Từ khóa: Bẫy thu nhập; thu nhập cao; thu
nhập trung bình; Việt Nam.

Tăng năng suất
được xác định là yếu tố tiên quyết để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững. (Ảnh:
https://laodong.vn)
Đặt vấn
đề
Trong những thập niên qua,
nhiều quốc gia với những lợi thế có sẵn, hoặc những điều chỉnh hợp lý về thể
chế đã vươn lên khỏi nhóm nước có thu nhập thấp và gia nhập nhóm thu nhập trung
bình. Tuy nhiên cũng từ đây, hầu hết các nước đều luẩn quẩn trong "vũng
lầy" của nhóm thu nhập trung bình. Ở châu
Mỹ - La tinh, phần lớn các nền kinh tế cho dù đã đạt mức thu nhập trung bình
khá sớm, song cũng chỉ giẫm chân ở đó. Ở châu Á, ngoại trừ Nhật Bản và bốn con
rồng châu Á là Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông (Trung Quốc) và Singapore đã
vươn lên để trở thành nền kinh tế thu có nhập cao thì phần còn lại vẫn đang
dừng lại ở nhóm thu nhập trung bình, tuy nhiên các nước này cũng phải mất tới 25 - 30 năm để gia nhập nhóm nước có
thu nhập cao.
Ở nước ta, công cuộc đổi
mới đã tạo ra sự bứt phá mạnh mẽ về tăng trưởng kinh tế. Từ một nước nghèo, thu
nhập thấp, Việt Nam đã gia nhập nhóm các quốc gia thu nhập trung bình thấp vào
năm 2008. Mặc dù vậy, thực trạng tăng trưởng kinh tế hơn một thập kỷ qua cũng
cho thấy còn nhiều khó khăn, thách thức đang đặt ra. Nếu không có giải pháp để
tạo đột phá về tăng trưởng kinh tế thì nguy cơ sa lầy thu nhập trung bình là
hiện hữu.
1. Phân chia
các quốc gia theo thu nhập và bẫy thu nhập trung bình
Ngân hàng Thế giới phân
chia các nền kinh tế thành bốn nhóm theo tổng thu nhập quốc dân bình quân đầu người (GNI) được tính theo phương pháp Atlas trên cơ sở sử dụng tỷ giá hối
đoái[5]. Theo số liệu công bố vào ngày 1 tháng 7
năm 2021, các nền kinh tế được phân định theo GNI bình quân đầu người như sau:
(1) Nước thu nhập thấp: từ 1.045 USD trở xuống;
(2) Nước thu nhập trung bình thấp: từ 1.046 - 4.095 USD; (3) Nước thu nhập
trung bình cao: từ 4.096 - 12.695 USD; (4) Nước thu nhập cao: từ 12.696 USD trở
lên. Trong quá trình phát triển, mỗi nền kinh tế đều trải qua bốn giai đoạn thu
nhập nói trên. Tuy nhiên, giai đoạn 2 và giai đoạn 3 là hai giai đoạn mà các
quốc gia thường gặp nhiều khó khăn, cản trở nhất và mất nhiều thời gian để vượt
qua. Thậm chí, nhiều quốc gia khi đạt đến mức thu nhập trung bình (thấp hoặc
cao) thì sau hơn nửa thế kỷ vẫn không thể vượt lên để trở thành nước có thu
nhập cao. Hiện tượng này được gọi
là bẫy thu nhập trung bình (Middle Income Trap).
Bẫy
thu nhập trung bình là tình trạng một nền kinh tế đạt đến mức thu nhập trung
bình (thấp hoặc cao) nhờ những lợi thế sẵn có hoặc những thay đổi phù hợp về
thể chế nhưng sau đó lại không thể
vượt lên để trở thành nước có thu nhập cao. Những lợi thế giúp các quốc gia
thoát nghèo để trở thành nước thu nhập trung bình thường là nguồn nhân công giá
rẻ, tài nguyên thiên nhiên ở quy mô vừa phải, một số dự án đầu tư trực tiếp
nước ngoài vào các lĩnh vực công nghệ thấp hoặc hiệu ứng tức thời của sự thay
đổi về thể chế. Khi những lợi thế nói trên phát huy hết tác dụng, tốc độ tăng
trưởng của các quốc gia suy giảm, GNI bình quân đầu người tăng chậm, thậm chí
rất chậm. Đó là lúc các nền kinh tế đã sập bẫy thu nhập trung bình. Trước đây,
các nghiên cứu thường hay đề cập đến bẫy thu nhập trung bình thấp, tức là GNI
bình quân đầu người đạt từ 1.046 - 4.095 USD theo quy định thời điểm hiện tại.
Tuy nhiên, trong những năm gần đây, với sự chững lại của một số nền kinh tế thu
nhập trung bình cao như Trung Quốc, Malaysia, Thái Lan... thì người ta đã đề
cập đến bẫy thu nhập trung bình cao. Tức là những nền kinh tế mà sau nhiều năm,
GNI bình quân đầu người không thể vượt được mức 12.695 USD theo chuẩn của năm
2021. Vì vậy, hiện nay khi nói đến bẫy thu nhập trung bình là nói đến những nền
kinh tế sa lầy trong khoảng thu nhập từ 1.046 - 12.695 USD.
2. Những khó khăn, thách
thức đối với Việt Nam trong vượt bẫy thu nhập trung bình
Hiện nay, nhiều quan điểm cho rằng, Việt Nam
đã sập bẫy thu nhập trung bình với những dấu hiệu khá rõ ràng từ thực trạng của
nền kinh tế như: (1) Tăng trưởng kinh tế đang có xu hướng chững lại; (2) Năng
suất lao động, các chỉ số cạnh tranh thấp và chậm được cải thiện; (3) Cơ cấu
kinh tế chuyển dịch chậm, cơ cấu xuất khẩu thiếu bền vững, kém hiệu quả; (4)
Nhiều vấn đề kinh tế - xã hội - môi trường bất cập phát sinh như: cạn kiệt tài
nguyên, ô nhiễm môi trường; phân hóa giàu - nghèo; tham nhũng, bong bóng bất
động sản... Ngược lại, một số quan điểm lạc quan hơn thì cho rằng, bẫy thu nhập
trung bình đối với Việt Nam vẫn ở dạng nguy
cơ. Chúng ta vẫn còn dư lượng về thời gian để phục hồi tăng trưởng và vượt qua
giai đoạn khó khăn này để trở thành nền kinh tế có thu nhập cao. Mặc dù vậy, nhiều
người vẫn cho rằng, vấn đề Việt Nam đã sập bẫy thu nhập trung bình hay chưa, mà
cốt lõi là tìm giải pháp bứt phá về tăng trưởng kinh tế, nhanh chóng vượt qua
giai đoạn thu nhập trung bình, để trở thành nước có thu nhập cao vào năm 2045.
Trong
giai đoạn đầu đổi mới, với những
hiệu ứng tích cực từ sự thay đổi về thể chế kinh tế - chính trị - xã hội, các
tiềm năng, lợi thế được khơi dậy. Tài nguyên thiên nhiên, vốn, nguồn lao động
giá rẻ, dồi dào cộng với việc đẩy mạnh thu hút đầu tư nước ngoài thiên về số
lượng đã trở thành những động lực quan trọng thúc đẩy tăng trưởng nhanh. Tốc độ
tăng trưởng kinh tế bình quân giai đoạn 1991-1995 đạt 8,2%/năm; giai đoạn
1996-2000 là 7,0% và đạt 7,81% giai đoạn 2001-2005[2]. Chính nhờ vậy, Việt Nam đã vươn lên và gia nhập nhóm quốc
gia thu nhập trung bình thấp vào năm 2008 và xác định những mục tiêu cao hơn
cho giai đoạn tiếp theo. Tuy nhiên, trong hơn mười năm qua, tăng trưởng kinh tế
của nước ta có dấu hiệu chững lại. Giai đoạn 2011-2015, tốc độ tăng trưởng bình
quân đạt 5,92% và đạt 5,9% trong giai đoạn 2016-2020[2].
Tình trạng nói trên, ngoài những nguyên nhân
khách quan như khủng hoảng kinh tế toàn cầu, đại dịch Covid-19... thì nguyên
nhân nội tại được Đảng ta xác định là xuất phát từ mô hình tăng trưởng kinh tế.
Mô hình tăng trưởng theo chiều rộng ở nước ta cơ bản đã phát huy hết những tác
động tích cực. Tài nguyên thiên nhiên, nguồn lao động giá rẻ, các nguồn vốn đầu
tư... đã được khai thác và sử dụng tối đa.
Xác định rõ nguyên nhân, từ Đại hội XI, Đảng ta đã chủ trương đổi
mới mô hình tăng trưởng gắn với cơ cấu lại nền kinh tế. Mô hình tăng trưởng
kinh tế được xác định là chuyển dần từ tăng trưởng theo chiều rộng, sang kết
hợp giữa chiều rộng và chiều sâu, từng bước chuyển dần sang tăng trưởng hoàn
toàn theo chiều sâu. Trong công cuộc đó, ba đột phá chiến lược cùng với khoa
học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số được Đảng ta xác định là những
yếu tố đột phá. Sau mười năm thực hiện chủ trương nói trên, mô hình tăng trưởng
kinh tế Việt Nam đã có sự chuyển dịch theo hướng tích cực. Tỷ
trọng đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) tăng lên, đóng góp của
các yếu tố chiều rộng giảm xuống. Để phục hồi tốc độ tăng trưởng, vượt qua bẫy thu nhập trung bình, Đại hội XIII xác
định chủ trương tiếp tục đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất, chất
lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Đồng thời, Đảng ta xác định
lộ trình vượt bẫy thu nhập trung bình là: "Phấn đấu đến năm 2030, là nước
đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao... Phấn đấu
đến năm 2045 trở thành nước phát triển, có thu nhập cao"[1].
Mục tiêu nói trên đã được Đảng, Nhà nước ta tính toán một cách
khoa học với những cơ sở lý luận và thực tiễn rất rõ ràng, có tính khả thi cao.
Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là chúng ta sẽ dễ dàng thực hiện mục tiêu mà
không gặp trở ngại nào, thậm chí, khó khăn, thách thức đối với chúng ta là rất
lớn. Cụ thể là:
- Trình độ công nghệ chưa đáp ứng yêu cầu đổi
mới mô hình tăng trưởng kinh tế theo hướng chiều sâu để tăng trưởng nhanh và
bền vững. Nhìn chung, năng lực khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo
của nước ta còn hạn chế. Ngoài một số lĩnh vực đi tắt, đón đầu thì đa số còn ở
trình độ thấp. Công nghiệp, xuất khẩu dựa chủ yếu vào gia công, lắp ráp. Công
nghiệp chế biến, chế tác chưa phát triển, tỷ trọng đóng góp cho tăng trưởng
kinh tế còn thấp. Trong các kỳ Đại hội vừa qua, Đảng ta đã xác định rõ vai trò
động lực, quốc sách hàng đầu của khoa học và công nghệ và đề ra các chủ trương
để thúc đẩy khoa học công nghệ phát triển. Mặc dù vậy, cho đến nay khoa học và
công nghệ chưa trở thành chìa khóa để nước ta tăng trưởng nhanh.
- Nguồn nhân lực tuy nhiều về số lượng nhưng
chất lượng thấp. Tỷ trọng
lao động qua đào tạo có bằng cấp, chứng chỉ mới chỉ đạt 26,1% tại thời điểm quý
I, năm 2022[4]. Trong khi đó, chất lượng đào tạo nghề, chất lượng giáo dục đại
học chưa đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Trong một thời gian dài,
việc đào tạo nghề bị lãng quên, chỉ chú trọng vào đào tạo đại học, dẫn đến tình
trạng thiếu thợ và thiếu cả thầy giỏi. Ngoài ra, một thách thức nữa cũng cần
phải tính đến là tình trạng già hóa dân số. Những lợi thế về cơ cấu dân số vàng
đã không được tận dụng tốt trong thời gian qua. Hiện nay, dân số nước ta đang
bị già hóa. Theo báo cáo của Tổng cục thống kê, cơ cấu dân số vàng của Việt Nam
sẽ kết thúc vào năm 2039.
- Thể chế kinh tế - xã hội chưa theo kịp yêu
cầu phát triển đất nước. Những cố
gắng trong xây dựng và hoàn thiện thể chế phát triển đã mang lại những hiệu quả
tích cực trong 35 năm đổi mới. Tuy nhiên, với những yêu cầu phát triển đất nước
trong bối cảnh mới, thì thể chế phát triển, đặc biệt là thể chế kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa còn nhiều bất cập. Hệ thống pháp luật tuy
nhiều về số lượng, song lại thiếu đồng bộ, chồng chéo và còn nhiều lỗ hổng.
Thực thi pháp luật còn thiếu hiệu lực, hiệu quả chưa cao và đôi khi còn thiếu
minh bạch. Cơ chế phân bổ và sử dụng các
nguồn lực phát triển còn nhiều bất cập, chưa hoàn toàn theo cơ chế thị trường.
Khung khổ pháp luật chưa đầy đủ, chế tài chưa đủ mạnh để ngăn chặn tình trạng
tham nhũng, lãng phí, thất thoát tài sản quốc gia. Cơ chế quản lý ở một số
ngành, lĩnh vực chưa theo kịp với yêu cầu của kinh tế thị trường. Việc tổ chức
thực hiện các chủ trương lớn của Đảng còn chậm và hiệu quả chưa cao.
- Quá trình tăng trưởng kinh tế sau 35 năm
đổi mới đã và đang gây ra những hiệu ứng tiêu cực về môi trường. Mô hình tăng trưởng chiều rộng trên một nền tảng công nghệ và
chất lượng nhân lực thấp đã dẫn đến hiện tượng lãng phí và cạn kiệt tài nguyên,
hủy hoại môi trường. Bên cạnh đó, biến đổi khí hậu toàn cầu với những thiên
tai, hạn hán, ngập mặn, triều cường... cũng đang là những thách thức đáng lo
ngại với mục tiêu tăng trưởng nhanh ở nước ta.
- Những yếu tố khách quan như đại dịch
Covid-19, xung đột Nga - Ukraine cũng ảnh hưởng lớn đến mục tiêu tăng trưởng
kinh tế nhanh của Việt Nam. Do ảnh hưởng của đại dịch Covid - 19 nên năm 2020, tốc độ tăng
trưởng kinh tế nước ta chỉ đạt 2,91%, năm 2021 chỉ đạt 2,58% - thấp nhất trong
vòng 30 năm qua. Chính vì tốc độ tăng trưởng thấp của năm 2021 dẫn đến những
mục tiêu tăng trưởng giai đoạn 2021 - 2025 trở nên khó khăn hơn, đòi hỏi phải
nỗ lực cao hơn. Bên cạnh đó, xung đột quân sự Nga - Ukraine đã tác động không
nhỏ đến nền kinh tế toàn cầu, trong đó có Việt Nam. Những tác động này có thể
gây ảnh hưởng đến các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô, trong đó có mục tiêu tăng trưởng
kinh tế.
- Lạm phát toàn cầu và ở Việt Nam là căn cứ
để Ngân hàng Thế giới điều chỉnh ngưỡng phân định thu nhập cao, thấp và trung
bình. Điều đó
có nghĩa rằng, ngưỡng thu nhập cao mà chúng ta phải phấn đấu không dừng lại ở
con số 12.696 USD bình quân đầu người, đặc biệt là vài chục năm sau. Đây cũng
là một vấn đề khi tính toán, xây dựng mục tiêu tăng trưởng chúng ta cần phải
lưu ý khi tính toán lộ trình vượt bẫy thu nhập trung bình.
3. Một số giải pháp để Việt
Nam vượt qua bẫy thu nhập trung bình vào năm 2045
Theo số liệu từ Tổng cục Thống kê, quy mô GDP (đánh giá lại) của Việt Nam năm 2020 là
343 tỷ USD; dân số trung bình trong năm 2020 là 97,58 triệu người. Theo tính toán của tác giả, giả sử tốc
độ tăng dân số trung bình giai đoạn 2021-2045 là 1%/năm[2],[4], thì dân số nước ta vào năm 2045 khoảng
125 triệu người. Với quy mô dân số này, nếu tốc độ tăng trưởng bình quân giai
đoạn 2021-2045 là 6% thì quy mô GDP năm 2045 là 1.475 tỷ USD, bình quân đầu
người đạt 11.799 USD; Con số tương tự với tốc độ tăng trưởng: 6,5%/năm là 1.657
tỷ USD và 13.256 USD; 7% là 1.862 tỷ USD và 14.899 USD; 7,5% là 2.092 tỷ USD và
16.738 USD. Như vậy, để có thể vượt bẫy thu nhập trung bình vào năm 2045, tốc độ
tăng trưởng bình quân giai đoạn 2021-2045 tối thiểu phải đạt 7%/năm. Đây cũng
là mục tiêu Đại hội XIII xác định cho giai đoạn 2021-2030. Với nhiệm vụ này,
trong thời gian tới cần thực hiện hiệu quả một số giải pháp sau đây:
Một là, tiếp tục hoàn thiện và thực thi hiệu quả thể chế phát triển, đặc
biệt là thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong đó đặc
biệt chú trọng đến cơ chế quản lý và phát triển khoa học và công nghệ, đổi mới
sáng tạo và chuyển đổi số. Tiếp tục cải cách, tạo môi trường thuận lợi, minh
bạch, bình đẳng cho doanh nghiệp tư nhân phát triển, đặc biệt là các doanh
nghiệp công nghệ, doanh nghiệp đổi mới sáng tạo. Tiếp tục đẩy mạnh cải cách thủ
tục hành chính nhằm nâng cao hiệu quả thực thi chính sách, pháp luật của các
bộ, ngành và chính quyền các cấp; tạo môi trường bình đẳng, theo cơ chế thị
trường trong mọi khu vực của nền kinh tế; đẩy mạnh phòng, chống và xử lý tình
trạng tham nhũng, lãng phí, tạo sự công bằng, minh bạch và niềm tin cho xã hội
nhằm khơi dậy khát vọng phát triển, động lực cho tăng trưởng kinh tế.
Hai là, tiếp tục đẩy mạnh đổi mới mô hình tăng trưởng theo hướng chuyển
mạnh theo chiều sâu, gắn với cơ cấu lại nền kinh tế. Để đạt mục tiêu tăng
trưởng nhanh trong dài hạn, đảm bảo sức khỏe cho nền kinh tế có thể vượt qua
những cú sốc từ bên ngoài thì cần tạo ra được những đột phá về năng suất, chất
lượng và hiệu quả và sức cạnh tranh. Muốn vậy cần tiếp tục đẩy mạnh đổi mới mô
hình tăng trưởng kinh tế theo chiều sâu, trên cả bốn khía cạnh:
(1) Từ góc độ đầu vào, phải đẩy mạnh phát triển khoa học công nghệ, đổi mới
sáng tạo, thúc đẩy chuyển đổi số nhằm thay đổi dần cơ cấu các yếu tố đóng góp
cho tăng trưởng theo hướng tăng tỷ trọng TFP, giảm tỷ trọng vốn, lao động giản
đơn, tài nguyên thiên nhiên; (2) Từ góc độ đầu ra, nâng cao trình độ công nghệ
sản xuất nhằm nâng cao năng suất, chất lượng hiệu quả và sức cạnh tranh của
hàng hóa, tham gia sâu và xác lập vị thế cao trong chuỗi giá trị toàn cầu để
thúc đẩy tăng tổng cung, tổng cầu của nền kinh tế; (3) Từ góc độ cấu trúc, cần
cơ cấu lại tổng thể nền kinh tế, trong đó đặc biệt chú trọng hiệu quả của các
yếu tố đóng góp cho tăng trưởng kinh tế; (4) Từ góc độ thể chế, tiếp tục hoàn
thiện cơ chế quản lý các ngành, lĩnh vực, quản lý các loại thị trường, cơ chế phân bổ nguồn lực... Chấm dứt cơ
chế xin cho, thị trường nửa vời đang tồn tại lâu nay, thiết lập sự công bằng,
minh bạch để mọi loại hình doanh nghiệp, mọi khu vực kinh tế cùng phát triển.
Ba là, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đặc
biệt là nhân lực chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu đổi mới sáng tạo và chuyển đổi
số. Đẩy nhanh việc thực hiện đổi mới căn bản, toàn diện và nâng cao chất lượng
giáo dục, đào tạo, trọng tâm là hiện đại hóa và thay đổi phương thức giáo dục,
đào tạo, nhất là đào tạo đại học. Để làm được điều này, trước hết cần đổi mới
bộ máy, nâng tầm đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước về giáo dục và đào tạo. Bên
cạnh đó, các cơ sở đào tạo, đặc biệt là các trường đại học phải chủ động đổi
mới nội dung, mục tiêu, chuẩn đầu ra theo hướng đáp ứng yêu cầu đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Tiếp tục đẩy mạnh việc đào tạo
nguồn nhân lực khoa học và công nghệ, chấn chỉnh việc đào tạo thạc sĩ, tiến sĩ,
phong hàm giáo sư, phó giáo sư đảm bảo thực chất, uy tín đối với xã hội. Chú
trọng hơn nữa việc đào tạo nghề, đặc biệt là đối với khu vực thị trường lao
động phi chính thức và khu vực nông thôn; cơ cấu lại các ngành, lĩnh vực sản
xuất theo hướng tăng nhu cầu sử dụng lao động qua đào tạo, giảm tỷ trọng lao
động giản đơn.
Bốn là, phát triển mạnh mẽ khoa học và công nghệ,
đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số để tạo sự bứt phá về năng suất, chất lượng,
hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Để thực hiện nhiệm vụ này, cần đổi
mới mạnh mẽ quản lý nhà nước đối với lĩnh vực khoa học và công nghệ; đẩy mạnh
phát triển thị trường khoa học và công nghệ theo hướng tạo môi trường pháp lý,
cơ chế động lực nhằm khuyến khích doanh nghiệp tham gia vào thị trường khoa học
và công nghệ; cơ cấu lại một cách triệt để các cơ sở nghiên cứu khoa học và
công nghệ có nguồn gốc công lập theo hướng chuyển sang doanh nghiệp khoa học và
công nghệ hoạt động theo cơ chế thị trường; chấm dứt tình trạng bao cấp trực
tiếp hoặc gián tiếp trong hoạt động nghiên cứu khoa học và công nghệ; tạo cơ
chế khuyến khích đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ đi đầu trong việc thành
lập doanh nghiệp khoa học và công nghệ; đẩy mạnh hợp tác quốc tế về khoa học và
công nghệ đảm bảo nguyên tắc bình đẳng, hiệu quả, cùng có lợi.
Năm là, triển khai hiệu quả các giải pháp phục hồi
kinh tế sau đại dịch. Những nỗ lực của Việt Nam trong bối cảnh đại dịch Covid
-19 bùng phát mạnh, để duy trì được tốc độ tăng trưởng kinh tế dương là đáng
ghi nhận. Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng kinh tế các năm 2020-2021 đã suy giảm
nghiêm trọng và thấp nhất trong vòng 30 năm qua. Thực trạng này dẫn đến việc thực
hiện các mục tiêu của Đại hội XIII khó khăn hơn, cần phải nỗ lực nhiều hơn. Bởi
vậy, phục hồi kinh tế sau đại dịch trở nên khẩn cấp, nhằm lấy lại đà tăng
trưởng cho nền kinh tế trong những năm tiếp theo. Để thực hiện nhiệm vụ này,
cần khẩn trương rà soát lại và hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật về
phục hồi kinh tế sau đại dịch; cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh; khắc
phục sự đứt gãy trong các chuỗi sản xuất, cung ứng và tiêu thụ hàng hóa; đẩy
mạnh hoàn thiện thủ tục đầu tư, thực hiện giải ngân vốn đầu tư công; hỗ trợ các
doanh nghiệp nhỏ, các loại hình hợp tác xã phục hồi sản xuất và tiêu thụ sản
phẩm hàng hóa.
Kết luận
Trở thành quốc gia phát triển, có thu nhập cao là mục tiêu và khát
vọng của toàn dân tộc Việt Nam. Trong những năm tới, toàn Đảng, toàn dân phải
nỗ lực phấn đấu, vượt qua khó khăn khách đẩy mạnh phát triển khoa học và công
nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số; hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa; xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa kiến
tạo phát triển, liêm chính, hành động; đẩy lùi nạn tham nhũng, lãng phí và các
tệ nạn xã hội... để phục hồi tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững, đưa nền
kinh tế vượt qua bẫy thu nhập trung bình, gia nhập nhóm các quốc gia có thu
nhập cao vào năm 2045.
Tài liệu tham khảo:
[1] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1,
Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.
[2] Tổng cục Thống kê, Niên giám
thống kê năm giai đoạn 2011-2021.
[3] Tổng cục Thống kê, Thông cáo báo
chí kết quả điều tra dân số và nhà ở năm 2019, 2020.
[4] Tổng cục Thống kê (2022),
Thông cáo báo chí tình hình lao động Việc làm quý
I, năm 2022.
[5] World Bank (2021), New World Bank country
classifications by income level: 2021-2022, https://blogs.worldbank.org/