Thứ Hai, ngày 02/12/2024, 18:13

Quá trình nhận thức và sự chỉ đạo của Đảng về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong thời kỳ đổi mới

Nguyễn Đình Quỳnh
Học viện Chính trị khu vực I.

(GDLL) - Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại là quy luật, bài học kinh nghiệm xuyên suốt tiến trình cách mạng Việt Nam. Trên cơ sở làm rõ quá trình nhận thức và sự chỉ đạo của Đảng về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong thời kỳ đổi mới, bài viết đề xuất một số định hướng giải pháp tiếp tục kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong giai đoạn tiếp theo.

Ngày hội Đại đoàn kết toàn dân tộc tại huyện Sìn Hồ, Lai Châu

(nguồn news.vnanet.vn)

Đặt vấn đề

Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại là bài học lớn, xuyên suốt của Đảng trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong thời kỳ đổi mới, nhận thức và sự lãnh đạo của Đảng về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại tiếp tục được bổ sung, hoàn thiện, góp phần nâng cao thế và lực của đất nước. Tuy nhiên, bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế hiện nay đang đặt ra những yêu cầu mới, đòi hỏi Đảng phải nâng cao nhận thức, tăng cường sự lãnh đạo về phát huy sức mạnh dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại để củng cố, tăng cường sức mạnh quốc gia, tích cực, chủ động hội nhập quốc tế sâu rộng và hiệu quả.

1. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong thời kỳ đổi mới

Từ khi ra đời và lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam xác định kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại là nhiệm vụ trọng yếu, căn cốt để huy động tối đa mọi nguồn lực của dân tộc, tạo thành sức mạnh tổng hợp đưa đất nước vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách. Nhờ kết hợp chặt chẽ sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, Đảng đã lãnh đạo nhân dân đấu tranh chống mọi kẻ thù xâm lược, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Bước vào thời kỳ đổi mới, với tinh thần “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật”[1, tr.12], Đại hội VI của Đảng (12-1986) đưa ra quan điểm mới về sức mạnh thời đại, nhấn mạnh hơn yếu tố “phát triển của cách mạng khoa học - kỹ thuật ngày nay và xu thế mở rộng phân công, hợp tác giữa các nước, kể cả các nước có chế độ kinh tế - xã hội khác nhau”[1, tr.31]. Quan điểm này đã đánh dấu bước chuyển trọng tâm của việc kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại từ phục vụ sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc sang phục vụ phát triển kinh tế, từ quan hệ chính trị sang quan hệ chính trị - kinh tế, nhấn mạnh hơn vai trò của nội lực.

Đến Đại hội VII (6-1991) Đảng đã bổ sung, làm rõ hơn sự cần thiết phải kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại: “Trong điều kiện mới càng phải coi trọng vận dụng bài học kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế”[2, tr.88]. Để phát huy sức mạnh dân tộc, khai thác hiệu quả nguồn ngoại lực, Đảng chủ trương phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa; mở rộng quan hệ hữu nghị với tất cả các nước trong khu vực và trên thế giới, không phân biệt chế độ chính trị - xã hội khác nhau.

Đại hội VIII (1996) khẳng định: Phải “mở rộng hợp tác quốc tế, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ và giúp đỡ của nhân dân thế giới”; “động viên mọi nguồn lực bên trong là chính”. Việc mở rộng quan hệ đối ngoại phải trên cơ sở “giữ vững độc lập tự chủ, giữ gìn, phát huy bản sắc và truyền thống tốt đẹp của dân tộc”[3, tr.15].

Đại hội IX (4-2001) nhấn mạnh sức mạnh dân tộc là động lực chủ yếu để xây dựng và phát triển đất nước, “phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ môi trường”[4, tr.120].

Đại hội X (4-2006) đặc biệt nhấn mạnh vấn đề “phát huy nội lực, xem đó là nhân tố quyết định đối với sự phát triển; đồng thời coi trọng huy động các nguồn ngoại lực, thông qua thông qua hội nhập và hợp tác quốc tế, tranh thủ các nguồn lực bên ngoài để phát huy nội lực mạnh hơn”[8, tr.179-180].

Đại hội XI (2011) khẳng định: “Trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng cần kiên định ý chí độc lập, tự chủ và nêu cao tinh thần hợp tác quốc tế, phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ ngoại lực, kết hợp yếu tố truyền thống với yếu tố hiện đại”[5, tr.66]. Với quan điểm này, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trở thành nhiệm vụ chiến lược của toàn Đảng, toàn dân trong bối cảnh mới.

Đại hội XII (1-2016) khẳng định: “đặt lợi ích quốc gia - dân tộc lên trên hết; kiên định độc lập, tự chủ, đồng thời chủ động và tích cực hội nhập quốc tế trên cơ sở bình đẳng, cùng có lợi”[6, tr.69-70]. Đến Đại hội XIII (2021) nhận thức của Đảng về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại được thể hiện đầy đủ, toàn diện hơn với một số điểm mới: Thứ nhất, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trên cơ sở bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc, tôn trọng “các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi”[7, tr.161-162]. Thứ hai, xác định rõ vai trò tiên phong của hoạt động đối ngoại trong việc kết hợp chặt chẽ sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Thứ ba, gắn kết chặt chẽ quá trình hội nhập quốc tế với nâng cao sức mạnh tổng hợp, huy động tiềm năng của toàn xã hội, nâng cao năng lực tự chủ, cạnh tranh và khả năng thích ứng của đất nước trong bối cảnh mới.

Trải qua các kỳ Đại hội (từ Đại hội VI đến Đại hội XIII) nhận thức về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại của Đảng được hoàn thiện về cả chiều rộng và chiều sâu, trở thành mục tiêu, phương hướng hành động của Đảng, cụ thể:

Một là, nhận thức sâu sắc và hoàn thiện hơn về sức mạnh quốc gia - dân tộc, các xu thế của thời đại và tầm quan trọng của việc kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong bối cảnh mới.

Hai là, nhận thức mới về mục tiêu kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại là nhằm bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc, phát triển đất nước với lộ trình, bước đi cụ thể để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội (CNXH).

Ba là, xác định rõ hơn nội dung, phương thức kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trên từng lĩnh vực cụ thể, phù hợp với thực tiễn đất nước và xu thế phát triển của thời đại.

Bốn là, nhận thức mới về vai trò của hoạt động đối ngoại trong việc huy động các nguồn lực bên ngoài để tăng cường sức mạnh tổng hợp của đất nước, bảo vệ Tổ quốc “từ sớm, từ xa”.

2. Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ đạo thực hiện kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong thời kỳ đổi mới

Bước vào thời kỳ đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ đạo kết hợp chặt chẽ sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để huy động sức mạnh tổng hợp đưa đất nước vượt qua khó khăn, thách thức, tạo tiền đề vững chắc đẩy mạnh công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế sâu rộng. Trong 10 năm đầu đổi mới (1986-1996), để thu hẹp khoảng cách phát triển giữa Việt Nam với các quốc gia khác, phá vỡ thế bao vây, cấm vận, Đảng đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước với những đột phá sáng tạo, mang tính chất nền tảng, then chốt. Để tăng cường sức mạnh dân tộc, Đảng đưa ra quyết sách quan trọng trong chỉ đạo đổi mới về kinh tế, chính trị, đặc biệt là sử dụng hiệu quả “đòn bẩy” kinh tế, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc để củng cố, tăng cường nội lực quốc gia. Đồng thời, tranh thủ những điều kiện thuận lợi về hợp tác kinh tế, khoa học kỹ thuật, “tham gia ngày càng rộng rãi vào sự phân công lao động quốc tế”[1, tr.217]. Năm 1987, Luật Đầu tư nước ngoài được Quốc hội thông qua đã mở đầu cho việc thu hút đầu tư nước ngoài, tạo đà cho kinh tế quốc gia phát triển, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế. Thực hiện mở rộng quan hệ đối ngoại với tất cả các nước không phân biệt chế độ chính trị - xã hội trên cơ sở hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với phương châm “Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới”[2, tr.147].

Từ năm 1996 đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục tăng cường các nội dung, hình thức, phương pháp kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để đưa công cuộc đổi mới toàn diện đất nước đi vào chiều sâu, đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH và hội nhập quốc tế. Trước hết, Đảng chỉ đạo phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN); “xây dựng nền công nghiệp quốc gia vững mạnh với năng lực sản xuất mới, tự chủ, khả năng thích ứng, chống chịu cao”[9, tr.120-121]; xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN; “phát huy dân chủ XHCN, sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và của nền văn hóa, con người Việt Nam”[7, tr.110]. Để huy động các nguồn lực bên ngoài, Đảng chỉ đạo mở rộng quan hệ đối ngoại; “chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng và có hiệu quả”[7, tr.117]; “đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ kinh tế quốc tế”[7, tr.135]. Nhờ đó, Việt Nam đã tranh thủ mọi nguồn lực, mở rộng hợp tác quốc tế, để phát triển kinh tế - xã hội, đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, vì một nước Việt Nam XHCN giàu mạnh[10, tr.206].

Gần 40 năm đổi mới, Đảng đã chỉ đạo thực hiện kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại với nội dung, phương thức phù hợp, góp phần mang lại những thành tựu to lớn, có tính bước ngoặt:

Thứ nhất, kinh tế tăng trưởng mạnh và bền vững. Từ một nước nông nghiệp lạc hậu, khép kín, đến nay, Việt Nam đã bứt phá vươn lên trở thành “điểm sáng” kinh tế toàn cầu. Tốc độ tăng trưởng GDP tương đối cao, trung bình khoảng 7% mỗi năm. Quy mô GDP không ngừng được mở rộng, năm 2020 đạt 342,7 tỷ USD, trở thành nền kinh tế lớn thứ tư trong ASEAN[11, tr.31]. Kinh tế phát triển đã góp phần nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, khơi dậy mọi tiềm năng sáng tạo của con người, thúc đẩy tăng trưởng, phát triển bền vững.

Thứ hai, quan hệ đối ngoại được mở rộng, đi vào chiều sâu và toàn diện. Từ chỗ bị bao vây, cấm vận ngặt nghèo, Việt Nam đã mở rộng và nâng tầm quan hệ ngoại giao với 193 nước và vùng lãnh thổ[12, tr.31]; có quan hệ kinh tế thương mại với 230 nước, tham gia hơn 500 hiệp định song phương và đa phương[12, tr.34]. Đối ngoại Việt Nam đã phát huy vai trò “tiên phong” trong việc giữ gìn môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước, huy động tối đa các nguồn lực bên ngoài phục vụ cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nâng cao vị thế, uy tín của đất nước trên trường quốc tế.

Thứ ba, chính trị ổn định, tiềm lực quốc phòng, an ninh vững mạnh toàn diện. Việt Nam tiếp tục giữ vững định hướng XHCN; thể chế, hệ thống chính trị được hoàn thiện và có bước phát triển; dân chủ XHCN được mở rộng và phát huy; khối đại đoàn kết dân tộc được củng cố, tăng cường; công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực đạt nhiều kết quả tích cực; tiềm lực quốc phòng, an ninh được tăng cường, góp phần tích cực bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN.

Tuy nhiên, quá trình Đảng lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại còn một số hạn chế, khuyết điểm: Năng lực dự báo còn hạn chế, chưa bám sát thực tế, dẫn đến chậm đổi mới trong công tác tham mưu, hoạch định chủ trương, chính sách và tổ chức thực hiện, bị động trong ứng phó với những thách thức mới nảy sinh, làm giảm hiệu quả trong việc phát huy từng nguồn sức mạnh; chưa mềm dẻo, linh hoạt giải quyết các vấn đề nảy sinh trong quan hệ quốc tế, chậm đổi mới chính sách đối ngoại; công tác lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại có lúc thiếu quyết liệt, chưa thường xuyên, chưa theo kịp với những chuyển biến mau lẹ, phức tạp của tình hình quốc tế và trong nước; sự phối hợp, kết hợp giữa các ngành, các địa phương chưa thực sự chủ động, thiếu tính chặt chẽ nên chưa phát huy tối đa sức mạnh tổng hợp của dân tộc; năng lực dự báo còn hạn chế, chưa thực sự bám sát thực tế...

3. Giải pháp tiếp tục đổi mới nhận thức và tăng cường sự chỉ đạo của Đảng về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong giai đoạn hiện nay

Thứ nhất, nhận thức đúng về sức mạnh quốc gia, tình hình thế giới và việc kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.

Cần nhìn nhận chính xác về sức mạnh quốc gia - dân tộc, sức mạnh thời đại, mối quan hệ biện chứng giữa hai nguồn sức mạnh này trong bối cảnh mới. Trong đó, sức mạnh dân tộc là nguồn lực “nội sinh”, giữ vai trò quyết định, là cơ sở để thu hút, tiếp nhận ngoại lực. Sức mạnh thời đại là nguồn lực bên ngoài, giữ vai trò quan trọng, góp phần làm cho sức mạnh dân tộc được tăng lên và chỉ phát huy tác dụng thông qua sức mạnh dân tộc. Khi thực hiện kết hợp cần chú ý “cân bằng” giữa phát triển nội lực và ngoại lực để nâng cao sức mạnh tổng hợp quốc gia, không xem nhẹ sức mạnh thời đại hoặc quá phụ thuộc vào bên ngoài để tránh mất độc lập, tự chủ, bị động, bảo thủ hay biệt lập; chủ động tham gia đóng góp và có trách nhiệm với cộng đồng quốc tế nhằm tạo ra môi trường thuận lợi, đưa đất nước vượt qua nguy cơ, thách thức để phát triển bền vững.

Thứ hai, tiếp tục hoàn thiện, phát triển lý luận của Đảng về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.

Đẩy mạnh nghiên cứu, phát triển lý luận về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại là giải pháp cốt lõi để giữ vững vai trò cầm quyền, lãnh đạo, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, phát huy tối đa sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước. Vì vậy, cần xác định rõ mục tiêu, phương hướng, liên tục bổ sung, phát triển nội dung, hình thức, phương pháp kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; nâng cao năng lực vận dụng các bài học kinh nghiệm được tổng kết từ thực tiễn để kịp thời khắc phục những hạn chế, vướng mắc, ngăn ngừa, khắc phục bệnh giáo điều, kinh nghiệm; đồng thời cung cấp thêm các luận cứ khoa học phục vụ công tác xây dựng, bổ sung, phát triển đường lối đổi mới của Đảng.

Thứ ba, nâng cao năng lực dự báo, ứng xử linh hoạt, phù hợp với các xu thế, chuẩn mực chung của quốc tế và khu vực.

Nâng cao năng lực dự báo là cơ sở khoa học đầu tiên để tham mưu hoạch định đường lối cách mạng đúng đắn. Vì vậy, cần tăng cường đầu tư nguồn lực, nâng cao hiệu quả dự báo, chủ động bám sát, theo dõi, nắm vững tình hình quốc tế và khu vực, dự đoán xu thế phát triển của thời đại để xác định thời cơ và thách thức đối với việc kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, ứng xử đúng đắn, linh hoạt trong quan hệ quốc tế, tránh bị động, bất ngờ. Đồng thời, Việt Nam cần chủ động tham gia, đóng góp tích cực trong xây dựng các “luật chơi” chung của môi trường quốc tế, qua đó tăng cường uy tín, vị thế quốc gia, gia tăng sức mạnh tổng hợp để bảo vệ đất nước trong tình hình mới.

Thứ tư, chú trọng xây dựng và củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường đồng thuận xã hội.

Chăm lo xây dựng và củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đồng thuận xã hội là giải pháp quan trọng để tăng cường sức mạnh tự cường dân tộc. Khi đồng thuận xã hội, sức mạnh dân tộc sẽ tăng lên gấp bội, dễ dàng huy động các nguồn lực bên ngoài. Để củng cố khối đại đoàn kết dân tộc, tăng cường sự đồng thuận xã hội cần coi trọng phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị và toàn xã hội; tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng; phát huy vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội trong việc tập hợp, xây dựng khối đoàn kết toàn dân tộc; coi trọng ý kiến đóng góp của nhân dân đối với chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước.

Kết luận

Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại là một bộ phận hợp thành chiến lược của Đảng, là nguyên lý phát triển của cách mạng Việt Nam. Trong thời kỳ đổi mới, nhận thức và sự chỉ đạo của Đảng về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại được bổ sung, phát triển và hoàn thiện phù hợp với thực tiễn đất nước và xu thế toàn cầu hóa. Tuy nhiên, quá trình chỉ đạo thực hiện kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại còn tồn tại một số hạn chế, ảnh hưởng đến việc phát huy các nguồn lực trong nước và quốc tế. Vì vậy, trong bối cảnh mới, Đảng cần tiếp tục hoàn thiện, phát triển lý luận và tăng cường chỉ đạo kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để bảo đảm giữ vững độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, vững bước trên con đường xây dựng CNXH và hội nhập quốc tế.

 

Tài liệu tham khảo:

[1] Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb. Sự thật, Hà Nội.

[2] Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb. Sự thật, Hà Nội.

[3] Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

[4] Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

[5] Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

[6] Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia- Sự thật, Hà Nội.

[7] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.

[8] Đảng Cộng sản Việt Nam (2018), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 65, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.

[9] Đảng Cộng sản Việt Nam (2022), Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.

[10] Hội đồng Lý luận trung ương (2021), Những điểm mới trong các văn kiện Đại hội XIII của Đảng, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.

[11] Nguyễn Phú Trọng (2022), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.

[12] Nguyễn Phú Trọng (2023), Xây dựng và phát triển nền đối ngoại, ngoại giao Việt Nam toàn diện, hiện đại, mang đậm bản sắc “cây tre Việt Nam”, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.

Đọc thêm

Nghiên cứu, đề xuất xây dựng chuẩn chương trình bồi dưỡng cho cán bộ lãnh đạo, quản lý hiện nay

Tác giả: TRƯƠNG BẢO THANH

(GDLL) - Xây dựng chuẩn chương trình bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo quản lý đóng vai trò hết sức quan trọng, là căn cứ để cơ sở đào tạo tiến hành xây dựng, thẩm định, ban hành, thực hiện, đánh giá và cải tiến các chương trình bồi dưỡng trên thực tế. Bài viết tập trung nghiên cứu cơ sở chính trị, pháp lý, cơ sở thực tiễn, đề xuất xây dựng chuẩn chương trình bồi dưỡng cho cán bộ lãnh đạo, quản lý ở Việt Nam hiện nay.

Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế thích ứng linh hoạt với đại dịch Covid 19 tại Việt Nam

Tác giả: CHU THỊ LÊ ANH

(GDLL) - Đại dịch COVID-19 đã gây ra nhiều hậu quả tiêu cực tới đời sống xã hội và làm giảm sút tăng trưởng kinh tế của tất cả các quốc gia trên thế giới trong đó có Việt Nam. Bài viết phân tích các chính sách phục hồi và phát triển kinh tế ứng phó tác động của dịch bệnh COVID-19 tới nền kinh tế Việt Nam, từ đó đề xuất một số khuyến nghị chính sách để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế thích ứng linh hoạt với dịch bệnh trong thời gian tới nhằm thực hiện thành công Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng.

Giải pháp thực hiện các chính sách hỗ trợ tài chính để doanh nghiệp vượt qua khó khăn do đại dịch Covid-19

Tác giả: NINH THỊ MINH TÂM

(GDLL) - Đại dịch Covid-19 đã tạo ra cú sốc đối với nền kinh tế Việt Nam và tác động tiêu cực đến “sức khỏe”, tiềm lực và khả năng chống chịu của nhiều doanh nghiệp, dẫn đến nguy cơ phá sản. Trong bối cảnh đó, Đảng và Nhà nước đã ban hành và thực hiện nhiều chính sách hỗ trợ tài chính nhằm giúp các doanh nghiệp vượt qua khó khăn. Bài viết tập trung phân tích thực trạng và đề xuất một số giải pháp tiếp tục thực hiện các chính sách hỗ trợ tài chính nhằm tăng “sức bền” và hỗ trợ phục hồi sản xuất, kinh doanh cho các doanh nghiệp bị tác động tiêu cực bởi dịch bệnh.

Tổn thương của doanh nghiệp Việt Nam sau cú sốc đại dịch Covid-19 - thực trạng và khuyến nghị

Tác giả: HOÀNG VĂN HOAN

(GDLL) - Khủng hoảng thường tạo cú sốc cho doanh nghiệp xét về cả kết quả kinh doanh thực tế và kỳ vọng. Các cú sốc có thể tích cực (hữu ích) hoặc tiêu cực (có hại) gây tổn thương cho doanh nghiệp và cả nền kinh tế. Để có những biện pháp đối phó nhằm ngăn chặn sớm cũng như giảm bớt những tác động bất lợi của các cú sốc gây tổn thương cho doanh nghiệp cũng như xã hội, đặc biệt sau cú sốc đại dịch COVID -19, bài viết giúp nhận diện các cú sốc, mức độ tổn thương của doanh nghiệp Việt Nam sau cú sốc bất lợi từ đại dịch COVID-19 trong giai đoạn vừa qua, từ đó đưa ra những hàm ý chính sách.

Phát triển du lịch cộng đồng tạo sinh kế bền vững ở các tỉnh vùng Tây Bắc - một số vấn đề đặt ra

Tác giả: Tạ Thị Đoàn

(GDLL) - Phát triển du lịch cộng đồng đã và đang mang lại nhiều lợi ích cho các tỉnh vùng Tây Bắc, qua đó góp phần tạo sinh kế bền vững cho người dân địa phương. Trên cơ sở phân tích thực trạng phát triển du lịch cộng đồng tạo sinh kế bền vững ở các tỉnh vùng Tây Bắc thời gian qua, bài viết chỉ ra một số vấn đề còn tồn tại và đề xuất các giải pháp nhằm thúc đẩy phát triển du lịch cộng đồng tạo sinh kế bền vững ở các tỉnh vùng Tây Bắc trong thời gian tới.