Thứ Năm, ngày 24/04/2025, 15:49

Đại thắng mùa Xuân năm 1975 - Ý nghĩa lịch sử đối với công cuộc đổi mới, đưa đất nước bước vào kỷ nguyên vươn mình

Hà Thị Mỹ Hạnh - Nguyễn Thị Huyền Trang - Nguyễn Ngọc Linh
Học viện Chính trị khu vực I - Học viện Chính trị khu vực I – Sinh viên Học viện Báo chí và Tuyên truyền.

(GDLL) Đại thắng mùa Xuân năm 1975 đi vào lịch sử dân tộc Việt Nam như một trong những trang vàng chói lọi nhất. Đó là chiến thắng kết tinh của tinh thần bất khuất, ý chí quyết tâm và lòng dũng cảm của Nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, qua 30 năm đấu tranh cách mạng (1945 - 1975) mở ra thời kỳ mới - thời kỳ độc lập, thống nhất và tiến lên chủ nghĩa xã hội. Bài viết khái quát thắng lợi vĩ đại của mùa Xuân năm 1975, từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm có ý nghĩa sâu sắc, vận dụng sáng tạo vào công cuộc đổi mới, đưa đất nước bước vào kỷ nguyên vươn mình trong giai đoạn hiện nay.

 

50 năm thống nhất đất nước.. Hơn 1.000 người dân Đồng Nai xếp hình bản đồ Việt Nam

(nguồn news.vnanet.vn)

 

Đặt vấn đề

Chiến thắng vĩ đại của mùa Xuân năm 1975 đã để lại nhiều bài học quý giá, có ý nghĩa lịch sử to lớn. Đó là biểu tượng sáng ngời của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, tinh thần đoàn kết, trí tuệ và khát vọng tự do của dân tộc Việt Nam. Hiện nay, trong bối cảnh đất nước đang đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, đưa đất nước bước vào kỷ nguyên vươn mình thì việc tiếp tục nghiên cứu, khẳng định ý nghĩa lịch sử của đại thắng mùa Xuân năm 1975 là nội dung có giá trị sâu sắc về lý luận và thực tiễn.

1. Đại thắng mùa Xuân năm 1975

Ngày 27-1-1973, “Hiệp định về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam” đã được ký kết, nhưng miền Nam vẫn chưa có hòa bình.Mỹ vẫn tăng cường viện trợ kinh tế, quân sự và chỉ đạo chính quyền Sài Gòn phá hoại Hiệp định, hành quân “bình định, lấn chiếm” nhằm tiêu diệt lực lượng cách mạng ở miền Nam. Trước tình hình đó, tháng 7-1973, Hội nghị lần thứ 21 Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra Nghị quyết: “Thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và nhiệm vụ của cách mạng miền Nam Việt Nam trong giai đoạn mới”, trong đó nhấn mạnh: “Con đường của cách mạng miền Nam vẫn là con đường bạo lực cách mạng. Bất kể trong tình hình nào, ta cũng phải nắm vững thời cơ, giữ vững đường lối chiến lược tiến công và chỉ đạo linh hoạt để đưa cách mạng miền Nam tiến lên” [1, tr.232].

Nhằm tiếp tục tư tưởng chiến lược tiến công, nắm bắt thời cơ để giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, từ ngày 30-9 đến ngày 8-10-1974, Bộ Chính trị đã họp bàn về chủ trương giải phóng miền Nam. Tại Hội nghị, Bộ Chính trị đã phê chuẩn kế hoạch hai năm 1975-1976, kế hoạch tác chiến năm 1975 và quyết định: “Động viên những nỗ lực lớn nhất của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ở cả hai miền, mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy cuối cùng, đưa chiến tranh cách mạng phát triển đến mức cao nhất, tiêu diệt và làm tan rã toàn bộ quân đội Việt Nam Cộng hòa, đánh chiếm Sài Gòn - sào huyệt trung tâm của địch cũng như tất cả các thành thị khác, đánh đổ chính quyền địch ở Trung ương và các cấp, giành toàn bộ chính quyền về tay Nhân dân, giải phóng hoàn toàn miền Nam, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước, tiến tới thống nhất nước nhà” [2, tr.185].

Từ ngày 8-12-1974 đến ngày 8-1-1975, Bộ Chính trị tiếp tục họp (lần 2) với sự tham gia của các đồng chí lãnh đạo chủ chốt ở chiến trường Nam Bộ và Liên khu V. Hội nghị nêu rõ: Nắm vững thời cơ lịch sử, mở nhiều chiến dịch tổng hợp liên tiếp, đánh những trận quyết định, kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ. Bộ Chính trị nhận thấy quân Mỹ khó có khả năng quay lại tham chiến tại miền Nam và nhất trí thông qua phương án giải phóng miền Nam trong hai năm 1975 - 1976. Chiến trường Tây Nguyên được lựa chọn là hướng tiến công chủ yếu. Quyết tâm của Trung ương Đảng được khẳng định: “Chúng ta phải cố gắng cao nhất để thắng gọn trong năm 1975. Điều đó là một khả năng hiện thực” [3, tr.9]. 

Thực hiện các nội dung chỉ đạo của Trung ương Đảng, cuộc tổng tiến công và nổi dậy được bắt đầu bằng Chiến dịch Tây Nguyên, ngày 4-3. Sau khi thực hiện một số trận đánh nghi binh chiến dịch và tạo thế, trong hai ngày 10 và 11-3, quân ta tiến công bằng sức mạnh hiệp đồng binh chủng giải phóng thị xã Buôn Ma Thuột. Từ ngày 14 đến 18-3, quân ta đánh trận then chốt thứ hai, đập tan cuộc phản kích của Quân đoàn 2 quân đội Việt Nam Cộng hòa, tạo thế chia cắt địch về chiến lược, đẩy quân địch ở Tây Nguyên vào thế tan vỡ.  Trước tình hình thắng lớn ở Tây Nguyên, ngày 18-3-1975, Bộ Chính trị đã quyết định: giải phóng miền Nam trong năm 1975.

Dưới sự chỉ đạo của Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương, từ ngày 21 đến 26-3, Quân đoàn II cùng lực lượng vũ trang địa phương ở hai tỉnh Quảng Trị và Thừa Thiên đã bao vây, tiến công thành phố Huế, tạo thế uy hiếp Đà Nẵng từ hướng Bắc. Sáng ngày 28-3, cuộc tiến công và nổi dậy của quân dân Đà Nẵng chính thức bắt đầu bằng trận đột kích vào sân bay, bến cảng. Sau 33 giờ chiến đấu, quân ta tiêu diệt, làm tan rã hơn 10 vạn quân địch, giải phóng và tiếp quản thành phố lớn còn nguyên vẹn. Ngày 31-3, Bộ Chính trị họp, sau khi xem xét diễn biến của cuộc tiến công và nổi dậy trong 3 tuần lễ đã chủ trương: phải nắm vững hơn nữa tư tưởng chỉ đạo thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng, nhằm thực hiện tổng công kích, tổng khởi nghĩa giành thắng lợi hoàn toàn trong tháng 4-1975.

Ngày 14-4-1975, Bộ Chính trị quyết định lấy tên chiến dịch tổng tiến công và nổi dậy giải phóng Sài Gòn, Gia Định là chiến dịch Hồ Chí Minh; đồng thời lập Bộ chỉ huy chiến dịch, trong đó có 3 đồng chí Uỷ viên Bộ Chính trị.

Bắt đầu từ 17 giờ ngày 26-4, 5 quân đoàn chủ lực của ta mở đợt tổng công kích vào khu vực Sài Gòn - Gia Định. Đến 17 giờ 36 phút ngày 28-4-1975, không quân ta tiến công vào sân bay Tân Sơn Nhất, làm tê liệt sân bay và náo động thành phố Sài Gòn. Trước tình hình đó, Hội đồng an ninh quốc gia Mỹ họp khẩn cấp và quyết định di tản cấp tốc sứ quán và nhân viên quân sự, dân sự Mỹ còn lại ra khỏi miền Nam Việt Nam. Mỹ phải gạt bỏ Trần Văn Hương, đưa Dương Văn Minh lên thay để đối phó với tình hình nguy cấp.

Đến sáng ngày 29-4, các quân đoàn của ta nhất loạt mở đợt tổng công kích vào trung tâm Sài Gòn, sào huyệt cuối cùng của địch. Vào lúc 11 giờ 30 phút ngày 30-4-1975, cờ chiến thắng của ta đã được cắm trên dinh Độc Lập. Lực lượng quân sự và bộ máy chính quyền địch ở Quân khu III, Quân đoàn III bị tiêu diệt hoàn toàn. Ngày 2-5-1975, cuộc chiến đấu để giải phóng các địa phương còn lại ở Đồng bằng sông Cửu Long, các đảo trên quần đảo Trường Sa và các đảo, quần đảo ở Biển Đông giành thắng lợi.

Như vậy, trong 55 ngày đêm chiến đấu, dưới sự lãnh đạo đúng đắn, sáng tạo cùng quyết tâm của Bộ Chính trị, Quân uỷ Trung ương và cấp uỷ các địa phương, quân và dân ta đã đánh tan rã trên 1 triệu quân địch, làm sụp đổ toàn bộ chính quyền Việt Nam Cộng hòa, buộc Tổng thống Dương Văn Minh phải tuyên bố đầu hàng không điều kiện. Cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 đã giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc và tay sai; lật đổ ách thống trị của đế quốc và tay sai, hoàn thành thắng lợi cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, mở ra thời kỳ mới - thời kỳ độc lập, thống nhất và tiến lên chủ nghĩa xã hội.

Đại thắng mùa Xuân năm 1975 có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong lịch sử dân tộc ta, là “trận quyết chiến chiến lược lịch sử vĩ đại”, “là chương kết thúc tuyệt đẹp trên 20 năm chiến đấu chống Mỹ, cứu nước hết sức oanh liệt của Nhân dân ta” [6, tr.36], thể hiện trình độ cao về nghệ thuật quân sự, về tổ chức chiến dịch, về chỉ huy chiến đấu, về kết hợp giữa tiến công và nổi dậy của quân và dân ta. Đánh giá thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng (12-1976) nhận định: “Năm tháng sẽ trôi qua, nhưng thắng lợi của nhân dân ta trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc ta như một trong những trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người; và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu sắc” [4, tr.471]. Với thắng lợi vĩ đại này, nhân dân Việt Nam đã chứng minh chân lý: Trong thời đại ngày nay, một dân tộc đất không rộng, người không đông, kinh tế kém phát triển, nếu biết đoàn kết chặt chẽ và đấu tranh kiên quyết dưới sự lãnh đạo của một đảng Mác - Lênin chân chính, có đường lối và phương pháp cách mạng đúng đắn, nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, biết kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại thì hoàn toàn có thể đánh bại mọi thế lực xâm lược, dù đó là đế quốc hùng mạnh.

2. Ý nghĩa lịch sử đối với công cuộc đổi mới, đưa đất nước bước vào kỷ nguyên vươn mình

Sau Đại thắng mùa Xuân năm 1975, đất nước được hoàn toàn thống nhất.  Tuy nhiên, các thế lực thù địch thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình” phá hoại nền tảng tư tưởng của Đảng; phát động cuộc chiến tranh biên giới, bao vây, cấm vận kinh tế và ngoại giao, cô lập Việt Nam... Trước tình hình đó, toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta luôn kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Từ năm 1986, Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo công cuộc đổi mới toàn diện đất nước. Đến nay, sau gần 40 năm, “đất nước đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử; độc lập, chủ quyền quốc gia và môi trường hòa bình được giữ vững, chính trị - xã hội ổn định, kinh tế ngày càng phát triển, quốc phòng, an ninh được bảo đảm vững chắc, đời sống mọi mặt của Nhân dân không ngừng được nâng cao. Từ một nước nghèo, lạc hậu, Việt Nam đã thoát khỏi nhóm các nước có thu nhập thấp từ năm 2008. Tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 58% (theo chuẩn cũ) năm 1993 xuống còn 2,93% (theo chuẩn nghèo đa chiều mới) năm 2023. Qua 40 năm đổi mới, Việt Nam đã trở thành quốc gia có nền kinh tế lớn thứ 4 trong ASEAN, thứ 32 trên thế giới” [5, tr.13].

Hiện nay, Việt Nam tiếp tục đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, “đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc” [5, tr.19]. Đó là kỷ nguyên phát triển, kỷ nguyên giàu mạnh của dân tộc dưới sự lãnh đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam, xây dựng thành công nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa, dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, sánh vai với các cường quốc năm châu. Trong đó, mọi người dân đều có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, được hỗ trợ phát triển, làm giàu; đóng góp ngày càng nhiều hơn cho nền hòa bình, ổn định và phát triển của thế giới, cho hạnh phúc của nhân loại và văn minh thế giới. Đây là bước phát triển tất yếu, hợp quy luật vận động của cách mạng Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại. Mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, sánh vai với các cường quốc năm châu” là đích đến của kỷ nguyên vươn mình. Trong bối cảnh đó, chúng ta mãi tự hào và biết ơn sự hy sinh to lớn của các anh hùng, các thế hệ cha ông đã chiến đấu hy sinh vì nền độc lập tự do và thống nhất Tổ quốc. Đại thắng mùa Xuân năm 1975 có ý nghĩa lịch sử vô cùng to lớn đối với công cuộc đổi mới, đưa đất nước bước vào kỷ nguyên vươn mình. Bới vậy, toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta cần tiếp tục phát huy những giá trị đó trong điều kiện mới, đó là:

 Thứ nhất,  tiếp tục giữ vững và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng trong điều kiện mới.

Từ khi ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn quan tâm chăm lo xây dựng Đảng thật sự trong sạch, vững mạnh, đáp ứng yêu cầu cách mạng. Đảng ngày càng trưởng thành, nâng cao năng lực lãnh đạo và cầm quyền, tăng cường mối quan hệ gắn bó mật thiết với Nhân dân, khơi dậy sức sáng tạo, phát huy quyền làm chủ thực sự của Nhân dân. Vai trò lãnh đạo của Đảng trong Đại thắng mùa Xuân năm 1975 là bài học có ý nghĩa lịch sử quan trọng đối với công cuộc đổi mới, đưa đất nước bước vào kỷ nguyên vươn mình hiện nay. Trong Đại thắng mùa Xuân năm 1975, Đảng đã nắm vững tình hình, đề ra đường lối đúng đắn để giải phóng hoàn toàn miền Nam. Khi thời cơ đến, Đảng kịp thời lãnh đạo chớp thời cơ giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. Những quyết sách đó của Đảng đã thể hiện tầm cao trí tuệ và trách nhiệm của Đảng đối với đất nước và dân tộc. Hiện nay, khi đất nước đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, bước vào kỷ nguyên vươn mình, để tiếp tục giữ vững và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng trong điều kiện mới, Đảng nhấn mạnh cần “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện; đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”; “tự chuyển hóa”; bảo vệ vững chắc thành quả cách mạng, thành tựu đổi mới của Nhân dân ta, dân tộc ta...” [5, tr.173].

  Thứ hai, phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong công cuộc đổi mới, đưa đất nước bước vào kỷ nguyên vươn mình.

Đại thắng mùa Xuân năm 1975  là kết quả tổng hợp của nhiều nhân tố, mà một trong những nhân tố có ý nghĩa quyết định là Đảng đã xây dựng và phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Nhìn lại chặng đường lịch sử vẻ vang của dân tộc, chúng ta càng thấm nhuần sâu sắc tư tưởng đoàn kết của Chủ tịch Hồ Chí Minh, càng tự hào với sự lãnh đạo tài tình, sáng suốt của Đảng. Trong bối cảnh hiện nay, việc phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc được Đảng tiếp tục coi trọng; bởi đó không chỉ là bài học thành công của quá khứ, mà đó còn là động lực chủ yếu, nhân tố có ý nghĩa quyết định, bảo đảm cho thắng lợi bền vững của công cuộc đổi mới, đưa đất nước bước vào kỷ nguyên vươn mình. Để phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, cần không ngừng đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, tăng cường và phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Kiên định lập trường, quan điểm và thực hành lấy “dân là gốc”; lấy hạnh phúc, ấm no của Nhân dân làm mục tiêu; phải “Thực hiện đại đoàn kết dân tộc trên nền tảng của khối liên minh giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức; bảo đảm công bằng, bình đẳng giữa các dân tộc, giai cấp, tầng lớp xã hội và người dân trong tiếp cận cơ hội và thụ hưởng thành quả phát triển; nêu cao ý thức trách nhiệm của mỗi cá nhân, cộng đồng với quốc gia, dân tộc” [5, tr.34].

 Thứ ba, phát huy sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong công cuộc đổi mới, đưa đất nước bước vào kỷ nguyên vươn mình.

Để giành được đại thắng vào mùa Xuân năm 1975, Đảng đã lãnh đạo toàn quân và toàn dân dựa vào sức mình là chính, phát huy sức mạnh bên trong là chủ yếu, đồng thời phải đoàn kết quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ của quốc tế. Hiện nay, trong bối cảnh đất nước bước vào kỷ nguyên vươn mình với nhiều thời cơ và thuận lợi, cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế ngày càng cao. Việt Nam đang hội tụ các điều kiện về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng, hội nhập quốc tế… Tất cả điều đó tạo nên thế và lực để đất nước phát triển, bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, hướng tới mục tiêu xây dựng đất nước hùng cường, phồn vinh và hạnh phúc. Trong điều kiện mới, Đảng nhấn mạnh cần: “Phát huy cao nhất sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị kết hợp với sức mạnh thời đại, tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế; củng cố niềm tin, phát huy sức sáng tạo, ý chí và khát vọng phát triển của toàn dân tộc, tạo động lực để phát triển đất nước nhanh, bền vững, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹ lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân, chế độ xã hội chủ nghĩa, nền văn hóa và lợi ích quốc gia, dân tộc; bảo vệ vị thế và uy tín của đất nước; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định chính trị, an ninh quốc gia…” [5, tr.107].

Thứ tư, ý chí quyết tâm của Đại thắng mùa Xuân năm 1975 là động lực thúc đẩy tinh thần yêu nước, ý chí tự lực, tự cường, khát vọng phát triển đất nước trong công cuộc đổi mới, đưa đất nước bước vào kỷ nguyên vươn mình.

Đại thắng mùa Xuân năm 1975 là thắng lợi của sự tổng hòa nhiều yếu tố: đường lối chính trị, quân sự đúng đắn và sáng tạo của Đảng; nền ngoại giao cách mạng; tinh thần đấu tranh anh dũng, kiên cường của cả dân tộc và ý chí quyết tâm thống nhất Tổ quốc của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta được phát huy cao độ trong thời đại Hồ Chí Minh. Tinh thần đó tiếp tục soi sáng, khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc trong công cuộc đổi mới, đưa đất nước bước vào kỷ nguyên vươn mình. Trong điều kiện mới, hòa bình, độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội là mục tiêu quan trọng, xuyên suốt, đồng thời còn mang tính cấp bách. Qua gần 40 năm đổi mới toàn diện, cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế của đất nước ngày càng được khẳng định và nâng cao. Đây là những tiền đề quan trọng để toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta “khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự lực, tự cường, khát vọng phát triển đất; phát huy sức mạnh văn hóa, con người thành nguồn lực nội sinh và động lực phát triển” [5, tr.18] trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Điều này thể hiện ý chí quyết tâm của cả dân tộc để xây dựng và phát triển đất nước, vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Đó cũng chính là sự nối tiếp của ý chí quyết tâm thống nhất Tổ quốc mà Đại thắng mùa Xuân năm 1975 đã mang lại.

Kết luận

Đại thắng mùa Xuân năm 1975 đã đi vào lịch sử dân tộc Việt Nam như một dấu son chói lọi, một chiến công hiển hách, là một trong những sự kiện trọng đại, có tầm vóc và ý nghĩa lịch sử to lớn trong thế kỷ XX. Tinh thần của Đại thắng mùa Xuân năm 1975 đã cổ vũ toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta giành những thắng lợi trong sự nghiệp đổi mới đất nước. Trong thời đại hiện nay, phát huy tinh thần Đại thắng mùa Xuân năm 1975 sẽ tiếp thêm những động lực, niềm tin và khát vọng cho toàn Đảng, toàn quân và toàn dân hiện thực mục tiêu xây dựng đất nước hùng cường, phồn vinh và hạnh phúc; đưa toàn dân tộc vững bước vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.

 

Tài liệu tham khảo:

[1] Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 34, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

[2] Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 35, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

[3] Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 36 Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội.

[4] Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), tập 37,  Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội.

[5] Đảng Cộng sản Việt Nam (2025),  Dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.

[6] Võ Nguyên Giáp, Văn Tiến Dũng (1975), Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy đại thắng mùa Xuân năm 1975, Tạp chí Học tập, số 6, Hà Nội.

Đọc thêm

Nghiên cứu, đề xuất xây dựng chuẩn chương trình bồi dưỡng cho cán bộ lãnh đạo, quản lý hiện nay

Tác giả: TRƯƠNG BẢO THANH

(GDLL) - Xây dựng chuẩn chương trình bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo quản lý đóng vai trò hết sức quan trọng, là căn cứ để cơ sở đào tạo tiến hành xây dựng, thẩm định, ban hành, thực hiện, đánh giá và cải tiến các chương trình bồi dưỡng trên thực tế. Bài viết tập trung nghiên cứu cơ sở chính trị, pháp lý, cơ sở thực tiễn, đề xuất xây dựng chuẩn chương trình bồi dưỡng cho cán bộ lãnh đạo, quản lý ở Việt Nam hiện nay.

Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế thích ứng linh hoạt với đại dịch Covid 19 tại Việt Nam

Tác giả: CHU THỊ LÊ ANH

(GDLL) - Đại dịch COVID-19 đã gây ra nhiều hậu quả tiêu cực tới đời sống xã hội và làm giảm sút tăng trưởng kinh tế của tất cả các quốc gia trên thế giới trong đó có Việt Nam. Bài viết phân tích các chính sách phục hồi và phát triển kinh tế ứng phó tác động của dịch bệnh COVID-19 tới nền kinh tế Việt Nam, từ đó đề xuất một số khuyến nghị chính sách để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế thích ứng linh hoạt với dịch bệnh trong thời gian tới nhằm thực hiện thành công Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng.

Giải pháp thực hiện các chính sách hỗ trợ tài chính để doanh nghiệp vượt qua khó khăn do đại dịch Covid-19

Tác giả: NINH THỊ MINH TÂM

(GDLL) - Đại dịch Covid-19 đã tạo ra cú sốc đối với nền kinh tế Việt Nam và tác động tiêu cực đến “sức khỏe”, tiềm lực và khả năng chống chịu của nhiều doanh nghiệp, dẫn đến nguy cơ phá sản. Trong bối cảnh đó, Đảng và Nhà nước đã ban hành và thực hiện nhiều chính sách hỗ trợ tài chính nhằm giúp các doanh nghiệp vượt qua khó khăn. Bài viết tập trung phân tích thực trạng và đề xuất một số giải pháp tiếp tục thực hiện các chính sách hỗ trợ tài chính nhằm tăng “sức bền” và hỗ trợ phục hồi sản xuất, kinh doanh cho các doanh nghiệp bị tác động tiêu cực bởi dịch bệnh.

Tổn thương của doanh nghiệp Việt Nam sau cú sốc đại dịch Covid-19 - thực trạng và khuyến nghị

Tác giả: HOÀNG VĂN HOAN

(GDLL) - Khủng hoảng thường tạo cú sốc cho doanh nghiệp xét về cả kết quả kinh doanh thực tế và kỳ vọng. Các cú sốc có thể tích cực (hữu ích) hoặc tiêu cực (có hại) gây tổn thương cho doanh nghiệp và cả nền kinh tế. Để có những biện pháp đối phó nhằm ngăn chặn sớm cũng như giảm bớt những tác động bất lợi của các cú sốc gây tổn thương cho doanh nghiệp cũng như xã hội, đặc biệt sau cú sốc đại dịch COVID -19, bài viết giúp nhận diện các cú sốc, mức độ tổn thương của doanh nghiệp Việt Nam sau cú sốc bất lợi từ đại dịch COVID-19 trong giai đoạn vừa qua, từ đó đưa ra những hàm ý chính sách.

Phát triển du lịch cộng đồng tạo sinh kế bền vững ở các tỉnh vùng Tây Bắc - một số vấn đề đặt ra

Tác giả: Tạ Thị Đoàn

(GDLL) - Phát triển du lịch cộng đồng đã và đang mang lại nhiều lợi ích cho các tỉnh vùng Tây Bắc, qua đó góp phần tạo sinh kế bền vững cho người dân địa phương. Trên cơ sở phân tích thực trạng phát triển du lịch cộng đồng tạo sinh kế bền vững ở các tỉnh vùng Tây Bắc thời gian qua, bài viết chỉ ra một số vấn đề còn tồn tại và đề xuất các giải pháp nhằm thúc đẩy phát triển du lịch cộng đồng tạo sinh kế bền vững ở các tỉnh vùng Tây Bắc trong thời gian tới.