Từ khóa:Đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái
về tôn giáo; tín ngưỡng; tôn giáo; Việt Nam.

Các
thế lực thù địch không ngừng đẩy mạnh chống phá
(Ảnh:
https://daihoidang.vn)
Đặt vấn đề
Việt Nam là một quốc gia thống nhất của 54 dân tộc cùng sinh sống. Trong
các dân tộc cùng sinh sống, 53 dân tộc có dân số ít hơn có địa bàn cư trú ở các
khu vực vùng núi, vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới có điều kiện tự nhiên khó khăn,
kinh tế, văn hóa phát triển chậm hơn so với người Kinh (chiếm đa số). Ngoài ra,
Việt Nam còn là quốc gia có sự có mặt và hoạt động của đa số các tôn giáo lớn
trên thế giới như Phật giáo, Công giáo, Tin Lành, Hồi giáo, các tôn giáo nội
sinh như Đạo Cao Đài, Phật Giáo Hòa Hảo, Đạo Tứ Ân Hiếu nghĩa, Bửu Sơn Kỳ hương và nhiều hình thức tín
ngưỡng truyền thống. Sự đa dạng về tộc người và tôn giáo, tín ngưỡng vừa là đặc
điểm đặc trưng của Việt Nam nhưng cũng là những yếu tố rất dễ bị các thế lực
thù địch lợi dụng, kích động nhằm phá hoại khối đoàn kết. Do đó việc nhận diện
và đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái nhằm bảo vệ quan điểm, tư tưởng
của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo là một yêu
cầu cấp thiết, là trách nhiệm của toàn hệ thống chính trị và toàn thể nhân dân.
1. Nhận diện và đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái
về vấn đề tôn giáo ở Việt Nam hiện nay
Thứ nhất, một
số tổ chức, cơ quan nước ngoài như Bộ
Ngoại giao Mỹ (DOS) (2020)[8],Ủy ban Tự do Tôn giáo
Quốc tế Mỹ (USCIRF)[9], Bộ Ngoại giao và Thương Mại Úc (DFAT)[1], Tổ chức Theo dõi Nhân quyền (HRW)[5] thường đưa ra các quan điểm cho rằng, Đảng và Nhà nước
Việt Nam có chính sách hạn chế tự do tín ngưỡng, tôn giáo, hạn chế thực hành
tôn giáo, hay trái ngược với các chuẩn mực nhân quyền quốc tế.
Những quan điểm trên đều mang tính quy chụp, chủ quan, một chiều, đan cài
các ý đồ chính trị của quốc gia phương Tây, hoặc các quốc gia đứng sau, tài trợ
cho những tổ chức trên. Trong những năm qua, đặc biệt là giai đoạn từ sau đổi
mới năm 1986 đến nay, Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn có quan điểm, chủ trương
và chính sách nhất quán tôn trọng và bảo vệ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và
không tín ngưỡng, tôn giáo của một bộ phận quần chúng nhân dân, được thể hiện cụ thể trong các văn kiện của Đảng Cộng sản Việt Nam qua các kỳ Đại hội, đặc biệt là các nghị quyết chuyên đề về tôn giáo. Nghị
quyết số 24-NQ/TW ngày 16/10/1990 về
“Tăng cường công tác tôn giáo trong tình hình mới” xác định: Tín ngưỡng, tôn
giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân; tôn giáo là vấn đề còn tồn
tại lâu dài; đạo đức tôn giáo có nhiều điều phù hợp với công cuộc xây dựng xã
hội mới.
Sau 13 năm thực hiện Nghị quyết số 24, nhằm tiếp tục nâng cao, hoàn thiện
các quan điểm về tôn giáo và công tác tôn giáo, ngày 12/3/2003, Ban Chấp hành
Trung ương Đảng đã ban hành Nghị quyết số 25-NQ/TW về “Công tác tôn giáo”. Về
chính sách, pháp luật của Nhà nước đối với tín ngưỡng, tôn giáo, Điều 24,
Chương II, Hiến pháp 2013 quy định: "Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng,
tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo bình đẳng trước
pháp luật; Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; Không
ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo
để vi phạm pháp luật". Cụ thể hóa quy định của Hiến pháp, Luật Tín ngưỡng,
tôn giáo số 02/2016/QH14 (được Quốc hội khóa XIV, kỳ họp thứ hai thông qua ngày
18/11/2016); Luật này tiếp tục được quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành
bằng Nghị định số 162/2017/NĐ-CP ngày 30/12/2017 quy định chi tiết một số điều
và biện pháp thi hành Luật Tín ngưỡng, tôn giáo. Những điều đó đã khẳng định,
các quan điểm, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước Việt Nam
đều ghi nhận, bảo vệ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và không tín ngưỡng, tôn
giáo và xem đây là một nội dung cơ bản của quyền con người, điều này hoàn toàn
phù hợp với quy định trong các công ước quốc tế mà Việt Nam đã tham gia. Cụ
thể, tại Điều 18 của Công ước quốc tế về Quyền Dân sự, Chính trị
(ICCPR) 1966 và Điều 18 của Tuyên ngôn quốc tế về Quyền Con người 1948. Các văn
kiện quốc tế không chỉ quy định các quyền con người, trong đó có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, mà còn
quy định cụ thể giới hạn của quyền; Khoản 3, Điều 18, ICCPR quy định: “Quyền tự
do bày tỏ tôn giáo hoặc tín ngưỡng chỉ có thể bị giới hạn bởi pháp luật và khi
sự giới hạn đó là cần thiết để bảo vệ an ninh, trật tự công cộng, sức khoẻ hoặc
đạo đức xã hội, hoặc để bảo vệ các quyền và tự do cơ bản của người khác”[6]. Như vậy, trong các
trường hợp cụ thể, quyền con người, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo có thể bị
giới hạn; các quốc gia thành viên cụ thể hóa những quy định này vào hiến pháp
và pháp luật quốc gia về mức độ, nội dung, phạm vi giới hạn theo các trường hợp
cụ thể và yêu cầu của quốc gia.
Thứ hai, một
số tổ chức trên thường lấy một số trường hợp cá nhân công dân Việt Nam vi phạm
pháp luật và bị xét xử theo quy định của pháp luật để vu cáo Việt Nam đàn áp
tôn giáo, hạn chế, phân biệt đối xử với người có tôn giáo. Một số trường
hợp như một số cá nhân thuộc nhóm Ân Đàn Đại Đạo, hay cá nhân A Đào (A Ma Dũng)
và một số cá nhân khác trong Báo cáo tự do tôn giáo quốc tế năm 2020 Việt Nam của Bộ Ngoại giao Mỹ[8], Báo cáo hàng năm 2021 của Ủy ban Về tự do tôn giáo quốc
tế Mỹ[9], Báo cáo thế giới 2020 của Tổ chức Theo
dõi Nhân quyền[5], đều là những cá nhân vi phạm pháp luật
và đã bị xử lý theo các quy định của pháp luật Việt Nam. Những cá nhân này bị
xử lý không phải vì bất kỳ một lý do nào liên quan đến quyền tự do thực hành
tôn giáo, thể hiện niềm tin tôn giáo như chứng dẫn của các bản báo cáo trên.
Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, đều phải tuân thủ các quy định của
Hiến pháp và pháp luật, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mọi người, của
công dân được tôn trọng, bảo vệ nhưng bất kỳ hành vi nào vi phạm đều bị xử lý
theo quy định.
Việc xây dựng và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về tín ngưỡng, tôn
giáo ngày một đầy đủ và phù hợp hơn với quy định trong các văn kiện quốc tế về
Quyền Con người mà Việt Nam là thành viên đã giúp Việt Nam đạt được nhiều thành
tựu trong thực hiện chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo được cộng
đồng quốc tế ghi nhận. Số lượng tín đồ, các tổ chức tôn giáo được công nhận
hoạt động ngày càng tăng; đồng thời, các thủ tục hành chính ngày càng đơn giản
hóa, rút ngắn thời gian, tạo điều kiện thuận lợi cho tín đồ, các tổ chức tôn
giáo sinh hoạt tôn giáo, tổ chức các hoạt động tôn giáo theo quy định của pháp
luật. Theo số liệu Tổng điều tra Dân số và Nhà ở năm 2019, trên lãnh thổ Việt
Nam có 16 tôn giáo chính thức hoạt động với 13,2 triệu người theo tôn giáo,
chiếm 13,7% tổng dân số cả nước. Trong đó, số người theo Công giáo là đông nhất
với 5,9 triệu người, chiếm 44,6% tổng số người theo tôn giáo và chiếm 6,1% tổng
dân số cả nước. Tiếp đến là số người theo Phật giáo với 4,6 triệu người, chiếm
35% tổng số người theo tôn giáo và chiếm 4,8% dân số cả nước[2, tr.54].
Thuộc các tôn giáo chính thức hoạt động có 43 tổ chức/pháp môn tôn giáo đã được
công nhận hoặc được cấp Giấy chứng nhận Đăng ký hoạt động tôn giáo[4, tr.1-2]. Các
cơ sở tín ngưỡng, tôn giáo được đầu tư ngày càng tăng từ sự đóng góp từ cộng
đồng tín đồ, người hảo tâm, các thủ tục hành chính về sử dụng đất đai tôn giáo,
in, phát hành kinh sách, đào tạo chức sắc, xây dựng, trùng tu, tôn tạo các công
trình tín ngưỡng, tôn giáo ngày càng được hoàn thiện, đơn giản hóa, đáp ứng nhu
cầu hoạt động của các tổ chức tôn giáo; nhu cầu về tinh thần, tâm linh, tôn
giáo của một bộ phận quần chúng nhân dân.
2. Một số giải pháp tăng cường đấu tranh chống sự lợi dụng
vấn đề tôn giáo
2.1. Nhóm giải pháp
trên bình diện quốc tế
Thứ nhất, cần
đẩy mạnh tuyên truyền chủ trương, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước Việt Nam tới các quốc gia bè bạn quốc tế hơn nữa nhằm làm cho bè, bạn
quốc tế hiểu rõ về chủ trương, chính sách của Đảng hơn Nhà nước Việt Nam về
quyền con người nói chung, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo nói riêng, qua đó
có được sự đồng thuận, ủng hộ mạnh mẽ từ các quốc gia là đối tác, từ cộng đồng
quốc tế tiến bộ. Hoạt động tuyên truyền cần gắn với các hoạt động đối ngoại,
với các trụ cột như đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước, đối ngoại Nhân dân; từ
đó tạo lập và giữ vững môi trường hòa bình, ổn định huy động tối đa các nguồn
lực bên ngoài phục vụ phát triển, bảo vệ vững chắc chủ quyền và toàn vẹn lãnh
thổ, giữ vững ổn định, chính trị, nâng cao vị thế, uy tín của đất nước trên
trường quốc tế.
Thứ hai,
tiếp tục thể chế hóa những quy định trong các công ước quốc tế mà Việt Nam đã
tham gia. Trước hết, cần tiếp tục xây dựng Nhà nước pháp quyền, thúc đẩy cải
cách tư pháp, củng cố thể chế, chính sách, pháp luật về quyền con người phù hợp
với các công ước quốc tế về Quyền Con người mà Việt Nam là thành viên; bảo đảm
sự tham gia của người dân trong quá trình xây dựng văn bản pháp luật. Đối với
vấn đề tôn giáo, là thành viên tích cực, có trách nhiệm của Liên hiệp quốc và
các tổ chức quốc tế, trên cơ sở đặc điểm, điều kiện và con đường phát triển của
mình.
Thứ ba,
tăng cường tham gia các hoạt động quốc tế, thể hiện vai trò là thành viên tích
cực và có trách nhiệm của Liên hiệp quốc và các công ước quốc tế, nhất là về
lĩnh vực quyền con người, trong đó có quyền tự do tôn giáo. Cần tiếp tục đẩy
mạnh thực hiện Chỉ thị số 25-CT/TW, ngày 08/8/2018 của Ban Bí thư “Về đẩy mạnh
và nâng tầm đối ngoại đa phương đến năm 2030”; thực hiện tốt vai trò, trách
nhiệm Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc; thực hiện nhất
quán chính sách về bảo vệ và thúc đẩy quyền con người, coi trọng cơ chế UPR
(Universal Periodic Review - Rà soát định kỳ phổ quát) của Hội đồng Nhân quyền
(United Nations Human Rights Council - HRC) và các khuyến nghị UPR mà Việt Nam
đã chấp thuận[3, tr.5], từ đó phát huy vai trò dẫn dắt, đề xuất ý tưởng của
Việt Nam tại các cơ chế đa phương, qua đó góp phần thể hiện vai trò của Việt
Nam trong cộng đồng quốc tế.
2.2. Nhóm giải pháp
trong nước
Thứ nhất,
tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục quan điểm, chủ trương của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về tôn giáo, tín ngưỡng, về dân tộc
sâu rộng trong quần chúng nhân dân. Trước hết, cần đổi mới nội dung, phương
thức tuyên truyền, phổ biến, đặc biệt là cần đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông
tin vào hoạt động tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật về tín ngưỡng,
tôn giáo. Đối với cấp xã vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, cần linh hoạt các
phương thức tuyên truyền, phổ biến phù hợp với đặc điểm về ngôn ngữ, phong tục,
tập quán và điều kiện tự nhiên của địa phương, của cộng đồng các dân tộc.
Thứ hai,
tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy đảng đối với công tác tôn giáo.
Mỗi cấp ủy đảng, theo phân cấp, phân quyền, chức năng, nhiệm vụ của mình cần
làm tốt công tác lãnh đạo, chỉ đạo chính quyền và cấp ủy cấp dưới thực hiện tốt
các nội dung công tác tôn giáo. Trước hết là tăng cường công tác kiểm tra, giám
sát thực hiện chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo nhằm bảo đảm quyền
tự do tín ngưỡng, tôn giáo và không tín ngưỡng, tôn giáo của một bộ phận quần
chúng nhân dân, bảo đảm các tôn giáo bình đẳng, các tôn giáo đoàn kết trong
khối đại đoàn kết toàn dân, các tôn giáo hoạt động bình thường theo quy định
của Hiến pháp và pháp luật; tiếp đến, tăng cường rà soát văn bản quy phạm pháp
luật và văn bản chứa đựng quy phạm pháp luật liên quan đến tín ngưỡng, tôn giáo
nhằm hệ thống hóa văn bản pháp luật phù hợp với yêu cầu mới của thực tiễn.
Thứ ba, đẩy
mạnh phát triển kinh tế - xã hội, giáo dục, an ninh, quốc phòng. Cần tập trung
thực hiện các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội từ nay đến năm 2030, đặc biệt
là Kế hoạch hành động quốc gia với 17 mục tiêu phát triển bền vững của Việt
Nam (VSDGs) và 115 mục tiêu cụ thể
phù hợp với điều kiện và ưu tiên quốc gia[3, tr.9]. Tiếp tục duy trì tăng trưởng kinh tế, tạo việc làm, chăm
sóc y tế, giáo dục, bảo đảm nước sạch, nhà ở cho người dân, đặc biệt là người
nghèo, người dân tộc thiểu số ít người, người cư trú ở khu vực vùng sâu, vùng
xa, vùng biên giới.
Thứ tư,
thực hiện tốt công tác quản lý nhà nước về tôn giáo. Ban Tôn giáo Chính phủ cần
tham mưu cho Chính phủ tiếp tục hoàn thiện các quy phạm pháp luật về tôn giáo,
đặc biệt là xử lý vi phạm liên quan đến tín ngưỡng, tôn giáo; đồng thời ban
hành các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn Sở Nội vụ triển khai có hiệu quả chính
sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo. Sở Nội vụ tham mưu cho uỷ ban nhân dân
cấp tỉnh hướng dẫn và tạo điều kiện cho các tổ chức, cá nhân, các điểm, nhóm
tôn giáo tổ chức các lễ trọng của tôn giáo, tổ chức các lớp bồi dưỡng, mục vụ,
đại hội bồi linh, cuộc lễ ngoài cơ sở tôn giáo, thông báo các hoạt động tôn
giáo bổ sung theo quy định; xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm pháp luật về
tín ngưỡng, tôn giáo. Để làm tốt công tác quản lý nhà nước về tôn giáo cần tăng
cường công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức làm công tác tôn giáo. Sở
Nội vụ tiếp tục tham mưu cho uỷ ban nhân dân cấp tỉnh đề nghị Ban Tôn giáo
Chính phủ tiếp tục mở các lớp bồi dưỡng cho cán bộ, công chức làm công tác tôn
giáo cấp tỉnh, huyện, xã; mở các khóa bồi dưỡng chuyên sâu về kiến thức tôn
giáo, đặc biệt là nghiệp vụ quản lý, xử lý, giải quyết đối với hoạt động của
các tà đạo, đạo lạ và tổ chức mới nổi liên quan đến tôn giáo.
Thứ năm,
tăng cường công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, đấu tranh chống các
quan điểm sai trái, thù địch phá hoại khối đoàn kết dân tộc, đoàn kết tôn giáo,
chống phá cách mạng Việt Nam. Quan tâm, thực hiện thường xuyên công tác điều
tra cơ bản, nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn trong thực hiện chính sách
tín ngưỡng, tôn giáo nhằm phát hiện những hạn chế, bất cập trong quá trình thực
hiện các chính sách theo điều kiện thực tiễn của địa phương, từ đó có những đề
xuất trong điều chỉnh, bổ sung các chính sách đối với Trung ương và các cơ quan
chuyên môn cấp trên.
Các cơ quan quản lý nhà nước về tôn giáo nói riêng, toàn hệ thống chính trị
nói chung, cần tăng cường công tác nắm tình hình từ đó đề ra các phương thức
đấu tranh ngăn chặn hoạt động truyền đạo trái pháp luật, lợi dụng tôn giáo vì
mục đích chính trị như tuyên truyền thành lập “Nhà nước Mông”, “Nhà nước Đề
ga”, kích động gây mất đoàn kết dân tộc và an ninh chính trị, trật tự an toàn
xã hội.
Kết luận
Tự do tín ngưỡng, tôn giáo và không tín ngưỡng, tôn giáo luôn là chính sách
nhất quán của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn tạo
điều kiện để các tôn giáo được bình đẳng, các tôn giáo đoàn kết, các tôn giáo
hoạt động theo quy định của Hiến pháp và pháp luật. Những quy định trong Hiến
pháp năm 2013 và Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016 của Nhà nước Việt Nam là
hoàn toàn phù hợp với những quy định trong các văn kiện quốc tế về Quyền Con
người, trong đó có quyền tự do tôn giáo mà Việt Nam đã tham gia; đồng thời, thể
hiện cam kết của Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn là thành viên có trách nhiệm,
tích cực của các tổ chức quốc tế và khu vực.
Tài liệu tham khảo:
[1]
Australian Government Department of Foreign Affairs and Trade (2019), Country Information Report Vietnam.
[2] Ban Chỉ
đạo Tổng điều tra Dân
số và Nhà ở Trung ương (2019), Kết quả tổng
điều tra dân số và nhà ở thời điểm 0 giờ ngày 01 tháng 4 năm 2019,
Nxb. Thống kê, Hà Nội.
[3] Bộ Ngoại
giao (2018), Báo cáo quốc gia về bảo vệ và thúc đẩy quyền con
người ở Việt Nam theo cơ chế rà soát định kỳ phổ quát (UPR) chu kỳ III,
Hà Nội.
[4] Bộ Nội vụ (2020), Công văn số 6955/BNV-TGCP ngày 28 tháng 12 năm 2020 về Danh mục các tổ chức tôn giáo, tổ chức được cấp chứng nhận đăng ký hoạt động
tôn giáo tính đến tháng 12/2020, Hà Nội.
[5] Human
Rights Watch (2020), World
Report 2020, https://www.hrw.org
[6] Office of the United Nations High Commissioner
(1966), International Covenant on Civil and
Political Rights - ICCPR.
[7] Office
of the United Nations High Commissioner
(1966), International Covenant on Economic, Social and Cultural Rights – ICESCR.
[8] United States Department of State (2020), Vietnam
2020 International Religious Freedom Report, https://www.state.gov
[9] United
States Commission on International Religious Freedom (2021), Annual Report 2021, https://www.uscirf.gov