triển của cách mạng Việt Nam. Trong thời kỳ đổi mới, nhận
thức và sự chỉ đạo của Đảng về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại
được bổ sung, phát triển và hoàn thiện phù hợp với thực tiễn đất nước và xu thế
toàn cầu hóa. Tuy nhiên, quá trình chỉ đạo thực hiện kết hợp sức mạnh dân tộc với
sức mạnh thời đại còn tồn tại một số hạn chế, ảnh hưởng đến việc phát huy các
nguồn lực trong nước và quốc tế. Vì vậy, trong bối cảnh mới, Đảng cần tiếp tục
hoàn thiện, phát triển lý luận và tăng cường chỉ đạo kết hợp sức mạnh dân tộc với
sức mạnh thời đại để bảo đảm giữ vững độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, vững
bước trên con đường xây dựng CNXH và hội nhập quốc tế.
Tài
liệu tham khảo:
[1] Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI,
Nxb. Sự thật, Hà Nội.
[2] Đảng
Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb. Sự thật, Hà Nội.
[3] Đảng
Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
[4] Đảng
Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
[5] Đảng
Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
[6] Đảng
Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia- Sự thật, Hà Nội.
[7] Đảng
Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật,
Hà Nội.
[8] Đảng Cộng sản Việt Nam (2018), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 65, Nxb. Chính
trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.
[9] Đảng
Cộng sản Việt Nam (2022), Văn kiện Hội nghị
lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII, Nxb. Chính trị
quốc gia Sự thật, Hà Nội.
[10] Hội
đồng Lý luận trung ương (2021), Những điểm mới
trong các văn kiện Đại hội XIII của Đảng, Nxb. Chính trị quốc gia Sự
thật, Hà Nội.
[11] Nguyễn
Phú Trọng (2022), Một số vấn đề lý luận và
thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam,
Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.
[12] Nguyễn Phú Trọng (2023), Xây dựng và phát triển nền đối ngoại, ngoại giao Việt
Nam toàn diện, hiện đại, mang đậm bản sắc “cây tre Việt Nam”, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.