
Việt Nam tham gia Diễn đàn quốc tế về chủ nghĩa
xã hội lần thứ 11 (ảnh news.vnanet.vn)
Đặt vấn
đề
Trong bản
Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa (1945), Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng,
dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”. Tư tưởng độc
lập dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã soi đường cho nhân dân Việt Nam đấu
tranh giải phóng dân tộc, đánh đuổi chủ nghĩa thực dân, xóa bỏ chế độ phong kiến,
lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đưa nhân dân Việt Nam từ thân phận nô lệ
trở thành người làm chủ nước nhà, mở ra kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc - kỷ
nguyên độc lập, tự do. Hiện nay, hội nhập quốc tế đang là xu thế, vận dụng và
quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam xác định phải xử lý hài
hòa “mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế” và đây là một trong
tám mối quan hệ lớn được Đảng xác định cần phải chú trọng giải quyết cùng hướng
tới mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập
dân tộc
1.1. Độc lập là quyền thiêng liêng bất khả
xâm phạm
Qua khảo
sát thực tế cuộc sống của nhân dân Việt Nam và Đông Dương trong xã hội thuộc địa,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Chúng tôi không có quyền tự do báo chí và tự do
ngôn luận, ngay cả quyền tự do hội họp và lập hội cũng không có. Chúng tôi
không có quyền cư trú và du lịch ra nước ngoài; chúng tôi phải sống trong cảnh
ngu dốt tối tăm vì chúng tôi không có quyền tự do học tập. Ở Đông Dương, bọn thực
dân tìm mọi cách để đầu độc chúng tôi bằng thuốc phiện và làm cho chúng tôi đần
độn bằng rượu. Người ta đã làm chết hàng nghìn người An Nam và tàn sát hàng
nghìn người khác để bảo vệ những lợi ích không phải của chính họ” [3, tr.
34- 35].
Trong tác phẩm “Đường Kách mệnh”,
Hồ Chí Minh khẳng định: “Một nước cậy có sức mạnh đến cướp một nước yếu, lấy võ
lực cai trị dân nước ấy, và giành hết cả quyền kinh tế và chính trị. Dân nước ấy
đã mất cả tự do độc lập, lại làm ra được bao nhiêu thì bị cường quyền vơ vét bấy
nhiêu” [2,
tr. 286]. Người kêu gọi các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại,
thà chết được tự do còn hơn sống làm nô lệ, đồng tâm hiệp lực đánh đuổi tụi áp
bức mình, giành lấy độc lập tự do.
Cách mạng Tháng Tám năm 1945
thành công, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thay mặt chính phủ lâm thời đọc bản Tuyên
ngôn độc lập ngày 02/9/1945 tại Hà Nội, Bản tuyên ngôn đã khẳng định những
nguyên tắc về độc lập dân tộc, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, gắn liền quyền
dân tộc và quyền cơ bản của con người.
Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ
khẳng định các quyền dân tộc cơ bản của Việt Nam và các dân tộc trên thế giới,
mà còn khẳng định sự quyết tâm trong thực tiễn cuộc đấu tranh cách mạng kiên cường,
bất khuất của dân tộc Việt Nam với các quyền dân tộc thiêng liêng đó, khẳng định
ý chí giành và giữ độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam, Người viết: “Một dân tộc
đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng
về phe Đồng minh chống phát xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc
đó phải được độc lập!” [4, tr.3]”. Người trịnh trọng tuyên bố
với thế giới rằng: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thực
đã thành một nước tự do và độc lập. Toàn thể dân Việt Nam quyết đem tất cả tinh
thần và lực lượng, tính mệnh và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy” [4,
tr.3]. Với Người: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” [8, tr.
131].
1.2. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội
Tư tưởng độc lập dân tộc gắn
liền với chủ nghĩa xã hội là một cống hiến lý luận quan trọng của Hồ Chí Minh.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân tiến lên chủ
nghĩa xã hội có quan hệ mật thiết với nhau, ảnh hưởng và thúc đẩy lẫn nhau, cuộc
vận động trước thành công làm tiền đề cho cuộc vận động sau thắng lợi. Đó là cuộc
vận động giải phóng dân tộc về mặt chính trị và cuộc vận động giải phóng dân tộc
về mặt kinh tế. Tiến hành kết hợp chặt chẽ hai cuộc vận động cách mạng ấy chính
là sự kết hợp giữa giải phóng dân tộc với giải phóng giai cấp và giải phóng con
người trong xã hội Việt Nam.
Tư tưởng độc lập dân tộc gắn
liền với chủ nghĩa xã hội của Chủ tịch Hồ Chí Minh được hình thành và phát triển
cùng với toàn bộ hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường cách mạng Việt Nam.
Đó là tư tưởng đặt cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam nằm trong phạm trù
cách mạng vô sản, gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, thể hiện quan điểm
giải phóng dân tộc và phát triển đất nước của Hồ Chí Minh mang tính toàn diện
và triệt để. Độc lập dân tộc để đi tới cuộc sống ấm no, hạnh phúc là khát vọng
của cả dân tộc Việt Nam.
1.3 Độc lập dân tộc gắn liền với thống nhất đất nước
Độc lập dân tộc gắn liền thống
nhất đất nước là một quy luật tồn tại và phát triển của dân tộc Việt Nam, là
con đường sống của nhân dân Việt Nam. Người khẳng định: “Nước Việt Nam là một,
dân tộc Việt Nam là một. Sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý đó không
bao giờ thay đổi”.
Đối với Người: “Nước Việt Nam
thành lập đã hơn hai nghìn năm. Việt Nam là một dân tộc có chung một lịch sử, một
thứ tiếng, một nền kinh tế và văn hóa. Dân tộc Việt Nam đã cùng nhau đoàn kết
nhất trí trong lao động xây dựng và trong chiến đấu chống ngoại xâm. Nước Việt
Nam là một khối thống nhất” [7, tr. 268]. Quán triệt tư tưởng của
Chủ tịch Hồ Chí Minh, quân và dân cả nước giương cao mãi ngọn cờ độc lập dân tộc,
quyết chiến quyết thắng giặc Mỹ xâm lược, giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc,
thống nhất đất nước để thỏa lòng mong ước của Người bằng cuộc tổng tiến công và
nổi dậy mùa xuân năm 1975 giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Tư tưởng Hồ
Chí Minh về độc lập dân tộc với khát vọng độc lập - tự do - hạnh phúc cho nhân
dân Việt Nam thể hiện sự sáng tạo, mang tinh thần cách mạng và khoa học, được
kiểm chứng trong thực tiễn cách mạng Việt Nam và phong trào cách mạng thế giới.
Những tư tưởng đó của Người đã bổ sung vào kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác -
Leenin, mãi mãi là niềm tự hào, ánh sáng soi đường, dẫn dắt dân tộc Việt Nam bước
vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.
2. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh
về độc lập dân tộc đối với việc giải quyết các mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ
và hội nhập quốc tế hiện nay
Thứ nhất, độc
lập tự chủ là cơ sở điều kiện quyết định hội nhập quốc tế
Trong suốt quá trình lãnh đạo
cách mạng, Hồ Chí Minh luôn nêu cao tinh thần tự lực, tự cường và tranh thủ sự
giúp đỡ từ bên ngoài, kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại trong cuộc
đấu tranh giành độc lập dân tộc, Người phân tích rằng: “Một dân tộc không tự lực
cánh sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc khác giúp đỡ thì không xứng đáng được độc lập”
[6,
tr. 445].
Hiện nay, trước xu thế toàn cầu
hóa, việc giữ vững độc lập, tự chủ, phát huy sức mạnh bên trong là nền tảng của
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Song, độc lập,
tự chủ không có nghĩa là “biệt lập”, “đóng cửa” với thế giới vì điều đó không
phù hợp với xu thế khách quan của thời đại, sẽ không thể phát triển và tất yếu
làm suy yếu độc lập, tự chủ. Giữ vững độc lập, tự chủ phải đi đôi với chủ động,
tích cực hội nhập quốc tế. Có giữ vững được độc lập, tự chủ thì mới có thể đẩy
mạnh hội nhập quốc tế, vì không giữ vững được độc lập, tự chủ thì quá trình hội
nhập sẽ chuyển hóa thành “hòa tan”, mục tiêu phát triển và an ninh đều không đạt
được.
Đối với các nước lựa chọn con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội như Việt Nam, trong bối cảnh quốc tế có nhiều diễn
biến phức tạp, các lực lượng chống đối chủ nghĩa xã hội thường xuyên tìm cách
ngăn cản và chống phá sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, nếu không xây dựng
được một nền kinh tế độc lập, tự chủ thì dễ bị lệ thuộc, bị các thế lực xấu lợi
dụng, lôi kéo hoặc khống chế, ép buộc thay đổi chế độ chính trị, đi chệch quỹ đạo
của chủ nghĩa xã hội. Nói cách khác, có xây dựng được một nền kinh tế độc lập,
tự chủ thì mới tạo được cơ sở kinh tế, cơ sở vật chất kỹ thuật của chế độ chính
trị độc lập, tự chủ. Độc lập, tự chủ về kinh tế là nền tảng vật chất để đảm bảo
cho sự độc lập, tự chủ về chính trị, văn hóa - xã hội và an ninh - quốc phòng...
Giữ vững bản sắc văn hóa dân
tộc, phát huy truyền thống của đất nước cũng là nhân tố để vừa khẳng định nền độc
lập, tự chủ vừa mở rộng được hội nhập quốc tế mà không bị “hòa tan”. Trong quá
trình hội nhập quốc tế, các quốc gia, dân tộc sẽ đánh mất sự tồn tại của mình nếu
để mất đi bản sắc truyền thống, văn hóa của mình. Giữ vững và phát huy bản sắc
văn hóa dân tộc chính là tạo nên một dòng chảy liên tục nhằm khẳng định sức mạnh
nội lực và bản lĩnh văn hóa của chính dân tộc đó, văn hóa còn là dân tộc còn. Đồng
thời những nét đẹp văn hóa, những đặc trưng truyền thống sẽ là những nhân tố
giúp cho các quốc gia, dân tộc có cơ hội thuận lợi để mở rộng hội nhập quốc tế.
Thứ hai, hội
nhập quốc tế là điều kiện quan trọng để giữ vững độc lập, tự chủ
Trong quá trình lãnh đạo cách
mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương tranh thủ sự giúp đỡ từ bên
ngoài, kết hợp sức mạnh dân tộc với thời đại trong cuộc đấu tranh giành độc lập
dân tộc, Người viết: “Không có sự giúp đỡ mạnh mẽ của bên ngoài, công cuộc vận
động giải phóng khó mà thành công được” [5, tr.480]. Tuy
nhiên Người cũng nhấn mạnh vừa phải tranh thủ sự giúp đỡ từ bên ngoài, vừa phải
nêu cao tinh thần tự lực cánh sinh, Người viết: “Cố nhiên sự giúp đỡ của các nước
bạn là quan trọng, nhưng không được ỷ lại, không được ngồi mong chờ người khác”
[6,
tr. 445].
Trước xu thế toàn cầu hóa hiện
nay, mở cửa hội nhập quốc tế là nhu cầu khách quan để phát triển nền kinh tế mỗi
nước. Mở cửa là xu thế tất yếu, chỉ có tiếp thu và nắm vững thành quả văn minh
mới nhất của thế giới mới có thể phát triển và hội nhập. Quán triệt sâu sắc tư
tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc, trong mở cửa hội nhập quốc tế phải thực
hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát
triển, phải giữ vững và phát huy được cốt cách và truyền thống Việt Nam. Nâng
cao uy tín của Việt Nam đối với quốc tế, đồng thời phải bảo đảm các nguyên tắc:
kết hợp lợi ích dân tộc và lợi ích quốc tế, bình đẳng cùng có lợi, bảo đảm độc
lập dân tộc, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội
bộ, không dùng vũ lực và đe dọa bằng vũ lực, giải quyết các tranh chấp thông
qua con đường thương lượng, hòa bình.
Thứ ba, hội nhập quốc tế phải gắn liền với
việc bảo vệ chủ quyền quốc gia
Về kinh tế: trong quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế, Việt Nam tham gia vào các vào các thiết chế kinh tế chủ quyền
quốc gia sẽ được củng cố. Tham gia hội nhập khu vực và quốc tế cho phép Việt
Nam sử dụng những cơ sở pháp lý để đấu tranh chống bị phân biệt đối xử, chèn ép
trong thương mại quốc tế, bảo vệ quyền và lợi ích của mình trong các quan hệ
kinh tế. Bên cạnh đó, Việt Nam có thể tranh thủ và khai thác những quy chế, điều
kiện ưu đãi mà phần lớn các thể chế quốc tế dành cho các nước đang phát triển
và chậm phát triển để vừa đảm bảo hội nhập có hiệu quả, vừa bảo hộ hợp lý và
phát triển vững chắc các ngành sản xuất, việc gia nhập vào các thể chế kinh tế
quốc tế sẽ có cơ sở khẳng định và bảo đảm chủ quyền quốc gia. Đồng thời, vào
các tổ chức kinh tế quốc tế mà cụ thể là gia nhập WTO, Việt Nam có được vị trí
và tiếng nói trong đàm phán đa phương về các vấn đề thương mại và những vấn đề
liên quan khác như có thể vay tiền từ các tổ chức tín dụng quốc tế, dễ dàng hơn
trong việc tiếp nhận nguồn vốn ODA, tức là Việt Nam sẽ có cơ hội tham gia bình
đẳng vào quá trình hình thành luật pháp quốc tế sao cho đảm bảo được quyền lợi
của nước mình. Đồng thời qua đó nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường
quốc tế.
Về chính trị: trong quá trình hội nhập quốc
tế, bảo vệ chủ quyền quốc gia được thể hiện ở việc củng cố sức mạnh của nhà nước.
Trong quá trình xây dựng Nhà nước, Đảng đã quán triệt nguyên tắc quyền lực nhà
nước thuộc về nhân dân, thực hành dân chủ, phát huy tính sáng tạo của nhân dân,
vận dụng có chọn lọc lý luận xây dựng Nhà nước pháp quyền của nhân loại phù hợp
với điều kiện cụ thể của Việt Nam hiện nay.
Vì vậy, tăng cường nội lực,
nâng cao đời sống nhân dân, tuyên truyền giáo dục về mục tiêu định hướng xã hội
chủ nghĩa là những việc làm cần thiết mà chúng ta đang thực hiện nhằm bảo vệ vững
chắc độc lập dân tộc và chủ quyền quốc gia. Hơn thế nữa, chúng còn sử dụng âm
mưu “diễn biến hòa bình” qua đó, tiến công vào nền tảng tư tưởng và thành quả
cách mạng của Đảng và nhân dân Việt Nam. Vì vậy, tăng cường nội lực, nâng cao đời
sống nhân dân, tuyên truyền giáo dục về mục tiêu định hướng xã hội chủ nghĩa là
những việc làm cần thiết mà chúng ta đang thực hiện nhằm bảo vệ vững chắc độc lập
dân tộc và chủ quyền quốc gia góp phần đấu tranh chống lại những âm mưu, thủ đoạn
của các thế lực thù địch đe dọa nền độc lập dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội
ở Việt Nam.
Về văn hóa: Toàn cầu hóa và hội nhập quốc
tế mang đến những cơ hội cho sự phát triển văn hóa dân tộc, tạo điều kiện thuận
lợi mở rộng giao lưu văn hóa, tạo cơ hội để phát triển giáo dục - đào tạo, khoa
học - công nghệ, xây dựng và phát triển nguồn lực con người, đặc biệt là nâng
cao trình độ chuyên môn của đội ngũ trí thức và nguồn nhân lực chất lượng cao
trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đồng thời, tạo cơ hội
phát triển các ngành công nghiệp văn hóa và dịch vụ văn hóa, thúc đẩy quá trình
dân chủ hóa về công nghệ thông tin toàn cầu, kích thích năng lực sáng tạo của nền
văn hóa dân tộc. Từ đó, góp phần xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho sự nghiệp
phát triển văn hóa dân tộc.
Tuy nhiên, dưới tác động của
xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, nền văn hóa dân tộc, văn hóa truyền thống
có nguy cơ bị “xói mòn”. Chính vì vậy, Đảng và Nhà nước chủ trương kết hợp hài
hòa văn hóa truyền thống với hiện đại trên cơ sở bảo tồn bản sắc văn hóa dân tộc,
giữ gìn và phát triển tinh hoa của văn hóa dân tộc, loại trừ dần các yếu tố lỗi
thời, tăng cường giao lưu văn hóa với bên ngoài, tiếp thu những gì là tinh hoa
của văn hóa thế giới, đồng thời tiến hành bản địa hóa, dân tộc hóa chúng để làm
giàu cho văn hóa dân tộc, lấy văn hóa làm động lực cho sự phát triển của dân tộc
như chủ trương của Đảng: “Phát triển toàn diện, đồng bộ các lĩnh vực văn hóa, bảo
đảm vừa phát huy những giá trị tốt đẹp của dân tộc, vừa tiếp thu những tinh hoa
văn hóa nhân loại, tạo động lực phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế”
[1,
tr.262].
Kết luận
Hành trình tìm đường cứu nước
để dành lại độc lập cho dân tộc, tự do hạnh phúc cho nhân dân của Hồ Chí Minh
là một biểu tượng sinh động cho ý chí, khát vọng cứu nước, giải phóng và phát
triển cho dân tộc Việt Nam. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc phải gắn
liền với thống nhất, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước, độc lập dân tộc
bao giờ cũng gắn với tự do, dân chủ, ấm no hạnh phúc của nhân dân. Trong xu thế
toàn cầu hóa và hội nhập quôc tế hiện nay, Việt Nam đang có nhiều thời cơ thuận
lợi, nhưng cũng gặp không ít những khó khăn, thử thách trên con đường phát triển.
Chính vì vậy, giữ vững độc lập, tự chủ trong điều kiện đặc thù ở Việt Nam hiện
nay không tách rời việc giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa và chủ động hội nhập
quốc tế trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa... và đồng thời phải dựa
trên nền tảng kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại để xây dựng một
Việt Nam phát triển phồn vinh, hạnh phuc với mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh”.
Tài liệu tham khảo:
[1] Đảng
Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật,
Hà Nội.
[2] Hồ
Chí Minh (1927), Đường Kách mệnh,
Nxb Thanh niên, Trung Quốc.
[3] Hồ
Chí Minh (2011), Toàn tập, tập
1,Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
[4] Hồ
Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 4,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
[5] Hồ
Chí Minh (2011), Toàn tập, tập
15, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
[6] Hồ
Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 8,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
[7] Hồ
Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 7,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
[8] Hồ
Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 5,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.