Thứ Ba, ngày 29/04/2025, 22:56

Phát huy những giá trị và bài học lịch sử Đại thắng mùa Xuân năm 1975 - đưa đất nước vững bước tiến vào kỷ nguyên mới của dân tộc

Ngô Quang Trung – Nguyễn Thị Phương Nam
Học viện Chính trị khu vực I.

(GDLL) Đại thắng Mùa Xuân năm 1975 đi vào lịch sử dân tộc Việt Nam như một trong những mốc son chói lọi nhất, đã chấm dứt ách thống trị hơn một thế kỷ của chủ nghĩa thực dân, mở ra thời kỳ độc lập, thống nhất, đi lên chủ nghĩa xã hội. Những giá trị từ thành quả đấu tranh cách mạng cùng với những bài học kinh nghiệm lịch sử là cơ sở góp phần đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới. Bài viết tập trung làm rõ giá trị của Đại thắng mùa Xuân năm 1975, từ đó đưa ra một số giải pháp phát huy các giá trị và bài học lịch sử để Việt Nam vững bước tiến vào kỷ nguyên phát triển mới.


Vững bước tiến vào kỷ nguyên mới*

(ảnh minh họa; nguồn news.vnanet.vn)

 

Đặt vấn đề

Sự kiện lịch sử Đại thắng mùa Xuân năm 1975 là biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, khẳng định ý chí “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” và lòng dũng cảm cùng trí tuệ con người Việt Nam trong thời đại mới. Đại thắng mùa Xuân năm 1975 để lại cho chúng ta những giá trị và bài học lịch sử vô cùng quý giá về xây dựng đường lối chiến lược, sách lược đúng đắn, sáng tạo nêu cao tính độc lập, tự chủ. Việc quán triệt sâu sắc và thực hành quan điểm “Dân là gốc”, phát huy vai trò chủ thế, vị trí trung tâm của nhân dân; sự kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; vận dụng sáng tạo các phương pháp cách mạng; giữ vững và tăng cường vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng đối với công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc và sự nghiệp đổi mới hiện nay đã cổ vũ, động viên, định hướng toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta quyết tâm vượt qua mọi khó khăn, thách thức, vững vàng bước vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam.

1. Giá trị, bài học kinh nghiệm lịch sử của Đại thắng mùa Xuân năm 1975

1.1. Giá trị lịch sử của Đại thắng mùa Xuân năm 1975

Về ý nghĩa và giá trị lịch sử, khi đánh giá về thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước mà đỉnh cao là Đại thắng mùa Xuân năm 1975, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng (1976) khẳng định: “Năm tháng sẽ trôi qua, nhưng thắng lợi của nhân dân ta trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc ta như một trong những trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người; và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu sắc”[1,tr.471].

Đại thắng mùa Xuân năm 1975 đã đập tan chế độ nguỵ quyền và đánh bại chủ nghĩa thực dân mới của đế quốc Mỹ, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, non sông thu về một mối. Đại thắng mùa Xuân năm 1975 là thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đồng thời kết thúc 30 năm chiến tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc, chấm dứt ách thống trị hơn một thế kỷ của chủ nghĩa thực dân trên đất nước ta, hoàn thành về cơ bản cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trên cả nước, bảo vệ phát triển những thành tựu của cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, hoàn thành thống nhất đất nước. Đại thắng Mùa Xuân năm 1975 là thắng lợi to lớn nhất, trọn vẹn nhất trong tiến trình thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc của Đảng và nhân dân ta. Do vậy, thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước mà đỉnh cao là Đại thắng mùa Xuân năm 1975 đã tạo tiền đề vật chất và tinh thần to lớn để tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội trên đất nước ta.

Đại thắng mùa Xuân năm 1975 là dấu mốc lịch sử quan trọng trong lịch sử Việt Nam, là tiếp điểm giữa chiến tranh và hoà bình, giữa cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân với cách mạng xã hội chủ nghĩa trên phạm vi cả nước, giữa sự chuyển biến của dân tộc trong phạm vi quốc gia lên phạm vi quốc tế, là nơi gắn kết giữa yếu tố dân tộc với thời đại. Đây cũng chính là một trong những sự kiện quan trọng, có tầm vóc và ý nghĩa to lớn nhất trong lịch sử thế giới thế kỷ XX. Thắng lợi đó đã góp phần cổ vũ, động viên, thúc đẩy cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì độc lập dân tộc, hoà bình, dân chủ và tiến bộ xã hội.

Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước với đỉnh cao là Đại thắng Mùa Xuân năm 1975 đã nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế, tạo tiền đề thuận lợi cho mở rộng quan hệ quốc tế thời kỳ mới. Đó là mở ra quy mô lớn hơn, số lượng các nước có quan hệ với Việt Nam nhiều hơn, chất lượng quan hệ đối tác cao hơn, toàn diện và sâu sắc hơn.

1.2. Bài học kinh nghiệm

Thứ nhất, Đại thắng mùa Xuân năm 1975 để lại cho công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc hiện nay về sự sáng tạo trong chỉ đạo chiến lược, không ngừng bổ sung, phát triển nền tảng tư tưởng, lý luận của Đảng. Xác định và xây dựng đường lối chiến lược đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với đặc điểm cách mạng Việt Nam thời kỳ mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.

Thứ hai, phát huy cao độ sức mạnh truyền thống yêu nước, đại đoàn kết dân tộc vào thực hiện mục tiêu cao nhất của Tổ quốc, đặt lợi ích dân tộc và quyền lợi cơ bản của toàn dân lên trên hết, trước hết. Phát huy cao độ truyền thống, giá trị tinh thần và sức mạnh nội lực dân tộc, thực hiện đại đoàn kết toàn dân, chung sức, đồng lòng, cộng trí, cộng lực, quyết tâm vượt qua khó khăn, thách thức; giữ vững niềm tin vào thắng lợi chiến thắng kẻ thù đói nghèo, lạc hậu; hội nhập quốc tế sâu rộng, vững vàng bước vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.

Thứ ba, về vận dụng và lựa chọn sáng tạo phương pháp cách mạng thích hợp. Coi trọng lực lượng nhân dân, dựa vào nhân dân, phát huy vai trò sáng tạo của nhân dân. Tiến hành phương thức đấu tranh, xây dựng, củng cố tập hợp lực lượng cách mạng trên cơ sở phát huy tinh thần đoàn kết và sức mạnh của nhân dân, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sử dụng phương pháp cách mạng tổng hợp. Đảng phát huy cao độ sức mạnh vật chất và sức mạnh tinh thần của dân tộc, tạo thành một khối đoàn kết, thống nhất; kết hợp chặt chẽ giữa giữa thế - lực - thời; kết hợp các phương pháp trên các mặt trận: chính trị, ngoại giao, quân sự, kinh tế, văn hóa. Vận dụng về bài học chủ động tạo thời cơ, nhận thức đúng thời cơ, kiên quyết đẩy lùi nguy cơ, thách thức, chuyển hóa nguy cơ thành thời cơ đưa đất nước phát triển toàn diện, mạnh mẽ, “bứt phá và cất cánh” trong kỷ nguyên vươn mình.

Thứ tư, thực hiện đoàn kết quốc tế trên tinh thần nêu cao độc lập, tự chủ. Đoàn kết, hợp tác quốc tế tranh thủ sự ủng hộ rộng rãi, giúp đỡ thiết thực quý báu của cộng đồng quốc tế, tạo môi trường quốc tế thuận lợi, sức mạnh tổng hợp để cách mạng Việt Nam đi tới thắng lợi. Đoàn kết, hợp tác quốc tế phải bảo đảm lợi ích quốc gia, dân tộc. Hiện nay, Việt Nam đang thực hiện nhất quán “đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối ngoại”. Đồng thời, Việt Nam khẳng định rõ “là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế”[2, tr.161-162].

Thứ năm, sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quan trọng hàng đầu quyết định tới thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Để phát huy vai trò lãnh đạo và địa vị của Đảng cầm quyền cần xây dựng, chỉnh đốn nhằm nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của cách mạng trong thời kỳ mới. Coi trọng lực lượng nhân dân, đánh giá và phát huy mạnh mẽ vai trò chủ thể của nhân dân, quán triệt sâu sắc quan điểm “Dân là gốc”. Các chủ trương, chính sách của Đảng phải xuất phát từ nhu cầu, nguyện vọng mong muốn chính đáng của nhân dân.

2. Phát huy các giá trị và bài học lịch sử từ Đại thắng Mùa Xuân năm 1975 để Việt Nam vững bước tiến vào kỷ nguyên phát triển mới

Sau 50 năm thống nhất đất nước và gần 40 năm đổi mới, Việt Nam đã thực hiện thắng lợi các yêu cầu lịch sử, đạt được nhiều thành tựu to lớn, thoát khỏi tình trạng nước nghèo, kém phát triển, bước vào hàng ngũ các nước có thu nhập trung bình. Đây là những điều kiện tiền đề, nền tảng quan trọng để Việt Nam hiện thực hóa khát vọng phát triển phồn vinh, hạnh phúc. Hội nghị Trung ương 10 khóa XIII, Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định Việt Nam bước vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc: Là kỷ nguyên phát triển, kỷ nguyên giàu mạnh, kỷ nguyên thịnh vượng dưới sự lãnh đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản, xây dựng thành công nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa, “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Việt Nam bước vào kỷ nguyên mới trong bối cảnh thế giới đang trong thời kỳ thay đổi lớn mang tính thời đại, do vậy, khó khăn, thách thức cùng với thuận lợi và vận hội mới cũng đan xen tác động tới sự phát triển của đất nước và mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Phát huy giá trị nhân tố chính trị, tinh thần trong Đại thắng Mùa Xuân năm 1975 vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thực hiện mục tiêu vì một Việt Nam hùng cường, “sánh vai với các cường quốc năm châu”, trong đó có xây dựng kinh tế ngày càng phát triển; quốc phòng an ninh được bảo đảm vững chắc; đời sống vật chất và tinh thần của người dân ngày một nâng cao; quân đội vững mạnh về chính trị làm cơ sở để xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại, không ngừng nâng cao sức mạnh chiến đấu, sẵn sàng nhận và hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ do Đảng, Tổ quốc, nhân dân giao phó. Để đạt được mục tiêu đó, cần thực hiện tốt một số giải pháp sau:

Thứ nhất, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục sâu rộng trong đội ngũ cán bộ, đảng viên và nhân dân về quyết tâm thực hiện khát vọng phát triển vươn mình của dân tộc trong kỷ nguyên mới. Khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, tự chủ, tự tin, tự lực, tự cường, tự hào dân tộc, khát vọng thiêng liêng, mãnh liệt về xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh phúc.

Kỷ nguyên mới là kỷ nguyên của đổi mới và sáng tạo, đòi hỏi tiếp tục tư duy mới, tìm tòi, có sự đột phá. Do vậy, tăng cường giáo dục truyền thống văn hóa, lịch sử và cách mạng vẻ vang của Đảng, của dân tộc; không ngừng nâng cao nhận thức và trình độ dân trí cho nhân dân; mở rộng dân chủ, phát huy sáng kiến; coi trọng công tác nâng cao lý luận chính trị cho cán bộ đảng viên; tích cực, chủ động đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Tăng cường công tác giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng con người mới; chú trọng bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau trong điều kiện mới, tiếp thu và chiếm lĩnh khoa học - công nghệ, nâng tầm văn hóa trong cuộc sống, năng động sáng tạo trong học tập, lao động, kinh doanh, trong nghiên cứu khoa học, công nghệ và các hoạt động văn hóa xã hội trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Phát huy cao độ tinh thần quyết chiến thắng của Đại thắng mùa Xuân năm 1975 để vượt qua khó khăn, thách thức, tụt hậu, từng bước tiến lên hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, đưa đất nước phát triển nhanh, bền vững, có vị trí xứng đáng trên trường quốc tế.

Thứ hai, phát huy tiềm năng, nguồn lực của đất nước, phát huy trí tuệ của dân tộc, tri thức, kinh nghiệm quân sự, kinh nghiệp xây dựng căn cứ địa, kinh nghiệm tổ chức hậu phương phục vụ tiền tuyến, công tác tư tưởng trong Đại thắng mùa Xuân năm 1975 vào sự nghiệp cách mạng mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Bước vào kỷ nguyên mới, khoa học công nghệ đóng vai trò trung tâm, là động lực chính của sự tăng trưởng. Nền kinh tế thời đại mới không chỉ đơn thuần dựa vào thiên nhiên, lao động cơ bản mà chính là trên cơ sở nền tảng tri thức, thông tin, công nghệ. Điều đó, đòi hỏi lực lượng lao động phải có trình độ cao, hiểu biết sâu rộng công nghệ, có khả năng sáng tạo và sự thích ứng cao. Yếu tố khoa học công nghệ làm thay đổi phương thức sản xuất. Cách thức làm việc từ xa và mô hình làm việc linh hoạt sẽ trở thành xu hướng mới dẫn đến mọi hoạt động của mỗi cá nhân, kể cả các doanh nghiệp, tổ chức cơ quan cần phải áp dụng công nghệ mới vào các hoạt động quản lý và dịch vụ để nâng cao hiệu quả phục vụ nhiệm vụ công việc. Mỗi cá nhân, mỗi tổ chức phải liên tục học hỏi, nâng cao kỹ năng và khả năng sáng tạo, thích ứng. Vì vậy, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác cán bộ, xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp nhất là cấp chiến lược, người đứng đầu các cấp đủ phẩm chất năng lực, uy tín ngang tầm nhiệm vụ. Đổi mới mạnh mẽ, có hiệu quả mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa trên nền tảng khoa học - công nghệ. Đổi mới sáng tạo, xây dựng nguồn lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế tri thức, thực hiện chuyển đổi số hiệu quả. Xây dựng, hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đầy đủ, hiện đại, hội nhập.

Xây dựng quốc phòng vững mạnh, giữ vững môi trường hoà bình, ổn định chính trị, xã hội, bảo đảm và tạo điều kiện quan trọng cho việc thực hiện mục tiêu chiến lược. Không ngừng nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, giáo dục quốc phòng, an ninh, xây dựng ý thức trách nhiệm đối với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa cho mọi công dân trong điều kiện lịch sử mới.

Thứ ba, xây dựng đường lối chiến lược đúng đắn, có sách lược phù hợp. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và sự vào cuộc quyết liệt của hệ thống chính trị trong khơi dậy và đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới. Kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, lý luận về đường lối đổi mới. Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Luôn coi trọng nguyên tắc “Dĩ bất biến ứng vạn biến”; Thường xuyên thực hiện tốt khâu chuẩn bị lực lượng, sẵn sàng tác chiến; sử dụng phối kết hợp các phương pháp, chú trọng mũi trọng tâm, trọng điểm và yếu tố mang tính “thần tốc”, đột phá; chú ý yếu tố thời cơ. Xử lý giải quyết tháo gỡ được các nút thắt, điểm nghẽn, tạo đà cho việc tăng trưởng kinh tế, phát triển văn hóa. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh, ngăn chặn đẩy lùi tham nhũng, lãng phí, tiêu cực. Chú trọng xây dựng và thực hiện nghiêm chuẩn mực đạo đức, quy tắc ứng xử, các quy định nội bộ của cơ quan, tổ chức. Quyết liệt đấu tranh phòng, chống chủ nghĩa cá nhân, những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Tiếp tục tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, toàn diện; phát huy sức mạnh văn hóa, con người và khối đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại; đẩy mạnh xây dựng lực lượng sản xuất mới, thúc đẩy đổi mới, sáng tạo, chuyển đổi số, chuyển đổi xanh; phát triển nhanh, bền vững đất nước và bảo vệ Tổ quốc. Tổ chức lãnh đạo và thực hiện thành công mục tiêu đến năm 2030 trở thành nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đến năm 2045 trở thành nước phát triển, thu nhập cao, vì một Việt Nam hoà bình, độc lập, dân chủ, giàu mạnh, phồn vinh, văn minh, hạnh phúc, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.

Thứ tư, tiếp tục đổi mới, hoàn thiện tổ chức bộ máy và nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị; xây dựng và củng cố khối đại đoàn kết dân tộc, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Tập trung tinh gọn bộ máy, tổ chức các cơ quan của Đảng; thực hiện đồng bộ mô hình tổng thể tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị, đơn vị hành chính các cấp, giảm đầu mối, giảm cấp trung gian, giảm lược bộ phận cồng kềnh, chồng lấn, sắp xếp tổ chức theo hướng đa ngành, đa lĩnh vực; đẩy mạnh phân cấp, phân quyền gắn với trách nhiệm. Bảo đảm sự thống nhất trong quản lý nhà nước và phát huy tính chủ động sáng tạo, nâng cao khả năng tự chủ, tự cường của các địa phương; bảo đảm thực sự hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng kỳ vọng của nhân dân, phù hợp với yêu cầu của kỷ nguyên mới. Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh phúc.

Thứ năm, củng cố mối quan hệ gắn bó chặt chẽ giữa Đảng với nhân dân, phát huy vai trò của nhân dân trong xây dựng Đảng, Nhà nước và tổ chức thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước. Pháp luật Nhà nước cần phải tiếp tục được hoàn thiện để thể chế hóa đường lối, chính sách của Đảng, phát huy dân chủ vì con người; công nhận, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Nhân dân đóng vai trò là chủ thể, trung tâm của sự nghiệp kiến tạo kỷ nguyên mới. Mở rộng dân chủ, thực hiện tốt Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở; gắn công tác dân vận với thực hiện có hiệu quả các chính sách phát triển kinh tế - xã hội. Đổi mới về nội dung, phương thức vận động quần chúng, khơi dậy khát vọng phát triển đất nước nhằm tạo sự nhất trí, đồng thuận rộng rãi trong nhân dân, xây dựng và củng cố khối đại đoàn kết toàn dân vững mạnh.

Kết luận

Nửa thế kỷ đã trôi qua kể từ dấu mốc lịch sử Đại thắng mùa Xuân năm 1975, song tầm vóc và giá trị lớn lao cùng với những bài học kinh nghiệm quý báu từ kỳ tích oanh liệt, hiển hách của dân tộc mãi mãi là niềm tự hào, là hành trang và sức mạnh của dân tộc, là nguồn động viên, cổ vũ thôi thúc, định hướng cho dân tộc tiếp bước con đường mà Đảng quang vinh đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn để đưa dân tộc tới bến bờ độc lập, tự do, hạnh phúc. Phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, toàn Đảng, toàn quân, toàn dân quyết tâm nỗ lực phấn đấu xây dựng đất nước hùng cường, ngày càng giàu đẹp, văn minh, có nhiều đóng góp quan trọng đối với thế giới, vững bước trong kỷ nguyên mới ở một tầm cao mới và tạo nền tảng cho các giai đoạn tiếp nối.

 

* tên gốc của ảnh: 50 năm Thống nhất đất nước: Những bóng hồng đội nắng thắng mưa luyện tập cho lễ duyệt binh

 

Tài liệu tham khảo:

[1] Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 37, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

[2] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.

[3] Tô Lâm (2024), Cơ sở định vị mục tiêu phát triển và định hướng chiến lược đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, báo Nhân dân, số 25193, ngày 1/11/2024.

[4] Phùng Hữu Phú (2025), “Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc và những yêu cầu lịch sử”, https://tapchicongsan.org.vn.

Tin liên quan

Đọc thêm

Nghiên cứu, đề xuất xây dựng chuẩn chương trình bồi dưỡng cho cán bộ lãnh đạo, quản lý hiện nay

Tác giả: TRƯƠNG BẢO THANH

(GDLL) - Xây dựng chuẩn chương trình bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo quản lý đóng vai trò hết sức quan trọng, là căn cứ để cơ sở đào tạo tiến hành xây dựng, thẩm định, ban hành, thực hiện, đánh giá và cải tiến các chương trình bồi dưỡng trên thực tế. Bài viết tập trung nghiên cứu cơ sở chính trị, pháp lý, cơ sở thực tiễn, đề xuất xây dựng chuẩn chương trình bồi dưỡng cho cán bộ lãnh đạo, quản lý ở Việt Nam hiện nay.

Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế thích ứng linh hoạt với đại dịch Covid 19 tại Việt Nam

Tác giả: CHU THỊ LÊ ANH

(GDLL) - Đại dịch COVID-19 đã gây ra nhiều hậu quả tiêu cực tới đời sống xã hội và làm giảm sút tăng trưởng kinh tế của tất cả các quốc gia trên thế giới trong đó có Việt Nam. Bài viết phân tích các chính sách phục hồi và phát triển kinh tế ứng phó tác động của dịch bệnh COVID-19 tới nền kinh tế Việt Nam, từ đó đề xuất một số khuyến nghị chính sách để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế thích ứng linh hoạt với dịch bệnh trong thời gian tới nhằm thực hiện thành công Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng.

Giải pháp thực hiện các chính sách hỗ trợ tài chính để doanh nghiệp vượt qua khó khăn do đại dịch Covid-19

Tác giả: NINH THỊ MINH TÂM

(GDLL) - Đại dịch Covid-19 đã tạo ra cú sốc đối với nền kinh tế Việt Nam và tác động tiêu cực đến “sức khỏe”, tiềm lực và khả năng chống chịu của nhiều doanh nghiệp, dẫn đến nguy cơ phá sản. Trong bối cảnh đó, Đảng và Nhà nước đã ban hành và thực hiện nhiều chính sách hỗ trợ tài chính nhằm giúp các doanh nghiệp vượt qua khó khăn. Bài viết tập trung phân tích thực trạng và đề xuất một số giải pháp tiếp tục thực hiện các chính sách hỗ trợ tài chính nhằm tăng “sức bền” và hỗ trợ phục hồi sản xuất, kinh doanh cho các doanh nghiệp bị tác động tiêu cực bởi dịch bệnh.

Tổn thương của doanh nghiệp Việt Nam sau cú sốc đại dịch Covid-19 - thực trạng và khuyến nghị

Tác giả: HOÀNG VĂN HOAN

(GDLL) - Khủng hoảng thường tạo cú sốc cho doanh nghiệp xét về cả kết quả kinh doanh thực tế và kỳ vọng. Các cú sốc có thể tích cực (hữu ích) hoặc tiêu cực (có hại) gây tổn thương cho doanh nghiệp và cả nền kinh tế. Để có những biện pháp đối phó nhằm ngăn chặn sớm cũng như giảm bớt những tác động bất lợi của các cú sốc gây tổn thương cho doanh nghiệp cũng như xã hội, đặc biệt sau cú sốc đại dịch COVID -19, bài viết giúp nhận diện các cú sốc, mức độ tổn thương của doanh nghiệp Việt Nam sau cú sốc bất lợi từ đại dịch COVID-19 trong giai đoạn vừa qua, từ đó đưa ra những hàm ý chính sách.

Phát triển du lịch cộng đồng tạo sinh kế bền vững ở các tỉnh vùng Tây Bắc - một số vấn đề đặt ra

Tác giả: Tạ Thị Đoàn

(GDLL) - Phát triển du lịch cộng đồng đã và đang mang lại nhiều lợi ích cho các tỉnh vùng Tây Bắc, qua đó góp phần tạo sinh kế bền vững cho người dân địa phương. Trên cơ sở phân tích thực trạng phát triển du lịch cộng đồng tạo sinh kế bền vững ở các tỉnh vùng Tây Bắc thời gian qua, bài viết chỉ ra một số vấn đề còn tồn tại và đề xuất các giải pháp nhằm thúc đẩy phát triển du lịch cộng đồng tạo sinh kế bền vững ở các tỉnh vùng Tây Bắc trong thời gian tới.