Thứ Tư, ngày 30/04/2025, 08:04

Quan điểm của Triết học Mác - Lênin về mối quan hệ giữa con người với tự nhiên và sự phát triển bền vững ở Việt Nam hiện nay

Trần Thị Lâm
Trường Đại học Điện Lực.

(GDLL) Phát triển bền vững đã và đang là mục tiêu hàng đầu của các quốc gia trên thế giới. Đây cũng chính là mục tiêu mà Đảng, Nhà nước và Nhân dân ta đang hướng tới trên con đường đổi mới và phát triển đi lên chủ nghĩa xã hội. Bài viết tìm hiểm quan điểm của triết học Mác - Lênin về mối quan hệ giữa con người và tự nhiên, tác giả luận giải một số vấn đề về phát triển bền vững; từ đó gợi mở một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của công tác này hiện nay.

 

Chuyển đổi xanh và phát triển bền vững tại Bình Dương (nguồn news.vnanet.vn)

 

Đặt vấn đề

Theo nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý thống nhất vật chất của thế giới, các mặt, yếu tố của đời sống xã hội (kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, môi trường) là những bộ phận khác nhau của một hệ thống xã hội không tách rời, tất yếu phải liên hệ, ràng buộc, tác động lẫn nhau. Chính vì vậy, muốn phát triển bền vững, phải đứng trên quan điểm toàn diện, nhìn nhận một cách tổng thể trong thế hài hòa giữa tất cả các yếu tố trên, đồng thời, chú trọng đến vấn đề phát triển con người một cách toàn diện. Triết lý phát triển bền vững ngày nay chính là triết lý phát triển hài hòa giữa con người và tự nhiên và sự phát triển gắn kết trên tất cả các mặt của đời sống. Đây cũng là tất yếu khách quan, là mục tiêu cao đẹp mà Đảng, Nhà nước và Nhân dân ta đang hướng tới trên con đường đổi mới và phát triển đi lên chủ nghĩa xã hội.

1. Quan điểm của triết học Mác – Lênin về mối quan hệ giữa con người và tự nhiên

1.1. Về con người

Con người là vấn đề trung tâm của sự phát triển, ở mọi giai đoạn, thời điểm lịch sử; có nhiều quan niệm khác nhau bàn luận về con người, song triết học Mác - Lênin với quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử mới nhìn nhận, đánh giá đúng con người, khẳng định con người là một thực thể tự nhiên mang đặc tính xã hội.

C.Mác và Ph.Ăngghen đã vượt qua được các quan niệm cũ mang tính trừu tượng về con người và có cách tiếp cận mới. C.Mác và Ph.Ăngghen khẳng định chỉ xem xét con người trong đời sống xã hội hiện thực mới hiểu đúng về con người, hiểu đúng bản chất con người không phải là cái trừu tượng cố hữu của cá thể và “con người sẽ mãi mãi chỉ là nhân vật hư ảo nếu cơ sở của nó không phải là những con người mang tính kinh nghiệm”[1, tr.22]. Để đi đến sự cụ thể về con người hiện thực, C.Mác Mác và Ph.Ăngghen đã lấy hoạt động thực tiễn của con người làm điểm xuất phát. Chính từ trong thực tiễn mà con người có quan hệ với tự nhiên (nhận thức, cải tạo tự nhiên) khi đó các quan hệ xã hội của con người được hình thành. Chính từ những thực tiễn này, con người dần biến đổi hiện thực xã hội đồng thời làm biến đổi chính bản thân mình.

1.2. Về tự nhiên

Chủ nghĩa Mác còn coi tự nhiên như là “thân thể vô cơ của con người”: “Giới tự nhiên - cụ thể là cái giới tự nhiên trong chừng mực bản thân nó không phải là thân thể của con người - là thân thể vô cơ của con người. Con người sống bằng giới tự nhiên. Như thế nghĩa là giới tự nhiên là thân thể của con người, thân thể mà với nó con người phải ở lại trong quá trình thường xuyên giao tiếp để tồn tại. Nói rằng đời sống thể xác và tinh thần của con người gắn liền với giới tự nhiên, nói như thế chẳng qua chỉ có nghĩa là giới tự nhiên gắn liền với bản thân giới tự nhiên, vì con người là một bộ phận của giới tự nhiên”[2, tr.135].

Vốn dĩ, tự nhiên là sự sống, là cái nôi sinh thành của loài người, tự nhiên không có tính thiện, cũng không mang tính ác. Trong mối quan hệ này, con người luôn chủ động tác động lên tự nhiên để nhằm thỏa mãn nhu cầu, mong muốn của mình.

1.3. Về mối quan hệ giữa con người và tự nhiên

Con người là “tổng hòa các quan hệ xã hội”, nhưng con người không phải là một hệ thống khép kín, mà con người có vai trò tích cực trong tiến trình lịch sử với tư cách là chủ thể sáng tạo. Chính thông qua quá trình thực hiện vai trò sáng tạo của mình, bản chất của con người được thể hiện ra và thường xuyên có sự vận động, phát triển cùng sự vận động, phát triển của xã hội. C.Mác nhấn mạnh: tính chất xã hội là cái vốn có của toàn bộ sự vận động; bản thân xã hội sản xuất ra con người với tính cách là con người như thế nào thì nó cũng sản xuất ra xã hội như thế. Hoạt động và sự hưởng dụng những thành quả của hoạt động, xét theo nội dung của nó cũng như xét theo phương diện tồn tại, đều mang tính chất xã hội; hoạt động xã hội và hưởng dụng xã hội.

Thông qua quá trình con người tác động vào tự nhiên, tự nhiên sẽ tác động trở lại con người. Đó không phải là sự tác động một chiều, mà là sự tác động qua lại. Con người lao động tạo ra của cải nuôi sống bản thân mình và xã hội. Sản xuất vật chất là đặc trưng chỉ có ở con người, góp phần thúc đẩy trình độ phát triển xã hội. C.Mác khẳng định rằng, không ai khác chính con người làm nên lịch sử của mình. Do vậy, “lịch sử xã hội của con người luôn chỉ là lịch sử của sự phát triển cá nhân của những con người”. Thông qua quá trình hoạt động thực tiễn, con người tác động vào tự nhiên, xã hội và để lại những dấu ấn của bản thân mình vào giới tự nhiên cũng như đối với xã hội và con người từng bước phát triển bản thân mình mỗi ngày. Do vậy, tự nhiên ban đầu tưởng như chỉ là cái tồn tại bên ngoài con người, là môi trường cho con người sống và hoạt động, sau đó đã trở thành kết quả trong hoạt động mang tính lịch sử của con người. Nhờ sự tương tác qua lại giữa con người và tự nhiên, mà con người đã có được những thứ cần thiết phục vụ nhu cầu của mình, không chỉ về nhu cầu vật chất, mà cả nhu cầu tinh thần.

2. Khái niệm phát triển bền vững và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về phát triển bền vững

2.1. Về phát triển bền vững

Phát triển là một quá trình vận động từ thấp đến cao, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện. Triết học Mác khẳng định: sự phát triển của những hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên, tuân theo các quy luật như quy luật xã hội. Luật Bảo vệ môi trường của Việt Nam khẳng định: Phát triển bền vững là phát triển đáp ứng được nhu cầu của hiện tại mà không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu đó của các thế hệ tương lai trên cơ sở kết hợp chặt chẽ, hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế, bảo đảm tiến bộ xã hội và bảo vệ môi trường.

Khi nói về phát triển bền vững, vấn đề được đề cập trọng tâm nhất, mục tiêu hướng tới vẫn là con người với tư cách chủ thể, động lực cho phát triển bền vững. Do đó, các biện pháp đưa ra về hợp tác quốc gia, quốc tế, các mục tiêu đề ra như phát triển kinh tế xanh, bảo đảm an sinh xã hội, tăng số người được dùng nước sạch, loại bỏ hóa chất độc hại trong môi trường; phục hồi trữ lượng nguồn thủy sản bảo vệ đa dạng sinh học; tăng cường sử dụng năng lượng tái tạo... luôn là những vấn đề được quan tâm khi phát triển bền vững.

2.2. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về phát triển bền vững

Trong xu thế hội nhập, đổi mới, phát triển mạnh mẽ Việt Nam đã lựa chọn chiến lược phát triển đất nước theo hướng nhanh và bền vững để thực hiện mục tiêu "Dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh". Trong quá trình hội nhập, phát triển, chủ trương, quan điểm về phát triển công bằng, bền vững được Việt Nam không ngừng bổ sung và hoàn thiện. Mốc đánh dấu nhận thức của Đảng về phát triển bền vững là ở Đại hội VI. Văn kiện Đại hội nêu rõ phải có sự thống nhất giữa chính sách kinh tế với chính sách xã hội, đồng thời nhấn mạnh ý nghĩa, tầm quan trọng của việc bảo vệ rừng và các tài nguyên thiên nhiên. Trong Văn kiện Đại hội VII, phát triển bền vững được trình bày rõ ràng, cụ thể và đầy đủ hơn, nhất là vấn đề bảo vệ môi trường. Nhiều cụm từ đã được sử dụng để thể hiện nội dung thực chất của phát triển bền vững, như “bảo đảm sự hài hoà giữa phát triển kinh tế và phát triển xã hội”, “kết hợp hài hoà giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, xã hội, giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội”.

Tiếp đó, Đại hội VIII, khái niệm phát triển bền vững cũng được nhận thức đầy đủ, chi tiết hơn, lần đầu tiên Đảng đề cập đến việc “ứng dụng công nghệ sạch”; sử dụng khái niệm “phát triển bền vững” đối với tất cả các lĩnh vực chứ không riêng với kinh tế; gắn bảo vệ môi trường với tăng trưởng kinh tế, bảo đảm tiến bộ, công bằng xã hội và phát triển văn hóa: “Tăng trưởng kinh tế gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ môi trường sinh thái”[4, tr.14]. Quan điểm này của Đảng hoàn toàn phù hợp với sự phát triển về nhận thức của thế giới đối với khái niệm phát triển bền vững, đến đây, có thể xác định phát triển bền vững là kết hợp chặt chẽ, hài hòa, hợp lý giữa tăng trưởng kinh tế với bảo đảm tiến bộ, công bằng xã hội, bảo vệ môi trường, phát triển văn hóa và củng cố an ninh - quốc phòng.

Đến Đại hội XI, Đảng nêu rõ: “Tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa, từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường; kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường quốc phòng và an ninh”[5, tr.89], lần đầu tiên thuật ngữ “cải thiện môi trường” được sử dụng, cho thấy bước phát triển về nhận thức của Đảng đối với sự phát triển bền vững, các yếu tố để phát triển đất nước được gắn chặt với nhau, vấn đề môi trường được quan tâm, chú trọng, đây là một điểm mới.

Khi đất nước ngày càng phát triển, tư duy, nhận thức của Đảng cũng thay đổi để phù hợp với tình hình thực tế, cho nên ở Đại hội X, Đảng chủ trương: “Phấn đấu tăng trưởng kinh tế với nhịp độ nhanh, chất lượng cao và bền vững hơn, gắn với phát triển con người”[6, tr.76]; “Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển; tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa, y tế, giáo dục, giải quyết tốt các vấn đề xã hội vì mục tiêu phát triển con người”[6, tr.78]. Điều này có ý nghĩa đặc biệt vì con người vừa là mục tiêu, động lực vừa là bảo đảm quan trọng nhất của phát triển bền vững.

Đại hội XI của Đảng tiếp tục phát huy nhận thức đó và khẳng định: “phát triển kinh tế thị trường gắn với giải quyết hài hòa các vấn đề xã hội, môi trường; xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc làm nền tảng tinh thần cho xã hội; bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia”[7, tr.187]. Rõ ràng hơn, trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020 (thông qua tại Đại hội XI), quan điểm về phát triển bền vững đã được cụ thể và hoàn thiện: “Phát triển bền vững là cơ sở để phát triển nhanh, phát triển nhanh để tạo nguồn lực cho phát triển bền vững. Phát triển nhanh và bền vững phải luôn gắn chặt với nhau trong quy hoạch, kế hoạch và chính sách phát triển kinh tế - xã hội”[7, tr.99].

Tiếp theo, ở Đại hội XII, quan điểm về phát triển bền vững đã được nhận thức rõ ràng: “Bảo đảm phát triển nhanh, bền vững trên cơ sở bền vững kinh tế vĩ mô và không ngừng nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh. Phát triển hài hòa giữa chiều rộng và chiều sâu, chú trọng phát triển chiều sâu; phát triển kinh tế tri thức, kinh tế xanh. Phát triển kinh tế, gắn kết chặt chẽ với phát triển văn hóa, xã hội, bảo vệ môi trường, chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu...”. Đại hội XIII, Đảng đã chỉ rõ: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy, xây dựng, hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển bền vững về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, môi trường... tháo gỡ kịp thời những khó khăn, vướng mắc; khơi dậy mọi tiềm năng và nguồn lực, tạo động lực mới cho sự phát triển nhanh và bền vững đất nước”[8, tr.114]. Đây là lần đầu tiên, vấn đề “thể chế phát triển bền vững” được đặt ra trong một văn kiện Đại hội Đảng. Có thể thấy, nhận thức, quan điểm về phát triển nhanh và bền vững của Việt Nam vừa có sự kế thừa nhận thức cũng như xu hướng phát triển chung của thế giới vừa có sự vận dụng, bổ sung, phát triển phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam.

3. Một số giải pháp nâng cao sự cân bằng giữa con người và tự nhiên hướng đến phát triển bền vững ở Việt Nam hiện nay

Một là, thay đổi tư duy về phát triển - lấy con người làm trung tâm

Trước sự khủng hoảng môi trường hiện nay, việc thay đổi tư duy phát triển sẽ giúp con người có cái nhìn mới. Trong xã hội hiện đại, chất lượng sống có những tiêu chí sau: thu nhập, tuổi thọ, trình độ học vấn, các dịch vụ giúp giảm những lao động cực nhọc, sử dụng nước sạch. Việc đưa những tiêu chuẩn liên quan đến sự phát triển con người vào trong các chiến lược phát triển của các quốc gia, trên thực tế đã buộc các nhà lãnh đạo, các nhà quản lý ở các nước phải thực hiện những biện pháp cải thiện môi trường như tăng tỷ lệ cây xanh, chống ô nhiễm nguồn nước và hạn chế tác động xấu đối với môi trường.

Tuy nhiên, với các nước đang phát triển, để có thể thay đổi tư duy, nhận thức về vấn đề này không hề dễ dàng. Trước sức ép tăng trưởng kinh tế buộc phải tăng tốc phát triển không thể tránh khỏi việc làm mất cân bằng giữa con người - tự nhiên, dẫn đến sự không bền vững. Bên cạnh đó, không phải mọi tầng lớp trong xã hội đều có thể hiểu được hết sự “bền vững” và trách nhiệm phải “cân bằng”. Chính vì vậy, cần tích cực tuyên truyền để nâng cao nhận thức của xã hội về vấn đề thay đổi tư duy này.

Hai là, bảo vệ sức sống và tính đa dạng của hệ sinh thái

Để làm tốt giải pháp này cần thực hiện hiệu quả các vấn đề sau:

i) Đẩy lùi ô nhiễm môi trường, sự ô nhiễm được hiểu là “quá trình chồng chất lên hệ sinh thái của trái đất những vật liệu, những thứ đã hư hỏng” và ngày nay nó đã trở thành nguy cơ đe doạ toàn cầu. Vấn đề môi trường sinh thái hiện đại - ô nhiễm liên quan đến các chất thải công nghiệp[3, tr.500]. Đây là vấn đề rất được lưu tâm hiện nay, đặc biệt là ở các nước đang phát triển như Việt Nam, bởi vì đối với các nước phát triển chủ yếu họ phải đối phó với sự ô nhiễm do sự phát triển, thì ở Việt Nam còn do lạc hậu.

ii) Kiểm soát chặt chẽ những nguyên nhân gây nên hiệu ứng nhà kính. Việt Nam đã ký kết tham gia công ước Kyoto đó là cơ sở quan trọng liên quan trước hết đến hành động thực tế của Chính phủ, nhất là khi Việt Nam tham gia vào quá trình toàn cầu hoá ngày càng sâu và đầy đủ.

iii) Ngăn chặn nạn phá rừng làm mất cân bằng sinh thái. Có thể nói rằng, nạn phá rừng luôn là vấn đề nóng, nhức nhối trong việc quản lý nguồn tài nguyên rừng hiện nay ở Việt Nam.

Ba là, xoá đói giảm nghèo, tạo việc làm ổn định cho người lao động

Nghèo đói sẽ tạo nên sự bất công và cũng là yếu tố cản trở xã hội loài người hướng tới sự bền vững, đây cũng chính là nguyên nhân dẫn đến nhiều vấn đề về môi trường. Bên cạnh đó, sự phát triển nền kinh tế thị trường cũng có rất nhiều mặt hạn chế, sự phân cực giàu, nghèo giữa thành thị và nông thôn, giữa các vùng và các tầng lớp dân cư ngày càng gia tặng. Do vậy, trong giai đoạn mới cần tập trung giảm đói nghèo. Tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với xoá đói giảm nghèo và tạo điều kiện để xoá đói giảm nghèo bền vững, phải kết hợp chương trình xoá đói giảm nghèo với các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội. Tăng cường và đa dạng hoá nguồn lực cho xoá đói giảm nghèo, đây là giải pháp rất quan trọng ngoài sự hỗ trợ, đầu tư của Nhà nước, việc huy động các nguồn lực tại chỗ, của các tổ chức đoàn thể, doanh nghiệp và cộng đồng, sự trợ giúp của các tổ chức quốc tế có ý nghĩa hết sức quan trọng.

Bốn là, hạn chế sự gia tăng dân số

Khi dân số gia tăng chắc chắn sẽ có tác động tới tự nhiên, làm mất đi sự cân bằng và phá vỡ những dự trữ về tài nguyên và dần làm tăng thêm mẫu thuẫn giữa con người với tự nhiên, hủy hoại tự nhiên. Chính vì vậy, cần phải hạn chế sự gia tăng của dân số. Để làm được điều này đòi hỏi những nỗ lực lâu dài, hàng thập kỷ. Ngay cả các nước phát triển cũng vẫn đang xảy ra sự mất cân bằng dân số, bùng nổ dân số.

Bên cạnh việc hạn chế gia tăng dân số, cũng cần phải mở rộng khả năng đáp ứng về tài nguyên và năng lượng bằng những giải pháp kỹ thuật thay thế và đặc biệt là giảm bớt sự tiêu thụ quá mức và lãng phí tài nguyên.

Năm là, cần thay thái độ và hành vi của con người đối với tự nhiên

Điều mấu chốt để có thể tạo nên sự hài hòa, cân bằng giữa con người với tự nhiên chính là ý thức của con người. Như đã phân tích ở trên, tự nhiên không có tính thiện, tính ác mà chính con người là chủ thể tác động, can thiệp vào tự nhiên để phục vụ cho lợi ích cá nhân. Chính vì vậy, cần phải giáo dục ý thức bảo vệ môi trường, bảo vệ tài nguyên thiên nhiên cho người dân, đây phải được xác định là giải pháp lâu dài. Đưa việc giáo dục môi trường thành một bộ môn quan trọng trong chương trình giáo dục ở nhà trường thuộc tất cả các cấp. Vấn đề giáo dục về môi trường và xã hội phải là một bộ môn cơ bản của giáo dục ở bậc sơ cấp, trung cấp và ở các cấp trên nữa.

Mặt khác, cần nâng cao cơ sở kiến thức và xúc tiến việc phổ biến rộng rãi các thông tin liên quan đến môi trường. Những thông tin cần thiết để kết hợp việc phát triển xã hội với việc bảo vệ môi trường phụ thuộc vào kết quả nghiên cứu. Nhà nước cần chú ý đến khả năng nghiên cứu, các cơ quan nghiên cứu cần phải: nhận thức và xác định được những nhiệm vụ mấu chốt; làm kế hoạch và thực hiện việc điều tra nghiên cứu thích hợp; tạo ra một không khí phấn khởi và thuận lợi đối với việc nghiên cứu; tham gia vào các chương trình quốc tế; phổ biến và ứng dụng các kết quả nghiên cứu.

Kết luận

Quan niệm phát triển bền vững ra đời thay thế cho quan niệm phát triển truyền thống và ngày càng hoàn thiện. Phát triển bền vững đã trở thành xu hướng chung của loài người, bởi lẽ phát triển bền vững là tất yếu khách quan trên cơ sở mối quan hệ hài hòa con người - xã hội - tự nhiên. Trong quá trình đó, con người luôn giữ vị trí trung tâm, vừa là động lực, là chủ thể, vừa là mục tiêu của phát triển bền vững. Trong thời gian qua, ở Việt Nam, mối quan hệ con người - tự nhiên và phát triển bền vững đã có những chuyển biến tích cực nhưng bên cạnh đó vẫn còn một số hạn chế. Do đó, cần phải thực hiện đồng bộ các giải pháp để nâng cao sự cân bằng giữa con người - tự nhiên để hướng đến mục tiêu phát triển bền vững trong thời gian tới.

 

Tài liệu tham khảo:

[1] C. Mác và Ph. Ăngghen (1996), Toàn tập, tập 27, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

[2] C. Mác và Ph. Ăngghen (2000), Toàn tập, tập 42, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

[3] C. Mác và Ph. Ăngghen (2001), Toàn tập, tập 47, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

[4] Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

[5] Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

[6] Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

[7] Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

[8] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.

Đọc thêm

Nghiên cứu, đề xuất xây dựng chuẩn chương trình bồi dưỡng cho cán bộ lãnh đạo, quản lý hiện nay

Tác giả: TRƯƠNG BẢO THANH

(GDLL) - Xây dựng chuẩn chương trình bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo quản lý đóng vai trò hết sức quan trọng, là căn cứ để cơ sở đào tạo tiến hành xây dựng, thẩm định, ban hành, thực hiện, đánh giá và cải tiến các chương trình bồi dưỡng trên thực tế. Bài viết tập trung nghiên cứu cơ sở chính trị, pháp lý, cơ sở thực tiễn, đề xuất xây dựng chuẩn chương trình bồi dưỡng cho cán bộ lãnh đạo, quản lý ở Việt Nam hiện nay.

Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế thích ứng linh hoạt với đại dịch Covid 19 tại Việt Nam

Tác giả: CHU THỊ LÊ ANH

(GDLL) - Đại dịch COVID-19 đã gây ra nhiều hậu quả tiêu cực tới đời sống xã hội và làm giảm sút tăng trưởng kinh tế của tất cả các quốc gia trên thế giới trong đó có Việt Nam. Bài viết phân tích các chính sách phục hồi và phát triển kinh tế ứng phó tác động của dịch bệnh COVID-19 tới nền kinh tế Việt Nam, từ đó đề xuất một số khuyến nghị chính sách để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế thích ứng linh hoạt với dịch bệnh trong thời gian tới nhằm thực hiện thành công Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng.

Giải pháp thực hiện các chính sách hỗ trợ tài chính để doanh nghiệp vượt qua khó khăn do đại dịch Covid-19

Tác giả: NINH THỊ MINH TÂM

(GDLL) - Đại dịch Covid-19 đã tạo ra cú sốc đối với nền kinh tế Việt Nam và tác động tiêu cực đến “sức khỏe”, tiềm lực và khả năng chống chịu của nhiều doanh nghiệp, dẫn đến nguy cơ phá sản. Trong bối cảnh đó, Đảng và Nhà nước đã ban hành và thực hiện nhiều chính sách hỗ trợ tài chính nhằm giúp các doanh nghiệp vượt qua khó khăn. Bài viết tập trung phân tích thực trạng và đề xuất một số giải pháp tiếp tục thực hiện các chính sách hỗ trợ tài chính nhằm tăng “sức bền” và hỗ trợ phục hồi sản xuất, kinh doanh cho các doanh nghiệp bị tác động tiêu cực bởi dịch bệnh.

Tổn thương của doanh nghiệp Việt Nam sau cú sốc đại dịch Covid-19 - thực trạng và khuyến nghị

Tác giả: HOÀNG VĂN HOAN

(GDLL) - Khủng hoảng thường tạo cú sốc cho doanh nghiệp xét về cả kết quả kinh doanh thực tế và kỳ vọng. Các cú sốc có thể tích cực (hữu ích) hoặc tiêu cực (có hại) gây tổn thương cho doanh nghiệp và cả nền kinh tế. Để có những biện pháp đối phó nhằm ngăn chặn sớm cũng như giảm bớt những tác động bất lợi của các cú sốc gây tổn thương cho doanh nghiệp cũng như xã hội, đặc biệt sau cú sốc đại dịch COVID -19, bài viết giúp nhận diện các cú sốc, mức độ tổn thương của doanh nghiệp Việt Nam sau cú sốc bất lợi từ đại dịch COVID-19 trong giai đoạn vừa qua, từ đó đưa ra những hàm ý chính sách.

Phát triển du lịch cộng đồng tạo sinh kế bền vững ở các tỉnh vùng Tây Bắc - một số vấn đề đặt ra

Tác giả: Tạ Thị Đoàn

(GDLL) - Phát triển du lịch cộng đồng đã và đang mang lại nhiều lợi ích cho các tỉnh vùng Tây Bắc, qua đó góp phần tạo sinh kế bền vững cho người dân địa phương. Trên cơ sở phân tích thực trạng phát triển du lịch cộng đồng tạo sinh kế bền vững ở các tỉnh vùng Tây Bắc thời gian qua, bài viết chỉ ra một số vấn đề còn tồn tại và đề xuất các giải pháp nhằm thúc đẩy phát triển du lịch cộng đồng tạo sinh kế bền vững ở các tỉnh vùng Tây Bắc trong thời gian tới.