
Tổng Bí thư Tô Lâm và Tổng Bí
thư Đảng Lao động Triều Tiên, Chủ tịch Quốc vụ nước CHDCND Triều Tiên Kim Jong
Un trên bục danh dự, nghe Quân nhạc cử Quốc thiều hai nước. Ảnh: TTXVN
1. Mở đầu
Trong
bối cảnh thế giới có nhiều biến động nhanh chóng, tình hình chính trị - kinh tế
quốc tế diễn biến phức tạp, khó lường, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn nhất quán thực
hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đồng
thời, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế toàn diện và sâu rộng. Một trong những
quan điểm có giá trị nền tảng, được Đảng ta vận dụng linh hoạt và sáng tạo
trong quá trình hoạch định và triển khai đường lối đối ngoại hiện nay là phương
châm “Dĩ bất biến ứng vạn biến” trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Đây là phương châm
thể hiện sự kiên định về nguyên tắc, lập trường trong khi linh hoạt, sáng tạo về
sách lược, giúp Việt Nam thích ứng với những thay đổi của thế giới mà vẫn giữ vững
lợi ích quốc gia - dân tộc.
2. Nội dung
2.1.
Phương châm “Dĩ bất biến ứng vạn biến” trong tư tưởng Hồ Chí Minh
Trước
khi lên đường thăm chính thức nước Pháp với tư cách thượng khách vào ngày
31-5-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn quyền Chủ tịch nước Huỳnh Thúc
Kháng: “Tôi vì nhiệm vụ quốc dân giao phó phải đi xa ít lâu, ở nhà trăm
sự khó khăn nhờ cậy ở Cụ cùng anh em giải quyết cho. Mong Cụ “Dĩ bất biến ứng vạn
biến””(1).
Phương
châm “Dĩ bất biến ứng vạn biến” trong tư tưởng Hồ Chí Minh là lấy cái không đổi
làm nền tảng để thích ứng linh hoạt với mọi biến động. Cội nguồn sâu xa của
phương châm này bắt rễ từ truyền thống ngoại giao và văn hóa chính trị Việt
Nam. Trong lịch sử dựng nước và giữ nước, cha ông ta nhiều lần ứng phó với các
thế lực ngoại xâm lớn mạnh. Từ kinh nghiệm ấy, đã hình thành một triết lý xử thế
đặc trưng: “lấy đại nghĩa thắng hung tàn, lấy chí nhân thay cường bạo”, “nhu để
thắng cương”, “tùy cơ ứng biến nhưng vẫn giữ nguyên cốt lõi lợi ích dân tộc”.
Đây chính là “chất liệu văn hóa” để Hồ Chí Minh kế thừa và phát triển thành
phương châm mang tính hiện đại.
Phương
châm “Dĩ bất biến ứng vạn biến” trong tư tưởng Hồ Chí Minh còn được xây dựng bởi
vốn tri thức phong phú và sự tiếp thu tinh hoa tư tưởng thế giới của Người. Quá
trình bôn ba qua nhiều châu lục giúp Người thấm nhuần cả truyền thống phương
Đông lẫn hiện đại phương Tây. Triết lý phương Đông, đặc biệt là tư tưởng Lão -
Trang và tinh thần “dĩ nhu thắng cương” trong văn hóa Á Đông, tạo nên nền tảng
cho cách ứng xử linh hoạt; Phép biện chứng duy vật và tư tưởng Mác-Lênin trang
bị cho Người cơ sở lý luận khoa học, nhấn mạnh sự thống nhất giữa tính nguyên tắc
và tính linh hoạt trong chính trị quốc tế. Nhờ sự kết hợp này, phương châm “Dĩ
bất biến ứng vạn biến” không chỉ mang tính triết lý truyền thống mà còn được
nâng lên tầm tư tưởng chính trị cách mạng.
Phương
châm ấy được định hình rõ nét trong thực tiễn hoạt động của Hồ Chí Minh. Trong
những năm 1945-1946, khi nền độc lập vừa giành được đứng trước nguy cơ “ngàn
cân treo sợi tóc”, Người đã vận dụng thành công nguyên tắc này. Từ thực tiễn ấy,
phương châm được khái quát thành một quy luật xử thế ngoại giao, vừa thể hiện bản
lĩnh kiên định, vừa phản ánh trí tuệ ứng biến mềm dẻo.
Như
vậy, phương châm này là kết quả tổng hòa của truyền thống ngoại giao dân tộc, sự
hấp thu tinh hoa tư tưởng Đông - Tây và thực trạng hoạt động chính trị của Người,
trong đó nguồn gốc có vai trò quyết định nhất là tiếp thu chủ nghĩa Mác-Lênin.
Trong
tư tưởng Hồ Chí Minh, điều “bất biến” chính là mục tiêu cao nhất: độc lập, thống
nhất của Tổ quốc, quyền tự do, dân chủ và hạnh phúc của nhân dân. Đây cũng là
“ham muốn tột bậc” mà Người khẳng định. Tư tưởng “Không có gì quý hơn độc lập,
tự do”(2) là điểm khởi nguồn
cho cái “bất biến” ấy. Để hiện thực hóa mục tiêu đó, Người luôn xuất phát từ việc
đánh giá đúng cục diện quốc tế và so sánh tương quan lực lượng trong từng thời
điểm cụ thể. Trên cơ sở đó, Người lựa chọn những sách lược linh hoạt, mềm dẻo
và khôn khéo nhằm từng bước đạt được thắng lợi, tiến tới mục tiêu cuối cùng.
Người
đã đưa phương châm “Dĩ bất biến ứng vạn biến” lên tầm cao của nghệ thuật xử lý
tình huống trong khoa học chính trị và đối ngoại. Nhờ vận dụng sáng tạo phương
châm này, Người lãnh đạo cách mạng Việt Nam vượt qua muôn vàn thử thách, vượt
qua tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”. Dưới sự chỉ đạo của Người, dù cách mạng
có lúc thăng trầm, tiến thoái, nhưng cuối cùng đã đạt được mục tiêu độc lập dân
tộc, thống nhất đất nước, mang lại tự do, hạnh phúc cho nhân dân.
Việc
nắm vững phương châm “ứng vạn biến” đòi hỏi trong từng hoàn cảnh và thời điểm lịch
sử cụ thể, phải biết linh hoạt xử lý tình huống sao cho không làm tổn hại đến
“cái bất biến” - tức là luôn kiên định với mục tiêu chiến lược lâu dài. Tùy
theo thời thế, đối tượng và điều kiện cụ thể, lựa chọn cách ứng phó phù hợp,
tinh tế và hiệu quả. Đây là nguyên tắc có tính phổ quát, mang ý nghĩa đặc biệt
quan trọng trong hoạt động đối ngoại, nhất là đối với Việt Nam.
Quan
điểm chỉ đạo của Hồ Chí Minh trong thực hiện phương châm “Dĩ bất biến ứng vạn
biến” thể hiện rõ qua lời dạy: “Mục đích bất di bất dịch của ta vẫn
là hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ. Nguyên tắc của ta thì phải vững
chắc, nhưng sách lược của ta thì linh hoạt”(3). Tùy
theo bối cảnh cách mạng, có những thời điểm cần “nhân nhượng, thỏa hiệp”, song
điều đó chỉ được thực hiện trên cơ sở nguyên tắc, tuyệt đối không đánh đổi, hy
sinh mục tiêu chiến lược. Vì vậy, trong đàm phán hay thương lượng, phải luôn giữ
thế chủ động, nắm chắc nguyên tắc và vận dụng sách lược một cách linh hoạt. Người
nhấn mạnh: “Người ta cương thì mình phải nhu; phải khôn khéo lấy nhu thắng
cương thì mới biết mình, biết người”(4). Đây
là sự kết hợp giữa bản lĩnh nguyên tắc và nghệ thuật ứng xử mềm dẻo, khéo léo,
là tinh thần cốt lõi của phương châm “Dĩ bất biến ứng vạn biến”.
Theo
Hồ Chí Minh, thực hiện phương châm “Dĩ bất biến ứng vạn biến” phải “Mềm mại,
khôn khéo, nhưng rất kiên cường, quyết liệt; linh hoạt, sáng tạo nhưng rất bản
lĩnh, kiên định, can trường trước mọi thử thách, khó khăn, vì độc lập dân tộc,
vì tự do, hạnh phúc của nhân dân. Đoàn kết, nhân ái, nhưng kiên quyết, kiên trì
bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc. Biết nhu, biết cương; biết thời, biết thế, biết
người; biết tiến, biết thoái, “tùy cơ ứng biến””(5).
2.2.
Vận dụng phương châm “Dĩ bất biến ứng vạn biến” trong tư tưởng Hồ Chí Minh vào
thực hiện đường lối đối ngoại ở Việt Nam hiện nay
Hiện
nay, những bài học của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong cách ứng xử với các cường quốc,
đặc biệt là những nước có tiềm lực kinh tế, quốc phòng mạnh, các nước láng giềng,
vẫn giữ nguyên giá trị. Sau gần 40 năm đổi mới, Đảng ta đã vận dụng phương châm
“Dĩ bất biến ứng vạn biến” trong thực tiễn từng giai đoạn, không ngừng bổ sung,
phát triển, hoàn thiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở vì hòa
bình, hợp tác và phát triển, thực thi chính sách đối ngoại đa phương hóa, đa dạng
hóa, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế và đạt được nhiều thành tựu to lớn
có ý nghĩa lịch sử, đồng thời mở ra những cơ hội phát triển quan trọng. Cụ thể:
Trải
qua gần 40 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn và toàn diện
trên nhiều lĩnh vực như: chính trị, kinh tế, quốc phòng, an ninh và đối ngoại…
Những kết quả này góp phần củng cố vững chắc tiềm lực quốc gia, nâng cao vị thế
và uy tín của đất nước trên trường quốc tế, được cộng đồng quốc tế ghi nhận và
đánh giá cao.
Đại
hội XIII của Đảng đã khẳng định: “Hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế được
đẩy mạnh, không ngừng mở rộng và đi vào chiều sâu; kiên quyết, kiên trì bảo vệ
độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và lợi ích quốc gia - dân tộc;
giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước, đồng thời đóng
góp tích cực, có trách nhiệm cho hòa bình, hợp tác, phát triển của thế giới và
khu vực, được cộng đồng quốc tế đồng tình ủng hộ, đánh giá cao; uy tín, vị thế
của Đảng, Nhà nước, thế và lực của đất nước không ngừng được nâng cao trên trường
quốc tế”(6).
Đến
nay, đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân được triển khai
đồng bộ và toàn diện. Đảng ta đã có quan hệ với 259 chính đảng ở 119 quốc gia
trên thế giới… Từ một nước bị bao vây, cấm vận, đến nay, Việt Nam đã mở rộng,
làm sâu sắc quan hệ ngoại giao với 194 nước, thiết lập quan hệ đối tác chiến lược
và toàn diện với 38 quốc gia, là thành viên của trên 70 tổ chức khu vực và thế
giới. Đặc biệt, nước ta đã thiết lập quan hệ đối tác chiến lược toàn diện hoặc
đối tác chiến lược với tất cả 5 nước Ủy viên Thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp
quốc và mở rộng quan hệ kinh tế - thương mại với 230 quốc gia và vùng lãnh thổ(7). Việt Nam đã và đang thể hiện tốt vai
trò là bạn, là đối tác tin cậy của cộng đồng quốc tế; có nhiều sáng kiến, đề xuất
và chủ động, tích cực tham gia có hiệu quả vào các hoạt động của ASEAN, tổ chức
Liên hợp quốc và nhiều tổ chức quốc tế khác.
Thế
giới đang chứng kiến những biến động nhanh chóng, phức tạp và khó lường. Hòa
bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn cũng như khát vọng chính đáng của
các quốc gia, dân tộc, song đang phải đối mặt với nhiều thách thức nghiêm trọng.
Trong đó, nổi bật là tình trạng suy thoái kinh tế toàn cầu, cạnh tranh chiến lược
giữa các cường quốc, chính sách thuế quan của các nước lớn; cùng sự gia tăng của
các mối đe dọa an ninh phi truyền thống như: đại dịch, biến đổi khí hậu, ô nhiễm
môi trường, khủng hoảng năng lượng và an ninh nguồn nước. Đồng thời, các vấn đề
như: xung đột sắc tộc, tôn giáo, chủ nghĩa khủng bố, chiến tranh cục bộ và
tranh chấp chủ quyền, lãnh thổ, tài nguyên tiếp tục diễn biến dưới những hình
thức mới, phức tạp và quyết liệt hơn.
Trước
những thuận lợi và khó khăn trên, để vững bước tiến vào kỷ nguyên phát triển mới,
Đảng ta tiếp tục vận dụng sáng tạo phương châm “Dĩ bất biến ứng vạn biến” trong
tư tưởng đối ngoại của Hồ Chí Minh vào thực hiện đường lối đối ngoại hiện nay,
kiên định những nguyên tắc, đồng thời linh hoạt, mềm dẻo trong sách lược:
Một
là, bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc
trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc
tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi
Lợi
ích quốc gia - dân tộc là những giá trị “bất biến” trong thực hiện đường lối đối
ngoại mà Đảng ta đã xác định, để từ đó có quan điểm chỉ đạo công tác đối ngoại:
“Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của
Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi”(8). Bảo đảm lợi ích này có nghĩa là phải giữ vững chủ quyền, độc lập, toàn vẹn lãnh thổ,
đây là yếu tố không thể thỏa hiệp, là nền tảng cho sự phát triển bền vững của
quốc gia. Đường lối đối ngoại phải phục vụ mục tiêu thúc đẩy tăng trưởng kinh tế,
nâng cao đời sống nhân dân. Đối ngoại phải đi đôi với bảo đảm an ninh quốc
phòng, ngăn ngừa các nguy cơ từ bên ngoài, phải nâng cao vị thế quốc tế vì lợi ích quốc gia không chỉ giới hạn
trong phạm vi lãnh thổ mà còn bao gồm uy tín, ảnh hưởng của quốc gia trên trường
quốc tế.
Việt
Nam kiên định thực hiện chính sách đối ngoại dựa trên nền tảng tôn trọng luật
pháp quốc tế, đặc biệt là Hiến chương Liên hợp quốc, với những nguyên tắc cốt
lõi là tôn trọng chủ quyền, không can thiệp vào công việc nội bộ của quốc gia
khác. Đây là những nguyên tắc nền tảng nhằm duy trì hòa bình, ổn định và trật tự
trong quan hệ quốc tế. Trong xử lý các tranh chấp, Việt Nam chủ trương giải quyết
bằng các biện pháp hòa bình, thông qua đối thoại và đàm phán, trên cơ sở luật
pháp quốc tế, tránh mọi hành vi dẫn đến xung đột hoặc đối đầu. Đồng thời, Việt
Nam kiên quyết phản đối việc sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực, tôn trọng
toàn vẹn lãnh thổ của tất cả các quốc gia. Đây là nguyên tắc nhất quán, là cơ sở
pháp lý và đạo lý để Việt Nam kiên trì bảo vệ chủ quyền quốc gia, đồng thời yêu
cầu các bên liên quan tôn trọng các quyền và lợi ích chính đáng của Việt Nam.
Trong
bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng, Việt Nam thúc đẩy quan hệ đối ngoại dựa
trên nguyên tắc bình đẳng, hợp
tác, cùng có lợi. Việt Nam không chấp nhận áp đặt từ các nước lớn
và cũng không tìm cách gây ảnh hưởng lên nước khác. Việt Nam coi trọng quan hệ
hợp tác với tất cả các nước, từ láng giềng, khu vực đến đối tác toàn cầu, trên
nhiều lĩnh vực như kinh tế, chính trị, quốc phòng, văn hóa, khoa học công nghệ.
Việt Nam hướng đến các mối quan hệ đôi bên cùng có lợi, bảo đảm rằng hợp tác quốc
tế không chỉ mang lại lợi ích cho Việt Nam mà còn đóng góp tích cực cho cộng đồng
quốc tế. Chính sách đối ngoại của Việt Nam tuân thủ nguyên tắc bảo vệ lợi ích
quốc gia trên nền tảng luật pháp quốc tế, bảo đảm một môi trường hòa bình, hợp
tác, phát triển. Nhờ đó, Việt Nam không những giữ vững chủ quyền và lợi ích quốc
gia, mà còn mở rộng quan hệ đối ngoại, từng bước nâng cao vị thế và uy tín của
đất nước trên trường quốc tế.
Hai
là, kiên định đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ,
hòa bình, hợp tác và phát triển
Tư
tưởng Hồ Chí Minh luôn nhất quán với tinh thần độc lập, tự chủ và được Đảng ta
vận dụng, thể hiện rõ qua các chủ trương, chính sách cụ thể qua từng giai đoạn
lịch sử, đặc biệt trong đường lối đối ngoại. Đại hội XIII của Đảng khẳng định:
“Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp
tác và phát triển, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại…. chủ động và
tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng; Việt Nam là bạn, là đối tác tin
cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế”(9). Tinh thần độc lập, tự chủ thể hiện ở việc
lấy nội lực làm nền tảng, đồng thời tiếp thu có chọn lọc những kinh nghiệm, bài
học từ quốc tế. Tự chủ thể hiện ở việc tự nghiên cứu, tìm tòi và xác định chủ
trương, chính sách phù hợp để giải quyết các vấn đề của đất nước. Chỉ khi giữ vững
nguyên tắc độc lập, tự chủ trong hoạch định đường lối, chính sách mới chủ động
trong quan hệ đối ngoại, không bị chi phối hay áp lực từ bên ngoài. Việc hợp
tác phải được cân nhắc kỹ lưỡng để không trở thành công cụ phục vụ lợi ích nhất
thời mà làm tổn hại lợi ích chiến lược, lâu dài của quốc gia, dân tộc.
Ba
là, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại,
tận dụng nội lực và tranh thủ ngoại lực
Trong
thực hiện đường lối đối ngoại, “Dĩ bất biến ứng vạn biến” là yếu tố quan trọng
trong việc kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại nhằm phát huy tối đa
nội lực, tranh thủ hiệu quả các nguồn ngoại lực ở mỗi thời kỳ. Ngày nay, nguồn
lực nội sinh, trong đó con người là then chốt, đóng vai trò quyết định trong bảo
vệ lợi ích quốc gia và nâng cao vị thế đất nước. Đại hội XIII của Đảng khẳng định:
“Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; nêu cao ý chí độc lập, tự chủ,
chủ động, tích cực hội nhập và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, phát huy tối
đa nội lực, tranh thủ ngoại lực, trong đó nguồn lực nội sinh, nhất là nguồn lực
con người là quan trọng nhất”(10).
Sức mạnh dân tộc Việt Nam bắt nguồn từ truyền thống lịch sử lâu đời, giá trị
văn hóa đặc sắc, tinh thần yêu nước, ý chí tự lực, tự cường và sự đoàn kết thống
nhất của toàn dân. Đây là nền tảng giúp Việt Nam giữ vững độc lập, chủ quyền và
chủ động trong quan hệ quốc tế.
Việc phát huy nội lực và tranh thủ ngoại lực là
hai yếu tố bổ trợ lẫn nhau. Nội lực là
điều kiện tiên quyết để bảo đảm sự độc lập trong đối ngoại, trong đó nguồn lực con người giữ vai trò
then chốt. Đội ngũ cán bộ đối ngoại có bản lĩnh chính trị vững vàng, tư duy chiến
lược sắc bén, am hiểu luật pháp và tình hình quốc tế sẽ giúp đất nước ứng phó
linh hoạt với các biến động toàn cầu. Bên cạnh đó, nguồn nhân lực chất lượng
cao trong các lĩnh vực kinh tế, khoa học - công nghệ sẽ tạo nên sức mạnh giúp
Việt Nam không chỉ tham gia mà còn đóng góp tích cực vào các cấu trúc hợp tác
khu vực và thế giới.
Mặt
khác, tranh thủ ngoại lực không
có nghĩa là phụ thuộc mà là tận dụng những cơ hội từ hợp tác quốc tế để phục vụ
lợi ích dân tộc. Điều này đòi hỏi đường lối đối ngoại linh hoạt, khéo léo, giữ
vững nguyên tắc độc lập, tự chủ nhưng biết tận dụng các nguồn lực bên ngoài
như: đầu tư, công nghệ, tri thức và kinh nghiệm quản lý tiên tiến. Như vậy, sự
kết hợp hài hòa giữa sức mạnh dân
tộc và sức mạnh thời đại, với trọng tâm là phát huy tối đa nội lực, đặc biệt là nguồn lực con người, sẽ giúp
Việt Nam nâng cao vị thế quốc tế, giữ vững chủ quyền và phát triển bền vững.
Bốn
là, chủ động, sáng tạo trong đối ngoại, linh hoạt
trong quan hệ quốc tế để thích ứng với tình hình thế giới
Trong
thực hiện đường lối đối ngoại, thích ứng nhanh chóng với sự thay đổi của tình
hình quốc tế, điều chỉnh chiến lược và cách tiếp cận để phù hợp với lợi ích quốc
gia mà không làm mất đi nguyên tắc cốt lõi. Đồng thời, tìm ra cách thức mới, giải
pháp đột phá trong quan hệ quốc tế nhằm đạt được mục tiêu đối ngoại một cách hiệu
quả nhất, tối ưu hóa lợi ích quốc gia. Đại hội XIII của Đảng chỉ rõ: “Chủ động
và tích cực hội nhập quốc tế, giải quyết tốt mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ
và hội nhập quốc tế; thúc đẩy hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, linh hoạt,
hiệu quả vì lợi ích quốc gia - dân tộc, bảo đảm độc lập, tự chủ, chủ quyền quốc
gia. Gắn kết chặt chẽ quá trình chủ động, tích cực hội nhập quốc tế toàn diện
và sâu rộng với việc nâng cao sức mạnh tổng hợp, huy động tiềm năng của toàn xã
hội; đổi mới, hoàn thiện thể chế trong nước, nâng cao năng lực tự chủ, cạnh
tranh và khả năng thích ứng của đất nước”(11).
Trong
bối cảnh hiện nay, việc duy trì một chính sách đối ngoại cứng nhắc sẽ dễ rơi
vào thế bị động, bị cô lập hoặc không tận dụng được cơ hội phát triển. Ngược lại,
cách tiếp cận linh hoạt và sáng tạo sẽ giúp bảo đảm lợi ích quốc gia trong mọi
hoàn cảnh. Do đó, linh hoạt và sáng tạo trong đường lối đối ngoại là yếu tố
quan trọng giúp Việt Nam tận dụng cơ hội, vượt qua thách thức trong môi trường
quốc tế biến đổi phức tạp khó lường. Đây cũng là chìa khóa giúp đất nước giữ vững
độc lập, chủ quyền, nâng cao vị thế và hội nhập sâu rộng với thế giới.
Năm
là, chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ làm công
tác đối ngoại toàn diện về bản lĩnh, phẩm chất, đạo đức và trí tuệ, đáp ứng các
yêu cầu và nhiệm vụ trong tình hình mới
Cán
bộ làm công tác đối ngoại là lực lượng nòng cốt thực hiện công tác đối ngoại,
ngoại giao của quốc gia, gồm: các nhà ngoại giao, chuyên gia nghiên cứu chiến
lược, cán bộ kinh tế đối ngoại, hợp tác quốc tế,... Đội ngũ này đóng vai trò
quan trọng trong việc thúc đẩy quan hệ quốc tế, bảo vệ lợi ích quốc gia, tham
gia đàm phán quốc tế và xử lý các vấn đề đối ngoại phức tạp. Do đó, họ cần có
những phẩm chất đặc biệt của người làm công tác đối ngoại, ngoại giao. Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã từng căn dặn: “Cán bộ ngoại giao cần phải học tập, tu dưỡng đạo
đức cách mạng; cần phải biết giữ bí mật; cần phải tiết kiệm đúng cách; cần phải
chú ý đoàn kết nội bộ; cần cố gắng nắm bắt tình hình nước sở tại và tình hình
quốc tế nhanh và chính xác”(12).
Quán
triệt sâu sắc lời dạy của Người, Đại hội XIII của Đảng đã nhấn mạnh yêu cầu:
“Nâng cao bản lĩnh, phẩm chất, năng lực, phong cách chuyên nghiệp, đổi mới sáng
tạo của đội ngũ cán bộ làm công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế”(13). Trong tình hình quốc tế phức tạp và sự
cạnh tranh của các nước lớn, hội nhập kinh tế sâu rộng và nhiều thách thức phi
truyền thống, đội ngũ cán bộ làm công tác đối ngoại của Việt Nam cần đáp ứng
các yêu cầu: (1) Kiên định, trung thành với đường lối đối ngoại của Đảng, đặt lợi
ích quốc gia - dân tộc lên trên hết, có lập trường vững vàng trong các vấn đề
nhạy cảm như: chủ quyền lãnh thổ, an ninh quốc gia... (2) Nắm chắc luật pháp quốc
tế, các hiệp định thương mại, các cơ chế hợp tác song phương và đa phương để bảo
vệ lợi ích đất nước hiệu quả. (3) Việc thông thạo ngoại ngữ là điều kiện thiết
yếu để cán bộ đối ngoại tham gia hiệu quả vào các hoạt động đàm phán, xử lý khủng
hoảng và thúc đẩy hợp tác với các đối tác quốc tế. (4) Tư duy linh hoạt, sáng tạo,
có khả năng thích ứng với các biến động quốc tế, xử lý linh hoạt các tình huống
ngoại giao, tranh thủ tối đa cơ hội từ các diễn biến mới trên thế giới. (5)
Trong thời đại chuyển đổi số, cán bộ làm công tác đối ngoại cần tận dụng công
nghệ để nâng cao hiệu quả làm việc; có tư duy phản biện, kiểm soát thông tin,
nhận diện, phản bác các thông tin sai lệch.
Xây
dựng đội ngũ cán bộ đối ngoại ngang tầm nhiệm vụ là yêu cầu cấp thiết để Việt
Nam giữ vững vị thế quốc tế, bảo vệ lợi ích quốc gia và thúc đẩy hội nhập sâu rộng.
Việc đầu tư vào nhân lực đối ngoại, ngoại giao không chỉ là nhiệm vụ trước mắt
mà còn mang ý nghĩa chiến lược lâu dài cho sự phát triển và bảo vệ đất nước.
3. Kết luận
Qua
gần 40 năm thực hiện công cuộc đổi mới đất nước, với sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng,
đất nước ta đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Việc vận dụng
phương châm “Dĩ bất biến ứng vạn biến” trong tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực hiện
đường lối đối ngoại, giúp Việt Nam duy trì thế chủ động, ứng phó hiệu quả với
những biến động toàn cầu mà vẫn giữ vững lợi ích quốc gia - dân tộc. Phương
châm “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” trong tư tưởng Hồ Chí Minh luôn là kim chỉ nam
định hướng cho đường lối đối ngoại của Đảng trong kỷ nguyên phát triển mới. Việc
xác định rõ những nội dung có giá trị là “bất biến”, “vạn biến” trong hoạt động
đối ngoại của nước ta giúp phát huy sức mạnh của dân tộc kết hợp với sức mạnh của
thời đại, tiếp tục đưa đất nước vượt qua khó khăn, thử thách, vững tin vào một
tương lai tươi sáng, góp phần xây dựng đất nước ta phồn vinh, hạnh phúc, dân tộc
ta vươn mình rạng rỡ, vinh quang.
(nguồn lyluanchinhtri.vn)
Ngày nhận: 11-7-2025; Ngày bình duyệt:
10-10-20-2025; Ngày duyệt đăng: 11-10-2025.
Email tác giả: baonguyen1089@gmail.com
(1)
Hồ Chí Minh: Biên niên tiểu sử, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật,
Hà Nội, 2006, t.3, tr.235.
(2)
Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.15, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội,
2011, tr.130.
(3)
Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.8, Sđd, tr.555.
(4)
Vũ Đình Huỳnh: Tháng Tám cờ bay (Hồi ký), tạp chí Văn nghệ, số
36, ngày 04-9-1993.
(5)
Lê Văn Lợi: Hồ Chí Minh với hành trình thực hiện khát vọng độc lập, tự
do, hạnh phúc, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2024, tr.629.
(6), (9), (11), (13)
ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.I,
Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.22-23, 161-162, 164, 165.
(7)
Xem: Hải Liên: Nghị quyết số 59-NQ/TW: Bước ngoặt lịch sử trong tiến
trình hội nhập quốc tế, https://baochinhphu.vn, ngày: 16-9-2025.
(8), (10)
ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.II, Nxb
Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.324, 325.
(12)
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh - Viện Hồ Chí Minh và các Lãnh tụ của Đảng: Hồ
Chí Minh biên niên tiểu sử, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2016, t.9,
tr.6.