
Chuyển đổi
xanh và phát triển bền vững tại Bình Dương (nguồn news.vnanet.vn)
Đặt vấn đề
Theo nguyên lý về mối liên hệ phổ
biến và nguyên lý thống nhất vật chất của thế giới, các mặt, yếu tố của đời sống
xã hội (kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, môi trường) là những bộ phận khác
nhau của một hệ thống xã hội không tách rời, tất yếu phải liên hệ, ràng buộc,
tác động lẫn nhau. Chính vì vậy, muốn phát triển bền vững, phải đứng trên quan
điểm toàn diện, nhìn nhận một cách tổng thể trong thế hài hòa giữa tất cả các yếu
tố trên, đồng thời, chú trọng đến vấn đề phát triển con người một cách toàn diện.
Triết lý phát triển bền vững ngày nay chính là triết lý phát triển hài hòa giữa
con người và tự nhiên và sự phát triển gắn kết trên tất cả các mặt của đời sống.
Đây cũng là tất yếu khách quan, là mục tiêu cao đẹp mà Đảng, Nhà nước và Nhân
dân ta đang hướng tới trên con đường đổi mới và phát triển đi lên chủ nghĩa xã
hội.
1. Quan điểm của triết học Mác – Lênin về mối quan hệ giữa
con người và tự nhiên
1.1. Về con người
Con người là vấn đề trung tâm
của sự phát triển, ở mọi giai đoạn, thời điểm lịch sử; có nhiều quan niệm khác
nhau bàn luận về con người, song triết học Mác - Lênin với quan điểm duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử mới nhìn nhận, đánh giá đúng con người, khẳng định con
người là một thực thể tự nhiên mang đặc tính xã hội.
C.Mác và Ph.Ăngghen đã vượt qua được các quan niệm cũ
mang tính trừu tượng về con người và có cách tiếp cận mới. C.Mác và Ph.Ăngghen
khẳng định chỉ xem xét con người trong đời sống xã hội hiện thực mới hiểu đúng
về con người, hiểu đúng bản
chất con người không phải là cái trừu tượng cố hữu của cá thể và “con người sẽ
mãi mãi chỉ là nhân vật hư ảo nếu cơ sở của nó không phải là những con người
mang tính kinh nghiệm”[1,
tr.22]. Để đi đến sự cụ thể về
con người hiện thực, C.Mác Mác và Ph.Ăngghen đã lấy hoạt động thực tiễn
của con người làm điểm xuất phát. Chính từ trong thực tiễn mà con người có quan
hệ với tự nhiên (nhận thức, cải tạo tự nhiên) khi đó các quan hệ xã hội của con
người được hình thành. Chính từ những thực tiễn này, con người dần biến đổi hiện thực xã hội đồng thời làm biến đổi
chính bản thân mình.
1.2. Về tự nhiên
Chủ nghĩa Mác còn coi tự nhiên như là “thân thể vô cơ của
con người”: “Giới tự nhiên - cụ thể là cái giới tự nhiên trong chừng mực bản
thân nó không phải là thân thể của con người - là thân thể vô cơ của con người.
Con người sống bằng giới tự nhiên. Như thế nghĩa là giới tự nhiên là thân thể của
con người, thân thể mà với nó con người phải ở lại trong quá trình thường xuyên
giao tiếp để tồn tại. Nói rằng đời sống thể xác và tinh thần của con người gắn liền
với giới tự nhiên, nói như thế chẳng qua chỉ có nghĩa là giới tự nhiên gắn liền
với bản thân giới tự nhiên, vì con người là một bộ phận của giới tự nhiên”[2, tr.135].
Vốn dĩ, tự nhiên là sự sống, là cái nôi sinh thành của
loài người, tự nhiên không có tính thiện, cũng không mang tính ác. Trong mối
quan hệ này, con người luôn chủ động tác động lên tự nhiên để nhằm thỏa mãn nhu
cầu, mong muốn của mình.
1.3. Về mối quan hệ giữa con người và tự nhiên
Con người là “tổng hòa các quan hệ
xã hội”, nhưng con người không phải là một hệ thống khép kín, mà con người có
vai trò tích cực trong tiến trình lịch sử với tư cách là chủ thể sáng tạo.
Chính thông qua quá trình thực hiện vai trò sáng tạo của mình, bản chất của con
người được thể hiện ra và thường xuyên có sự vận động, phát triển cùng sự vận động,
phát triển của xã hội. C.Mác nhấn mạnh: tính chất xã hội là cái vốn có của toàn
bộ sự vận động; bản thân xã hội sản xuất ra con người với tính cách là con người
như thế nào thì nó cũng sản xuất ra xã hội như thế. Hoạt động và sự hưởng dụng
những thành quả của hoạt động, xét theo nội dung của nó cũng như xét theo phương diện tồn tại, đều
mang tính chất xã hội; hoạt động xã hội và hưởng dụng xã hội.
Thông qua quá trình con người tác động
vào tự nhiên, tự nhiên sẽ tác động trở lại con người. Đó không phải là sự tác động
một chiều, mà là sự tác động qua lại. Con người lao động tạo ra của cải nuôi sống
bản thân mình và xã hội. Sản xuất vật chất là đặc trưng chỉ có ở con người, góp
phần thúc đẩy trình độ phát triển xã hội. C.Mác khẳng định rằng, không ai khác
chính con người làm nên lịch sử của mình. Do vậy, “lịch sử xã hội của con người
luôn chỉ là lịch sử của sự phát triển cá nhân của những con người”. Thông qua
quá trình hoạt động thực tiễn, con người tác động vào tự nhiên, xã hội và để lại
những dấu ấn của bản thân mình vào giới tự nhiên cũng như đối với xã hội và con
người từng bước phát triển bản thân mình mỗi ngày. Do vậy, tự nhiên ban đầu tưởng
như chỉ là cái tồn tại bên ngoài con người, là môi trường cho con người sống và
hoạt động, sau đó đã trở thành kết quả trong hoạt động mang tính lịch sử của
con người. Nhờ sự tương tác qua lại giữa con người và tự nhiên, mà con người đã
có được những thứ cần thiết phục vụ nhu cầu của mình, không chỉ về nhu cầu vật
chất, mà cả nhu cầu tinh thần.
2. Khái niệm phát triển bền vững và quan điểm của Đảng Cộng
sản Việt Nam về phát triển bền vững
2.1. Về phát triển bền vững
Phát triển là một quá trình vận động từ thấp đến cao, từ kém hoàn thiện đến
hoàn thiện. Triết học Mác khẳng định: sự phát triển của những hình thái kinh tế
- xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên, tuân theo các quy luật như quy luật
xã hội. Luật Bảo vệ môi trường của Việt Nam khẳng định: Phát triển bền vững là
phát triển đáp ứng được nhu cầu của hiện tại mà không làm tổn hại đến khả năng
đáp ứng nhu cầu đó của các thế hệ tương lai trên cơ sở kết hợp chặt chẽ, hài
hòa giữa tăng trưởng kinh tế, bảo đảm tiến bộ xã hội và bảo vệ môi trường.
Khi nói về phát triển bền vững, vấn
đề được đề cập trọng tâm nhất, mục tiêu hướng tới vẫn là con người với tư cách chủ thể, động lực
cho phát triển bền vững. Do đó, các biện pháp đưa ra về hợp tác quốc gia, quốc
tế, các mục tiêu đề ra như phát triển kinh tế xanh, bảo đảm an sinh xã hội,
tăng số người được dùng nước sạch, loại bỏ hóa chất độc hại trong môi trường;
phục hồi trữ lượng nguồn thủy sản bảo vệ đa dạng sinh học; tăng cường sử dụng
năng lượng tái tạo... luôn là những vấn đề được quan tâm khi phát triển bền vững.
2.2. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt
Nam về phát triển bền vững
Trong xu
thế hội nhập, đổi mới, phát triển mạnh mẽ Việt Nam đã lựa chọn chiến lược phát
triển đất nước theo hướng nhanh và bền vững để thực hiện mục tiêu "Dân
giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh". Trong quá trình hội nhập,
phát triển, chủ trương, quan điểm về phát triển công bằng, bền vững được Việt
Nam không ngừng bổ sung và hoàn thiện. Mốc đánh dấu nhận thức của Đảng về phát triển bền vững là ở Đại hội VI.
Văn kiện Đại hội nêu rõ phải có sự thống nhất giữa chính sách kinh tế với chính
sách xã hội, đồng thời nhấn mạnh ý nghĩa, tầm quan trọng của việc bảo vệ rừng
và các tài nguyên thiên nhiên. Trong Văn kiện Đại hội VII, phát triển bền vững được
trình bày rõ ràng, cụ thể và đầy đủ hơn, nhất là vấn đề bảo vệ môi trường. Nhiều cụm từ đã được sử dụng để thể hiện
nội dung thực chất của phát triển bền vững, như “bảo đảm sự hài hoà giữa phát
triển kinh tế và phát triển xã hội”, “kết hợp hài hoà giữa phát triển kinh tế với
phát triển văn hóa, xã hội, giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội”.
Tiếp đó, Đại hội VIII, khái niệm
phát triển bền vững cũng được nhận thức đầy đủ, chi tiết hơn, lần đầu tiên Đảng
đề cập đến việc “ứng dụng công nghệ sạch”; sử dụng khái niệm “phát triển bền vững”
đối với tất cả các lĩnh vực chứ không riêng với kinh tế; gắn bảo vệ môi trường
với tăng trưởng kinh tế, bảo đảm tiến bộ, công bằng xã hội và phát triển văn
hóa: “Tăng trưởng kinh tế gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội, giữ gìn và
phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ môi trường sinh thái”[4, tr.14]. Quan điểm
này của Đảng hoàn toàn phù hợp với sự phát triển về nhận thức của thế giới đối
với khái niệm phát triển bền vững, đến đây, có thể xác định phát triển bền vững
là kết hợp chặt chẽ, hài hòa, hợp lý giữa tăng trưởng kinh tế với bảo đảm
tiến bộ, công bằng xã hội, bảo vệ môi trường, phát triển văn hóa và củng cố an
ninh - quốc phòng.
Đến Đại hội XI, Đảng nêu rõ: “Tăng
trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa, từng bước cải thiện đời sống vật
chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ
và cải thiện môi trường; kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường quốc
phòng và an ninh”[5, tr.89],
lần đầu tiên thuật ngữ “cải thiện môi trường” được sử dụng, cho thấy bước phát
triển về nhận thức của Đảng đối với sự phát triển bền vững, các yếu tố để phát
triển đất nước được gắn chặt với nhau, vấn đề môi trường được quan tâm, chú trọng,
đây là một điểm mới.
Khi đất nước ngày càng phát triển,
tư duy, nhận thức của Đảng cũng thay đổi để phù hợp với tình hình thực tế, cho
nên ở Đại hội X, Đảng chủ trương: “Phấn đấu tăng trưởng kinh tế với nhịp độ
nhanh, chất lượng cao và bền vững hơn, gắn với phát triển con người”[6, tr.76]; “Thực hiện
tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển;
tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa, y tế, giáo dục, giải quyết tốt
các vấn đề xã hội vì mục tiêu phát triển con người”[6, tr.78]. Điều này có ý nghĩa đặc biệt vì con người
vừa là mục tiêu, động lực vừa là bảo đảm quan trọng nhất của phát triển bền vững.
Đại hội XI của Đảng tiếp tục phát huy nhận thức đó và khẳng
định: “phát triển kinh tế thị trường gắn với giải quyết hài hòa các vấn đề xã hội,
môi trường; xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc làm nền tảng
tinh thần cho xã hội; bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia”[7, tr.187]. Rõ
ràng hơn, trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020 (thông
qua tại Đại hội XI), quan điểm về phát triển bền vững đã được cụ thể và hoàn
thiện: “Phát triển bền vững là cơ sở để phát triển nhanh, phát triển nhanh để tạo
nguồn lực cho phát triển bền vững. Phát triển nhanh và bền vững phải luôn gắn
chặt với nhau trong quy hoạch, kế hoạch và chính sách phát triển kinh tế - xã hội”[7, tr.99].
Tiếp theo, ở Đại hội XII, quan điểm về phát triển bền vững
đã được nhận thức rõ ràng: “Bảo đảm phát triển nhanh, bền vững trên cơ sở bền vững
kinh tế vĩ mô và không ngừng nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh
tranh. Phát triển hài hòa giữa chiều rộng và chiều sâu, chú trọng phát triển
chiều sâu; phát triển kinh tế tri thức, kinh tế xanh. Phát triển kinh tế, gắn kết
chặt chẽ với phát triển văn hóa, xã hội, bảo vệ môi trường, chủ động ứng phó với
biến đổi khí hậu...”. Đại hội XIII, Đảng đã chỉ rõ: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ
tư duy, xây dựng, hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển bền vững về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội,
môi trường... tháo gỡ kịp thời những khó khăn, vướng mắc; khơi dậy mọi tiềm
năng và nguồn lực, tạo động lực mới cho sự phát triển nhanh và bền vững đất nước”[8, tr.114]. Đây là lần
đầu tiên, vấn đề “thể chế phát triển bền vững” được đặt ra trong một
văn kiện Đại hội Đảng. Có thể
thấy, nhận thức, quan điểm về phát triển nhanh và bền vững của Việt Nam vừa có
sự kế thừa nhận thức cũng như xu hướng phát triển chung của thế giới vừa có sự
vận dụng, bổ sung, phát triển phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam.
3. Một số giải pháp
nâng cao sự cân bằng giữa con người và tự nhiên hướng đến phát triển bền vững ở
Việt Nam hiện nay
Một là, thay đổi tư duy về phát triển
- lấy con người làm trung tâm
Trước sự khủng hoảng môi trường hiện nay, việc thay đổi
tư duy phát triển sẽ giúp con người có cái nhìn mới. Trong xã hội hiện đại, chất
lượng sống có những tiêu chí sau: thu nhập, tuổi thọ, trình độ học vấn, các dịch
vụ giúp giảm những lao động cực nhọc, sử dụng nước sạch. Việc đưa những tiêu
chuẩn liên quan đến sự phát triển con người vào trong các chiến lược phát triển
của các quốc gia, trên thực tế đã buộc các nhà lãnh đạo, các nhà quản lý ở các
nước phải thực hiện những biện pháp cải thiện môi trường như tăng tỷ lệ cây
xanh, chống ô nhiễm nguồn nước và hạn chế tác động xấu đối với môi trường.
Tuy nhiên, với các nước đang phát triển, để có thể thay
đổi tư duy, nhận thức về vấn đề này không hề dễ dàng. Trước sức ép tăng trưởng
kinh tế buộc phải tăng tốc phát triển không thể tránh khỏi việc làm mất cân bằng
giữa con người - tự nhiên, dẫn đến sự không bền vững. Bên cạnh đó, không phải mọi
tầng lớp trong xã hội đều có thể hiểu được hết sự “bền vững” và trách nhiệm phải
“cân bằng”. Chính vì vậy, cần tích cực tuyên truyền để nâng cao nhận thức của xã hội về vấn đề
thay đổi tư duy này.
Hai là, bảo vệ sức sống và tính đa dạng
của hệ sinh thái
Để làm tốt giải pháp này cần thực hiện hiệu quả các vấn
đề sau:
i) Đẩy lùi ô
nhiễm môi trường, sự ô nhiễm được hiểu là “quá trình chồng chất lên hệ sinh
thái của trái đất những vật liệu, những thứ đã hư hỏng” và ngày nay nó đã trở
thành nguy cơ đe doạ toàn cầu. Vấn đề môi trường sinh thái hiện đại - ô nhiễm
liên quan đến các chất thải công nghiệp[3,
tr.500]. Đây là vấn
đề rất được lưu tâm hiện nay, đặc biệt là ở các nước đang phát triển như Việt
Nam, bởi vì đối với các nước phát triển chủ yếu họ phải đối phó với sự ô nhiễm
do sự phát triển,
thì ở Việt Nam còn do lạc hậu.
ii) Kiểm soát chặt chẽ những nguyên nhân
gây nên hiệu ứng nhà kính. Việt Nam đã ký kết tham gia công ước Kyoto đó là cơ
sở quan trọng liên quan trước hết đến hành động thực tế của Chính phủ, nhất là
khi Việt Nam tham gia vào quá trình toàn cầu hoá ngày càng sâu và đầy đủ.
iii) Ngăn chặn nạn phá rừng làm mất cân bằng
sinh thái. Có thể nói rằng, nạn phá rừng luôn là vấn đề nóng, nhức nhối trong
việc quản lý nguồn tài nguyên rừng hiện nay ở Việt Nam.
Ba là, xoá đói giảm nghèo, tạo việc
làm ổn định cho người lao động
Nghèo đói sẽ tạo nên sự bất công và cũng là yếu tố cản
trở xã hội loài người hướng tới sự bền vững, đây cũng chính là nguyên nhân dẫn
đến nhiều vấn đề về môi trường. Bên cạnh đó, sự phát triển nền kinh tế thị trường
cũng có rất nhiều mặt hạn chế, sự phân cực giàu, nghèo giữa thành thị và nông
thôn, giữa các vùng và các tầng lớp dân cư ngày càng gia tặng. Do vậy, trong
giai đoạn mới cần tập trung giảm đói nghèo. Tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với
xoá đói giảm nghèo và tạo điều kiện để xoá đói giảm nghèo bền vững, phải kết hợp
chương trình xoá đói giảm nghèo với các chương trình, kế hoạch phát triển kinh
tế - xã hội. Tăng cường và đa dạng hoá nguồn lực cho xoá đói giảm nghèo, đây là
giải pháp rất quan trọng ngoài sự hỗ trợ, đầu tư của Nhà nước, việc huy động
các nguồn lực tại chỗ, của các tổ chức đoàn thể, doanh nghiệp và cộng đồng, sự
trợ giúp của các tổ chức quốc tế có ý nghĩa hết sức quan trọng.
Bốn là, hạn chế sự gia tăng dân số
Khi dân số gia tăng chắc chắn sẽ có tác động tới tự
nhiên, làm mất đi sự cân bằng và phá vỡ những dự trữ về tài nguyên và dần làm
tăng thêm mẫu thuẫn giữa con người với tự nhiên, hủy hoại tự nhiên. Chính vì vậy,
cần phải hạn chế sự gia tăng của dân số. Để làm được điều này đòi hỏi những nỗ
lực lâu dài, hàng thập kỷ. Ngay cả các nước phát triển cũng vẫn đang xảy ra sự
mất cân bằng dân số, bùng nổ dân số.
Bên cạnh việc hạn chế gia tăng dân số, cũng cần phải mở
rộng khả năng đáp ứng về tài nguyên và năng lượng bằng những giải pháp kỹ thuật
thay thế và đặc biệt là giảm bớt sự tiêu thụ quá mức và lãng phí tài nguyên.
Năm là, cần thay thái độ và hành vi của
con người đối với tự nhiên
Điều mấu chốt để có thể tạo nên sự hài hòa, cân bằng giữa
con người với tự nhiên chính là ý thức của con người. Như đã phân tích ở trên,
tự nhiên không có tính thiện, tính ác mà chính con người là chủ thể tác động,
can thiệp vào tự nhiên để phục vụ cho lợi ích cá nhân. Chính vì vậy, cần phải
giáo dục ý thức bảo vệ môi trường, bảo vệ tài nguyên thiên nhiên cho người dân,
đây phải được xác định là giải pháp lâu dài. Đưa việc giáo dục môi trường thành
một bộ môn quan trọng trong chương trình giáo dục ở nhà trường thuộc tất cả các
cấp. Vấn đề giáo dục về môi trường và xã hội phải là một bộ môn cơ bản của giáo
dục ở bậc sơ cấp, trung cấp và ở các cấp trên nữa.
Mặt khác, cần nâng cao cơ sở kiến thức và xúc tiến việc
phổ biến rộng rãi các thông tin liên quan đến môi trường. Những thông tin cần
thiết để kết hợp việc phát triển xã hội với việc bảo vệ môi trường phụ thuộc
vào kết quả nghiên cứu. Nhà nước cần chú ý đến khả năng nghiên cứu, các cơ quan
nghiên cứu cần phải: nhận thức và xác định được những nhiệm vụ mấu chốt; làm kế
hoạch và thực hiện việc điều tra nghiên cứu thích hợp; tạo ra một không khí phấn
khởi và thuận lợi đối với việc nghiên cứu; tham gia vào các chương trình quốc tế;
phổ biến và ứng dụng các kết quả nghiên cứu.
Kết luận
Quan niệm
phát triển bền vững ra đời thay thế cho quan niệm phát triển truyền thống và
ngày càng hoàn thiện. Phát triển bền vững đã trở thành xu hướng chung của loài
người, bởi lẽ phát triển bền vững là tất yếu khách quan trên cơ sở mối quan hệ
hài hòa con người - xã hội - tự nhiên. Trong quá trình đó, con người luôn giữ vị
trí trung tâm, vừa là động lực, là chủ thể, vừa là mục tiêu của phát triển bền
vững. Trong thời gian qua, ở Việt Nam, mối quan hệ con người - tự nhiên và phát
triển bền vững đã có những chuyển biến tích cực nhưng bên cạnh đó vẫn còn một số
hạn chế. Do đó, cần phải thực hiện đồng bộ các giải pháp để nâng cao sự cân bằng
giữa con người - tự nhiên để hướng đến mục tiêu phát triển bền vững trong thời
gian tới.
Tài liệu tham khảo:
[1] C. Mác và Ph. Ăngghen (1996), Toàn tập,
tập 27, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
[2] C. Mác và Ph. Ăngghen (2000), Toàn tập,
tập 42, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
[3] C. Mác và Ph. Ăngghen (2001), Toàn tập,
tập 47, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
[4] Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn
kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb. Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
[5] Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn
kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
[6] Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn
kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
[7] Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn
kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia -
Sự thật, Hà Nội.
[8] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn
kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, Nxb. Chính trị
quốc gia Sự thật, Hà Nội.