
Hội nghị lần thứ 13 Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khóa XIII khai mạc trọng thể tại Thủ đô Hà Nội, ngày 6-10-2025_Ảnh:
Báo Nhân dân
1. Mở đầu
Trong
quá trình lãnh đạo cách mạng, nhất là từ khi đổi mới đến nay, Đảng luôn quan
tâm phát triển lý luận về bảo vệ, nâng cao vị trí, vai trò và uy tín chính trị,
coi đây là vấn đề quan trọng, giữ vai trò then chốt đối với sự nghiệp cách mạng,
là yếu tố quyết định đến thành bại của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, sự
sống còn của Đảng, vận mệnh của chế độ, sự phát triển nhanh và bền vững của đất
nước. Các văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc, nghị quyết của Trung ương đã chỉ ra
những nguy cơ đe dọa vị trí, vai trò, uy tín chính trị của Đảng; đồng thời
không ngừng phát triển nhận thức về phương hướng, nhiệm vụ,
giải pháp bảo vệ, nâng cao vị trí, vai trò, uy tín chính trị của Đảng.
2. Nội dung
2.1.
Sự phát triển nhận thức về những nguy cơ đe dọa vị trí, vai trò, uy
tín chính trị của Đảng
Trong
tiến trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn nhận thức sâu sắc rằng,
vị trí cầm quyền, vai trò lãnh đạo và uy tín chính trị của Đảng không phải là bất
biến, mà luôn phải được củng cố, bảo vệ và nâng cao bằng thực tiễn lãnh đạo hiệu
quả, bằng sự gắn bó mật thiết với nhân dân và bằng khả năng thích ứng với những
thay đổi nhanh chóng của tình hình trong nước, khu vực và thế giới. Nhận thức về
các nguy cơ đe dọa vị trí, vai trò, uy tín chính trị của Đảng không ngừng được
nâng cao và phát triển theo từng thời kỳ, nhất là trong thời kỳ đổi mới đất nước.
Tại
Đại hội VI, Đảng đã chỉ ra các sai lầm, khuyết điểm làm cho việc thực hiện các
nghị quyết của Đại hội IV và Đại hội V không thành công, làm giảm uy tín chính
trị, đe dọa vai trò lãnh đạo của Đảng. Đó là sai lầm về “chủ trương, chính sách
lớn, sai lầm về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện [...]
sự lạc hậu về nhận thức lý luận và vận dụng các quy luật đang hoạt động trong
thời kỳ quá độ [...] sự trì trệ, chậm đổi mới công tác cán bộ”(1).
Hội
nghị Trung ương 5 khóa VI đã thông qua Nghị quyết số 05-NQ/HNTW ngày 20-6-1988,
một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng bảo đảm thực hiện Nghị quyết Đại hội VI
của Đảng, thẳng thắn chỉ ra những yếu kém làm giảm sút vai trò lãnh đạo, uy tín
chính trị của Đảng: “Sự lãnh đạo của Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức chưa
ngang tầm nhiệm vụ cách mạng, chưa đáp ứng đòi hỏi của công cuộc đổi mới và yêu
cầu, nguyện vọng của nhân dân. Việc cụ thể hóa các nghị quyết của Đảng còn
chậm, có cái chưa thật sát hợp. Năng lực tổ chức thực hiện của nhiều cấp ủy đảng
và trình độ quản lý điều hành của nhiều cơ quan nhà nước còn kém [...]. Quan hệ
giữa Đảng và quần chúng bị xói mòn, uy tín của Đảng giảm sút nghiêm trọng(2).
Hội
nghị Đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (tháng 1-1994) đã xác định 4
nguy cơ trước mắt của đất nước, của chế độ và Đảng là: nguy cơ tụt hậu xa hơn về
kinh tế; nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa; nạn tham nhũng và các tệ nạn xã
hội; âm mưu và hành động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch. Đây là
sự khái quát cao những nguy cơ đe dọa vị trí, vai trò, uy tín chính trị của Đảng.
Đến nay, sau hơn 30 năm, bốn nguy cơ này vẫn còn hiện diện, tuy sắc thái, mức độ
có khác nhau.
Hội
nghị Trung ương 6 (lần 2) khóa VIII đã ban hành Nghị quyết số 10-NQ/TW ngày 02-02-1999
về một số vấn đề cơ bản và cấp bách trong công tác xây dựng Đảng hiện nay, nhận
định: “...trước yêu cầu mới ngày càng cao của sự nghiệp cách mạng, trong Đảng
đang bộc lộ một số yếu kém: sự suy thoái về tư tưởng chính trị; tình trạng tham
nhũng, quan liêu, lãng phí của một bộ phận cán bộ, đảng viên có chiều hướng
phát triển nghiêm trọng hơn. Việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ không
nghiêm, bộ máy tổ chức của Đảng và Nhà nước chậm được củng cố và đổi mới”(3).
Hội
nghị Trung ương 4 khóa XI đã ban hành Nghị quyết số 12-NQ/TW ngày 16-01-2012, một
số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay. Nghị quyết đánh giá: “...công tác
xây dựng Đảng vẫn còn không ít hạn chế, yếu kém, thậm chí có những yếu kém khuyết
điểm kéo dài qua nhiều nhiệm kỳ chậm được khắc phục, làm giảm sút lòng tin của
nhân dân đối với Đảng; nếu không được sửa chữa sẽ là thách thức đối với vai trò
lãnh đạo của Đảng và sự tồn vong của chế độ”(4);
đồng thời chỉ ra 3 vấn đề cấp bách cần tập trung giải quyết, đó là: Thứ
nhất, một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những đảng
viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp, suy thoái về tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống với những biểu hiện khác nhau về sự phai nhạt
lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi,
tiền tài, kèn cựa địa vị, cục bộ, tham nhũng, lãng phí, tùy tiện, vô nguyên tắc. Thứ
hai, đội ngũ cán bộ cấp Trung ương, cấp chiến lược rất quan trọng
nhưng chưa được xây dựng một cách cơ bản. Thứ ba, nguyên tắc “tập
thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách” trên thực tế ở nhiều nơi rơi vào hình thức, do
không xác định rõ cơ chế trách nhiệm, mối quan hệ giữa tập thể và cá nhân, khi
sai sót, khuyết điểm không ai chịu trách nhiệm.
Đất
nước ta đang trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc
tế, xây dựng, phát triển với quy mô ngày càng lớn, một bộ phận cán bộ lãnh đạo,
quản lý nắm giữ khối lượng tài sản, nguồn vốn lớn của tập thể, của Nhà nước, đó
là môi trường để chủ nghĩa cá nhân vụ lợi, thực dụng phát triển. Trong khi đó,
các thế lực thù địch không từ bỏ âm mưu và hoạt động “diễn biến hòa bình”, thúc
đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, tăng cường hoạt động chống phá, chia rẽ nội
bộ Đảng và phá hoại mối quan hệ gắn bó giữa Đảng với nhân dân, làm suy yếu vai
trò lãnh đạo của Đảng. Nhận định của Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI cho thấy sự
phát triển nhận thức của Đảng về những nguy cơ đe dọa vị trí, vai trò, uy tín
chính trị của Đảng vào thời điểm đó.
Nghị
quyết số 04-NQ/TW ngày 30-10-2016 của Hội nghị Trung ương 4 khóa XII về tăng cường
xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị,
đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ,
nhấn mạnh: “Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một
bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên chưa bị đẩy lùi, có mặt, có bộ phận còn diễn
biến tinh vi, phức tạp hơn; tham nhũng, lãng phí, tiêu cực vẫn còn nghiêm trọng,
tập trung vào số đảng viên có chức vụ trong bộ máy nhà nước”(5). Những hạn chế, khuyết điểm trên làm giảm
sút vai trò lãnh đạo của Đảng; làm tổn thương tình cảm và suy giảm niềm tin của
nhân dân đối với Đảng, là một nguy cơ trực tiếp đe doạ sự tồn vong của Đảng và
chế độ.
Kết
luận số 21-KL/TW ngày 25-10-2021 của Hội nghị Trung ương 4 khóa
XIII về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết
ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về chính trị, đạo
đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, tiếp tục nhấn mạnh một
số mối đe dọa uy tín, niềm tin của nhân dân và vai trò lãnh đạo của Đảng trong
điều kiện mới: “Một bộ phận cán bộ, đảng viên, trong đó có cả cán bộ lãnh đạo,
quản lý nhận thức chưa đầy đủ tính chất, tầm quan trọng của công tác xây dựng,
chỉnh đốn Đảng; chưa nêu cao tinh thần trách nhiệm, thiếu gương mẫu, phai
nhạt lý tưởng, giảm sút ý chí, sa vào chủ nghĩa cá nhân, nói chưa đi đôi với
làm, vi phạm kỷ luật đảng, vi phạm pháp luật”(6).
Hiện
nay, trong bối cảnh tình hình thế giới, khu vực và trong nước có nhiều diễn biến
nhanh chóng, phức tạp, Ban Chấp hành Trung ương Đảng, đứng đầu là Tổng Bí thư
Tô Lâm đã nhiều lần nhấn mạnh và chỉ rõ về những nguy cơ hiện hữu và tiềm ẩn có
thể trực tiếp đe dọa đến vị trí cầm quyền, vai trò lãnh đạo và uy tín chính trị
của Đảng. Trong bài viết “Việt Nam vững bước tiến vào kỷ nguyên mới và những vấn
đề đặt ra đối với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc”, Tổng Bí thư Tô Lâm nhấn mạnh: “Ở
trong nước, bốn nguy cơ mà Đảng ta đã chỉ ra vẫn còn tồn tại, có mặt còn gay gắt
hơn. Các thế lực thù địch, phản động ráo riết thực hiện chiến lược “diễn biến
hòa bình” với nhiều thủ đoạn thâm độc, tinh vi, ngày càng công khai trực diện,
đan xen và nguy hiểm; thúc đẩy quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong
nội bộ, đòi “phi chính trị hóa” lực lượng vũ trang. Bên cạnh đó, xuất hiện các
thách thức, nguy cơ mới, phi truyền thống như: Nguy cơ xâm phạm chủ quyền quốc
gia trên không gian mạng, chiến tranh mạng; các thách thức an ninh môi trường,
biến đổi khí hậu, nước biển dâng, an ninh nguồn nước, dịch bệnh, an ninh lương
thực. Hoạt động của tội phạm có tổ chức, xuyên quốc gia, tội phạm xâm phạm trật
tự, an toàn xã hội diễn biến phức tạp, tính chất “quốc tế hóa” ngày càng gia
tăng, có thể chuyển hóa thành nguy cơ đe dọa an ninh quốc gia; tội phạm kinh tế,
chức vụ có sự cấu kết chặt chẽ với các cán bộ thoái hóa biến chất trong bộ máy
nhà nước, gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng, đe dọa trực diện đến an ninh chính
trị và lòng tin của Nhân dân với Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa”(7).
Như
vậy, từ khi mở đầu công cuộc đổi mới đến nay, nhận thức về những nguy cơ đe dọa
vị trí, vai trò và uy tín chính trị của Đảng không ngừng được phát triển toàn
diện và sâu sắc hơn. Việc không ngừng nâng cao nhận thức và năng lực ứng phó với
các nguy cơ là điều kiện tiên quyết để giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng
sản Việt Nam trong tình hình mới.
2.2.
Sự phát triển nhận thức về phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp bảo vệ, nâng cao vị
trí, vai trò, uy tín chính trị của Đảng
Từ
nhận thức về những nguy cơ đe dọa vị trí, vai trò, uy tín chính trị, Đảng đã
không ngừng phát triển nhận thức về phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp bảo vệ,
nâng cao vị trí, vai trò, uy tín chính trị của mình.
Đại
hội VI của Đảng đánh dấu một bước ngoặt có ý nghĩa quyết định trong việc tăng
cường sức mạnh của Đảng, nâng cao uy tín của Đảng trong quần chúng nhân dân, bảo
đảm cho Đảng vươn lên ngang tầm những nhiệm vụ mới. Đảng rút ra bốn bài học
kinh nghiệm lớn: Một là, trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng
phải quán triệt tư tưởng “lấy dân làm gốc”, xây dựng và phát huy quyền làm chủ
của nhân dân lao động. Hai là, Đảng phải luôn luôn xuất phát từ thực
tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan. Ba là, phải biết
kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại trong điều kiện mới. Bốn
là, phải xây dựng Đảng ngang tầm nhiệm vụ chính trị của một đảng cầm quyền
lãnh đạo nhân dân tiến hành cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa(8). Đồng thời, Đảng chủ trương: “Sau Đại hội
Đảng, cần có kế hoạch tiến hành cuộc vận động làm trong sạch Đảng, khắc
phục những hiện tượng hư hỏng trong bộ máy nhà nước, đẩy lùi các hiện tượng
tiêu cực trong xã hội. Một hội nghị của Ban Chấp hành Trung ương sẽ thảo
luận chuyên đề về công tác xây dựng Đảng”(9).
Đến
Đại hội VII, Đảng tiếp tục chỉ ra những yếu kém, trì trệ trong Đảng và chủ
trương: “Đảng ta phải tự đổi mới và chỉnh đốn, có kiến thức, năng lực và sức
chiến đấu mới, khắc phục có hiệu quả các hiện tượng tiêu cực và các mặt yếu
kém, khôi phục và nâng cao uy tín của Đảng trong nhân dân. Đảng phải được xây dựng
vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức, thật sự là đội tiên phong chính
trị của toàn xã hội, đại biểu lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động
và của cả dân tộc”(10).
Sau
khi mô hình chủ nghĩa xã hội ở Đông Âu và Liên Xô sụp đổ, khi phân tích những yếu
kém, nguy cơ của Đảng, Nghị quyết số 03-NQ/TW ngày 26-6-1992 của Hội nghị Trung
ương 3 khóa VII về một số nhiệm vụ đổi mới và chỉnh đốn Đảng đã xác định: “Nhiệm
vụ cách mạng trong giai đoạn mới đòi hỏi Đảng ta phải khẩn trương tự đổi mới, tự
chỉnh đốn. Đây là một nhiệm vụ đặc biệt quan trọng và cấp bách, có ý
nghĩa quyết định đối với toàn bộ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước,
đối với vận mệnh chế độ ta và Đảng ta”(11).
Trung
ương xác định yêu cầu phải đạt trong những năm trước mắt là: Thứ nhất, nâng
cao bản lĩnh chính trị và năng lực lãnh đạo của Đảng. Thứ hai, chỉnh
đốn hệ thống tổ chức của Đảng và các tổ chức cơ sở đảng, trước hết là ở những
cơ sở trọng yếu về chính trị và kinh tế, bảo đảm sự lãnh đạo thông suốt đến mọi
cơ sở. Thứ ba, tạo một bước chuyển biến quan trọng về công tác
cán bộ. Thứ tư, tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng.
Trước
tình trạng sự suy thoái về tư tưởng chính trị, tình trạng tham nhũng, quan
liêu, lãng phí của một bộ phận cán bộ, đảng viên có chiều hướng phát triển nghiêm
trọng hơn, Hội nghị Trung ương 6 (lần 2) khóa VIII về một số vấn đề cơ bản và cấp
bách trong công tác xây dựng Đảng hiện nay, đề ra chủ trương toàn Đảng tiến
hành cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng, thực hiện tự phê bình và phê bình kỷ
niệm 30 nǎm thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh (02/9/1969 – 02/9/1999)
và kỷ niệm 70 nǎm thành lập Đảng (03/02/1930 – 03/02/2000). Cuộc vận động này
tiến hành từ ngày 19-5-1999 đến ngày 19-5-2001, sau đó trở thành nền nếp, thường
xuyên trong xây dựng và chỉnh đốn Đảng. Một trong những nhiệm vụ quan trọng mà
Nghị quyết nhấn mạnh đó là: “Tǎng cường sự thống nhất trong Đảng về nhận thức,
ý chí và hành động, kiên trì đấu tranh đẩy lùi bốn nguy cơ; đảng viên phải nói
và làm theo nghị quyết, thực hiện đúng Cương Lĩnh, Điều lệ Đảng và
pháp luật Nhà nước; kiên định những vấn đề về quan điểm có tính nguyên tắc…”(12).
Hội
nghị Trung ương 4 khóa XI sau khi chỉ ra 3 vấn đề cấp bách cần tập trung giải
quyết, đã chủ trương tập trung cao độ để lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện tốt ba vấn
đề cấp bách sau: Một là, kiên quyết đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi
tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận
không nhỏ cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp để
nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng, củng cố niềm tin của đảng
viên và của nhân dân đối với Đảng. Hai là, xây dựng đội ngũ cán bộ
lãnh đạo, quản lý các cấp, nhất là cấp trung ương, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Ba là, xác định
rõ thẩm quyền, trách nhiệm người đứng đầu cấp ủy, chính quyền trong mối quan hệ
với tập thể cấp ủy, cơ quan, đơn vị; tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của
Đảng. Nghị quyết cũng chỉ rõ, trong ba vấn đề trên, vấn đề thứ nhất là trọng
tâm, xuyên suốt và cấp bách nhất.
Về
giải pháp, Hội nghị Trung ương 4 khóa XI quyết định tổ chức đợt tự phê bình và
phê bình trong toàn Đảng, từ Trung ương Đảng, Bộ Chính trị đến cơ sở. Nhờ sự tập
trung lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI một
cách bài bản, quyết liệt nên đã đạt được những kết quả bước đầu quan trọng, tạo
chuyển biến tích cực trong hệ thống chính trị, góp phần cảnh tỉnh, cảnh báo,
răn đe, từng bước ngăn chặn và đẩy lùi tiêu cực, suy thoái trong Đảng.
Phát
huy thành công của Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI, Hội nghị Trung ương 4 khóa
XII đã ban hành Nghị quyết số 04-NQ/TW ngày 30-10-2016 về tăng cường xây dựng,
chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức,
lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Với
quan điểm: “Nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật, đánh giá đúng sự thật. Kết
hợp giữa “xây” và “chống”; “xây” là nhiệm vụ cơ bản, chiến lược, lâu dài; “chống”
là nhiệm vụ quan trọng, cấp bách”(13).
“Lý luận về bảo vệ,
nâng cao vị trí, vai trò và uy tín chính trị luôn được Đảng quan tâm và được bổ
sung, phát triển với nhiều nội dung, quan điểm, giải pháp mới phù hợp với yêu cầu
của từng giai đoạn cách mạng. Nhờ đó, Đảng ngày càng vững mạnh, đủ sức lãnh đạo
cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác
Nghị
quyết đã có sự phát triển về nhiệm vụ, giải pháp xây dựng, chỉnh đốn Đảng, bảo
vệ, nâng cao vị trí, vai trò, uy tín chính trị của Đảng thể hiện qua sự nhấn mạnh:
Hằng năm, người đứng đầu và từng cán bộ, đảng viên có cam kết rèn luyện, giữ
gìn phẩm chất đạo đức, lối sống, không suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển
hóa”; các cấp ủy, tổ chức đảng kiểm tra, giám sát việc thực hiện cam kết của
cán bộ, đảng viên ở địa phương, cơ quan, đơn vị mình. Hoàn thiện và thực hiện
nghiêm túc quy định về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết
là các đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung
ương và bí thư cấp ủy các cấp. Rà soát, hoàn thiện và thực hiện nghiêm cơ chế
kiểm tra, giám sát, kiểm soát việc thực thi quyền lực của người có chức, có quyền,
theo hướng quyền hạn đến đâu trách nhiệm đến đó; phân định rõ thẩm quyền và
trách nhiệm tập thể, cá nhân trong từng công đoạn giải quyết công việc và có chế
tài xử lý nghiêm những hành vi vi phạm. Kiên quyết sàng lọc, miễn nhiệm, thay
thế, cho từ chức đối với cán bộ làm việc kém hiệu quả, không hoàn thành nhiệm vụ,
yếu về năng lực, kém về phẩm chất đạo đức, tín nhiệm thấp mà không chờ hết nhiệm
kỳ, hết tuổi công tác, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý và người đứng đầu. Trước
mắt, rà soát, kiểm tra, xử lý dứt điểm các vụ việc vi phạm trong thực thi quyền
lực gây bức xúc trong cán bộ, đảng viên và nhân dân. Người đứng đầu cấp ủy,
chính quyền các cấp phải thực hiện nghiêm túc việc tiếp dân định kỳ hoặc đột xuất
để tiếp nhận thông tin, lắng nghe, đối thoại trực tiếp và xử lý những phản ánh,
kiến nghị của nhân dân, nhất là những biểu hiện suy thoái, “tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa” trong cán bộ, đảng viên. Xây dựng và thực hiện Quy định về việc lấy
ý kiến đánh giá sự hài lòng của người dân đối với cơ quan, cán bộ, công chức trực
tiếp giải quyết công việc của người dân và doanh nghiệp; có hình thức xử lý đối
với những tổ chức, cá nhân có chỉ số hài lòng thấp.
Ngày
25-10-2021, Hội nghị Trung ương 4 khóa XIII ban hành Kết luận số 21-KL/TW về đẩy
mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy
lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về chính trị, đạo đức, lối sống,
biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Mục tiêu
là: Đẩy mạnh công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống
chính trị nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền, sức chiến đấu của
Đảng... Kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý
nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu
hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; kết hợp chặt chẽ, hài hoà giữa “xây” và
“chống”, xây là nhiệm vụ cơ bản, chiến lược, lâu dài, chống là nhiệm vụ quan trọng,
cấp bách, thường xuyên. Tạo bước phát triển mới của Đảng về trí tuệ, bản lĩnh
chính trị, thực sự là đạo đức, là văn minh, ngày càng gắn bó mật thiết với nhân
dân, ngày càng được nhân dân tin tưởng; đủ uy tín và năng lực lãnh đạo thực hiện
thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng và sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc.
Để
lãnh đạo đất nước vững bước vào kỷ nguyên mới, nhận thức của Đảng ta về phương
hướng, nhiệm vụ và giải pháp nhằm bảo vệ, nâng cao vị trí, vai trò và uy tín
chính trị của Đảng tiếp tục được phát triển theo hướng toàn diện, sâu sắc và
phù hợp thực tiễn hơn. Ba nhiệm vụ chiến lược của kỷ nguyên mới được Đảng xác định
bao gồm: Giữ vững, duy trì môi trường hòa bình, ổn định; phát triển kinh tế -
xã hội nhanh và bền vững; nâng cao đời sống của nhân dân, tất cả vì nhân dân(14).
Trong
bài phát biểu tại Phiên bế mạc Hội nghị Trung ương 12, khóa XIII, Tổng Bí thư
Tô Lâm yêu cầu các Văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng phải khẳng định vai trò
then chốt của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, công tác phòng chống tham
nhũng, lãng phí, tiêu cực; chống chủ nghĩa cá nhân, lợi ích nhóm, suy thoái tư
tưởng, đạo đức, lối sống; tăng cường kiểm soát quyền lực; nâng cao năng lực
lãnh đạo, cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng; nâng cao năng lực quản trị quốc
gia và điều hành hoạt động của tổ chức bộ máy trong hệ thống chính trị(15).
Như
vậy, nhận thức của Đảng về phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp bảo vệ, nâng cao vị
trí, vai trò, uy tín chính trị ngày càng hoàn thiện, khẳng định sự phát triển về
lý luận và tư duy chính trị của Đảng trong điều kiện mới. Sự phát triển này
không chỉ giúp Đảng tự bảo vệ mình trước các nguy cơ hiện hữu mà còn tạo dựng nền
tảng để tăng cường niềm tin của nhân dân, nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền
của Đảng trong giai đoạn phát triển mới của đất nước.
3. Kết luận
Thực
tiễn công tác xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử, nhất là
từ khi thực hiện đường lối đổi mới đến nay cho thấy, xây dựng nội bộ Đảng là
nhiệm vụ rất quan trọng nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng,
để Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh, xứng đáng với sự tin cậy của nhân dân.
Trong đó, lý luận về bảo vệ, nâng cao vị trí, vai trò và uy tín chính trị luôn
được Đảng quan tâm và được bổ sung, phát triển với nhiều nội dung, quan điểm,
giải pháp mới phù hợp với yêu cầu của từng giai đoạn cách mạng. Nhờ đó, Đảng
ngày càng vững mạnh, đủ sức lãnh đạo cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến
thắng lợi khác.
(nguồn
lyluanchinhtri.vn)
Ngày nhận
bài: 30-9-2025; Ngày bình duyệt: 6-10-2025; Ngày quyết định
đăng: 8-10-2025
Email tác giả:
tranhuongxdd@gmail.com
(1), (9)
ĐCSVN: Văn kiện Đảng toàn tập, t.47, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2006, tr.360-361, 475.
(2) ĐCSVN: Văn kiện Đảng toàn tập,
t.49, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.263-264.
(3), (12)
ĐCSVN: Văn kiện Đảng toàn tập, t.58, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2015, tr.57, 62.
(4)
ĐCSVN: Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa XI,
Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2012, tr.21-22.
(5), (13)
ĐCSVN: Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa XII,
Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr.22, 35.
(6)
ĐCSVN: Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa XIII,
Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2021, tr.89.
(7), (14) Việt
Nam vững bước tiến vào kỷ nguyên mới và những vấn đề đặt ra đối với sự nghiệp bảo
vệ Tổ quốc, https://www.qdnd.vn, ngày 02-7-2025.
(8)
Xem: ĐCSVN: Văn kiện Đảng toàn tập, t.47, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội, 2006, tr.362-365.
(10)
ĐCSVN: Văn kiện Đảng toàn tập, tập 50, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 2007, tr.502-503.
(11)
ĐCSVN: Văn kiện Đảng toàn tập, tập 52, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 2007, tr.191-192.
(15) Toàn
văn: Phát biểu của Tổng Bí thư Tô Lâm tại Phiên bế mạc Hội nghị Trung ương
12, khóa XIII, https://xaydungchinhsach.chinhphu.vn, ngày 20-7-2025.