Từ khóa: Du lịch cộng đồng; sinh kế bền vững; vùng Tây Bắc.
Lễ cấp sắc của người Dao ở tỉnh Lai Châu hấp dẫn
du khách
(Ảnh: https://nhandan.vn)
Đặt vấn đề
Vùng Tây Bắc Việt Nam gồm 6 tỉnh Hòa Bình, Sơn La, Điện Biên, Lai Châu, Lào
Cai, Yên Bái. Vùng Tây Bắc sở hữu nguồn tiềm năng du lịch rất lớn với thiên
nhiên kỳ vĩ, văn hóa đặc sắc và lịch sử hào hùng. Thực tiễn phát triển du lịch ở các
địa phương vùng Tây Bắc thời gian qua cho thấy, du lịch cộng đồng (DLCĐ)đang được coi là loại hình du lịch mang
lại nhiều lợi ích góp phần tạo sinh kế bền vững cho người dân địa phương. Tuy
nhiên, những bước phát triển của DLCĐ Tây Bắc so với định hướng chiến lược và
tiềm năng ở các tỉnh vùng Tây Bắc hiện nay còn bộc lộ những hạn chế, bất cập
nhất định: Phát triển DLCĐ chưa
tương xứng với tiềm năng; công tác quảng bá, xúc tiến, đầu tư phát triển du
lịch chưa đạt hiệu quả mong đợi; chất lượng nguồn nhân lực phục vụ du khách còn
hạn chế; sự phối hợp giữa chính quyền địa phương và các đơn vị tổ chức DLCĐ
chưa chặt chẽ, bản sắc văn hóa đang dần bị mai một, môi trường sinh thái bị ảnh
hưởng bởi hoạt động du lịch không lành mạnh... Thực tiễn đó cho thấy, việc
nghiên cứu cung cấp luận cứ trên cả phương diện lý luận và thực tiễn nhằm phát
triển DLCĐ tạo sinh kế bền vững ở các tỉnh vùng Tây Bắc Việt Nam trong thời
gian tới là hết sức cần thiết.
1. Một số vấn đề lý luận về phát triển du lịch cộng đồng
tạo sinh kế bền vững
Sinh kế chính là hoạt động kiếm sống của con người thông qua việc sử dụng
các nguồn lực bao gồm: Nguồn nhân lực, nguồn lực tự nhiên, nguồn lực vật chất,
nguồn lực tài chính và nguồn lực xã hội. Khi hoạt động sinh kế thích ứng, hoặc
tránh được các tác động tiêu cực từ môi trường dễ bị tổn thương, đồng thời bảo
đảm duy trì, phát triển được các nguồn lực trong cả hiện tại và tương lai thì
được coi là sinh kế bền vững[1].
Ở Việt Nam, đối với vùng đồng bào dân tộc thiểu số, công tác giảm nghèo
được thực hiện thông qua việc xây dựng mô hình sinh kế bền vững là nhiệm vụ cấp
thiết. Trong các mô hình sinh kế cho đồng bào dân tộc thiểu số ở Việt Nam hiện
nay, DLCĐ nổi lên như một mô hình kiểu mẫu nhằm cải thiện sinh kế, tạo nguồn
thu nhập bền vững và cơ hội việc làm cho đồng bào dân tộc thiểu số. Theo quy
định tại Khoản 15 Điều 3 Luật Du lịch số 09/2017/QH14 ngày 19 tháng 6 năm 2017
(có hiệu lực từ ngày 01/01/2018), “Du lịch cộng đồng là loại hình du lịch được
phát triển trên cơ sở các giá trị văn hóa của cộng đồng, do cộng đồng dân cư
quản lý, tổ chức khai thác và hưởng lợi”[4].
Phát triển DLCĐ tạo sinh kế bền vững mang lại những lợi ích sau:
Một là, phát
triển hoạt động du lịch có sự thúc đẩy tham gia tích cực của người dân địa
phương. Cộng đồng địa phương là người “cung ứng” từ các giá trị tài nguyên du
lịch để “hỗ trợ” du khách có cơ hội tìm hiểu và nâng cao nhận thức của mình khi
tiếp cận hệ thống tài nguyên du lịch tại không gian sinh sống của cộng đồng địa
phương. Cộng đồng địa phương ngày càng được tăng cường về khả năng tổ chức, vận
hành và thực hiện các hoạt động, phát triển các sản phẩm du lịch phục vụ du
khách. Từ đó, cộng đồng ngày càng phát huy vai trò làm chủ của mình.
Hai là, phát
triển hoạt động du lịch phải thu hút được cộng đồng địa phương và đem lại lợi
ích, tạo cơ hội việc làm và cải thiện điều kiện sống của họ. Du khách là nhân
tố bên ngoài, là tiền đề mang lại lợi ích kinh tế và sẽ có những tác động nhất
định kèm theo việc thụ hưởng các giá trị tài nguyên du lịch (về môi trường sinh
thái tự nhiên và nhân văn) khi đến với một cộng đồng địa phương cụ thể. Việc
phát triển du lịch tại cộng đồng sẽ nhận được lợi ích về mặt kinh tế, giao lưu
văn hóa, quảng bá hình ảnh địa phương, mở rộng thị trường các sản phẩm phục vụ
du khách của cộng đồng. Ngoài ra, người dân địa phương được mở rộng tầm hiểu
biết về đặc điểm tính cách của du khách cũng như có cơ hội nắm bắt các thông
tin, tri thức bên ngoài do du khách mang lại.
Ba là, phát
triển DLCĐ gắn liền với phát triển bền vững. Hiện nay, DLCĐ đang được coi là
loại hình du lịch mang lại nhiều lợi ích cho người dân địa phương, bên cạnh lợi
ích kinh tế thì DLCĐ còn giúp người dân bảo vệ tài nguyên môi trường sinh thái,
bảo tồn và phát huy những nét văn hóa độc đáo của địa phương.
Như vậy, DLCĐ vừa khai thác vừa tác động lên các nguồn lực sinh kế của cư
dân địa phương. Một trong những tác động tích cực đáng kể của loại hình du lịch
này là góp phần tạo ra sinh kế mới hoặc chuyển đổi từ sinh kế nông nghiệp, sản
xuất lâm nghiệp, sản xuất tiểu thủ công nghiệp sang dịch vụ du lịch và các hoạt
động phi nông nghiệp.
2. Thực trạng phát triển du lịch cộng đồng tạo sinh kế bền vững ở các
tỉnh vùng Tây Bắc và một số vấn đề đặt ra
2.1. Thực trạng phát
triển du lịch cộng đồng tạo sinh kế bền vững ở các tỉnh vùng Tây Bắc
Trong nhiều năm qua, kinh tế - xã hội (KT-XH) ở vùng Tây Bắc đã
có sự phát triển, hạ tầng được cải thiện và đời sống của người dân được nâng
cao hơn, theo đó du lịch nói chung và DLCĐ nói riêng cũng đã có bước phát triển
khả quan, biểu hiện ở sự tăng trưởng những chỉ tiêu về doanh thu du lịch lữ hành, số lượt khách vận chuyển.
Bảng 1: Doanh thu du lịch lữ hành theo giá hiện hành của
các tỉnh vùng Tây Bắc, giai đoạn 2017-2021
Đơn vị
tính: Tỷ đồng
Năm
|
2017
|
2018
|
2019
|
2020
|
2021
|
Lào Cai
|
162,90
|
179,10
|
189,00
|
93,60
|
32,70
|
Yên Bái
|
1,50
|
2,70
|
3,00
|
1,50
|
0,70
|
Điện
Biên
|
..
|
..
|
..
|
1,30
|
0,80
|
Lai
Châu
|
2,20
|
2,20
|
2,40
|
1,50
|
1,00
|
Sơn La
|
14,00
|
14,60
|
15,00
|
14,80
|
6,60
|
Hòa
Bình
|
2,00
|
2,20
|
2,40
|
1,50
|
1,20
|
Toàn
Vùng*
|
182,6
|
200,8
|
211,8
|
114,2
|
43
|
Cả nước
|
36.111,80
|
40.371,20
|
44.669,90
|
16.492,00
|
6.596,19
|
Tỷ lệ so với cả nước (%) **
|
0,51
|
0,50
|
0,47
|
0,69
|
0,65
|
Nguồn:
https://www.gso.gov.vn và tính toán của tác giả (*, **).
Theo số liệu bảng 1, doanh thu du lịch lữ hành trên địa bàn các tỉnh Tây
Bắc từ năm 2017 đến năm 2019 đều tăng, riêng năm 2020 và năm 2021 có sự giảm
đáng kể do ảnh hưởng của dịch bệnh COVID19. Mặc dù so với cả nước thì doanh thu
du lịch lữ hành của các tỉnh vùng Tây Bắc chỉ chiếm tỷ lệ rất nhỏ dưới 1%, tuy
nhiên, một tín hiệu đáng mừng là tỷ lệ này có xu hướng tăng trong thời gian gần
đây. Hiện nay, du khách đến vùng Tây Bắc có mức chi tiêu còn thấp, chủ yếu do
các dịch vụ chất lượng chưa cao và chưa thực sự hấp dẫn. Những số liệu trên cho
thấy, phát triển du lịch ở vùng Tây Bắc nhìn chung còn ở mức thấp so với nhiều
khu vực khác trên cả nước.
Bảng 2: Số lượt hành khách vận chuyển của các tỉnh vùng Tây Bắc, giai
đoạn 2017-2021
Đơn vị tính: Triệu lượt khách
Năm
|
2017
|
2018
|
2019
|
2020
|
2021
|
Lào Cai
|
6,80
|
7,63
|
8,80
|
3,40
|
3,30
|
Yên Bái
|
8,10
|
8,51
|
8,70
|
8,20
|
6,40
|
Điện
Biên
|
1,30
|
1,56
|
1,60
|
1,30
|
1,00
|
Lai
Châu
|
1,30
|
1,43
|
1,70
|
1,40
|
1,10
|
Sơn La
|
3,80
|
4,40
|
4,80
|
3,60
|
2,90
|
Hòa
Bình
|
5,60
|
5,94
|
7,30
|
3,60
|
3,40
|
Toàn Vùng*
|
26,9
|
29,47
|
32,9
|
21,5
|
18,1
|
Cả nước
|
3.852,10
|
4.233,69
|
4.713,60
|
3.413,20
|
2.530,10
|
Tỷ lệ so với cả nước (%) **
|
0,70
|
0,70
|
0,70
|
0,63
|
0,72
|
Nguồn: https://www.gso.gov.vn và tính toán của tác giả (*, **).
Theo số liệu bảng 2, tương tự như đối với doanh thu du lịch lữ hành thì số lượt khách vận chuyển của các tỉnh Tây Bắc có xu
hướng tăng qua các năm, riêng năm 2020 và 2021 do ảnh hưởng của dịch bệnh 19
nên số lượt khách giảm đáng kể.
Những năm qua, cộng đồng địa phương các tỉnh vùng Tây Bắc đã tham gia cung
cấp đa dạng các loại hình sản phẩm DLCĐ cho khách du lịch, điển hình là:
- Tham quan, tìm hiểu bản làng và văn hóa truyền thống dân tộc: Đây là một
trong những sản phẩm du lịch đặc trưng của vùng Tây Bắc trên cơ sở khai thác
các không gian văn hóa truyền thống gắn với các cảnh quan tự nhiên;
- Lưu trú tại các homestay: Dịch vụ này rất phổ biến ở vùng Tây Bắc. Khách
du lịch thường lựa chọn ở tập thể trong những ngôi nhà sàn của người dân. Loại
nhà sàn phổ biến nhất là của dân tộc Thái;
- Thưởng thức ẩm thực địa phương (các món ẩm thực của các dân tộc Mường,
Thái, Tày, Dao...) với những nét đặc trưng, khác biệt hẳn so với các vùng khác
trên cả nước;
- Hoạt động trải nghiệm cuộc sống cộng đồng: Du khách có cơ hội làm những
công việc thường ngày của người dân địa phương như câu cá trong hồ, trồng hoa,
trồng lúa với bà con trong bản (bản Hụm, thành phố Sơn La); trồng,
chăm sóc và thu hoạch lúa nước, thu hoạch ngô trên nương (bản Mện, Điện Biên);
dệt vải, làm cùng một số công việc đồng áng tùy theo mùa vụ như hái mận, hái
chè, vắt sữa bò, trồng và chăm sóc hoa... (bản Áng, Mộc Châu - Sơn La)...
Với sự tăng trưởng
lượng khách du lịch đến các điểm DLCĐ, phát triển DLCĐ ở các tỉnh vùng Tây Bắc
đã có những đóng góp nhất định đến phát triển KT-XH và nâng cao đời sống của
người dân trên địa bàn, cụ thể:
- Đóng góp
vào tăng trưởng kinh tế: Sự phát triển DLCĐ ở các tỉnh Tây Bắc đã có đóng góp
nhất định vào tổng thu du lịch của địa phương, trong đó Lào Cai là địa phương
có tỷ lệ đóng góp của tổng thu từ du lịch cao nhất và thấp nhất là Điện Biên
(Xem số liệu bảng 1).
- Tạo ra thu nhập
và việc làm, góp phần xoá đói, giảm nghèo cho người dân địa phương: Sự phát
triển DLCĐ vùng Tây Bắc những năm qua đã góp phần tăng thu nhập và đóng góp vào
nỗ lực xoá đói, giảm nghèo của địa phương. Tại Bản Lác (Mai Châu, Hoà Bình),
đến nay có gần 80 hộ đăng ký kinh doanh dịch vụ du lịch. Cụ thể bao gồm loại
hình: Đón tiếp khách ngủ, nghỉ, ăn uống, dệt thổ cẩm, hàng thủ công truyền thống… nhờ đó, tạo được đa dạng hoạt
động sinh kế cho cộng đồng địa phương, tăng nguồn thu nhập cho người lao động[3].
Bên cạnh những đóng góp vào tăng trưởng kinh tế, tạo ra thu nhập và việc
làm, góp phần xoá đói, giảm nghèo cho người dân địa phương, sự phát triển DLCĐ
có những đóng góp nhất định vào bảo vệ tài nguyên, bảo tồn và phát huy giá trị
văn hóa bản địa. Sự phát triển của DLCĐ đã đem lại cơ hội phục hồi, phát triển
các nghề truyền thống; khôi phục các phong tục và các nét sinh hoạt văn hóa cộng
đồng.
Tuy nhiên, do đặc thù về địa lý, địa hình núi cao, trải rộng, điều kiện
giao thông đi lại giữa các điểm đến khó khăn và trình độ phát triển du lịch
chưa đồng đều trong vùng, hướng khai thác sản phẩm còn trùng lắp chưa mang tính
đặc thù, hạn chế trong khai thác tài nguyên du lịch nên DLCĐ các tỉnh vùng Tây
Bắc thời gian qua mới chỉ phát triển tập trung vào một số khu vực, địa phương
đã có “tiếng” trên bản đồ du lịch dẫn đến tình trạng quá tải vào mùa cao điểm
trong khi nhiều địa bàn trong vùng mặc dù có tiềm năng nhưng chưa thu hút được
du khách ảnh hưởng tới phát triển du lịch bền vững[2]. Mặc dù có nhiều sản
phẩm nhưng các sản phẩm DLCĐ ở các tỉnh vùng Tây Bắc nhìn chung còn mang tính
đại trà, chưa thực sự gắn với bản sắc của người dân địa phương, dẫn đến việc
không tạo được điểm nhấn để thu hút khách du lịch.
2.2. Một số vấn đề đặt
ra
Thứ nhất, công
tác quy hoạch, định hướng và hệ thống chính sách hỗ trợ cụ thể cho cộng đồng
chưa được quan tâm đúng mức nên nhiều nơi trên địa bàn các tỉnh Tây Bắc vẫn còn
tình trạng phát triển DLCĐ theo hướng tự phát.
Thứ hai, hệ
thống hạ tầng giao thông chưa đồng bộ. Hầu hết các tuyến, điểm DLCĐ chưa được
đầu tư hoàn thiện hạ tầng du lịch thiết yếu theo quy định như: Đường giao
thông, bãi đỗ xe, hệ thống cấp thoát nước, nhà vệ sinh công cộng, điểm dừng
chân ngắm cảnh và giới thiệu sản phẩm địa phương, hệ thống biển báo và biển chỉ
dẫn du lịch, nhà du lịch cộng đồng.... gây khó khăn cho du khách và các đơn vị
lữ hành trong tiếp cận điểm đến và phục vụ du khách tại điểm đến.
Thứ ba, việc
xây dựng sản phẩm cho DLCĐ còn đơn điệu chưa tạo ra nhiều sản phẩm phục vụ đáp
ứng nhu cầu của du khách dẫn đến sự lưu trú của du khách rút ngắn làm giảm
nguồn thu của cư dân địa phương. Các nghề thủ công truyền thống mặc dù bước đầu
đã được khai thác phục vụ du lịch nhưng mới chỉ dừng lại ở những mô hình thí
điểm nên chưa tạo được sức lan tỏa vì vậy cần được đầu tư nhân rộng để nhiều
cộng đồng các dân tộc thiểu số khác cũng có cơ hội tham gia và phát triển các
ngành nghề truyền thống của mình, tạo sản phẩm, tăng thu nhập.
Thứ tư,
nguồn nhân lực làm việc trong lĩnh vực DLCĐ ngày càng tăng nhưng chất lượng rất
hạn chế vì chưa được đào tạo chuyên môn nghiệp vụ.
Thứ năm,
nguồn vốn hỗ trợ cho các hộ dân phát triển DLCĐ còn khá hạn chế. Vốn hỗ trợ từ
ngân sách nhà nước và từ các tổ chức đối với DLCĐ chủ yếu tập trung vào đào tạo
tập huấn trong khi người dân cần có thêm nguồn lực tài chính để đầu tư phát
triển loại hình DLCĐ nhằm làm phong phú dịch vụ, đáp ứng nhu cầu khám phá và
trải nghiệm của du khách. Do vậy, các hộ gia đình thu nhập thấp ít có cơ hội
tham gia vào các hoạt động DLCĐ do không đủ nguồn lực tài chính để đầu tư.
Thứ sáu, vấn
đề xử lý nước thải, rác thải, đặc biệt là nước thải và rác thải sinh hoạt tại
các điểm du lịch chưa được quan tâm đúng mức dẫn đến tình trạng ô nhiễm môi
trường và gây ra nhiều phản cảm đối với du khách.
Thứ bảy, vai
trò và sự phối hợp của chính quyền trong hỗ trợ cho hình thành mối quan hệ liên
kết giữa các chủ thể tham gia hoạt động cung ứng dịch vụ phục vụ cho DLCĐ chưa
hiệu quả, công tác quản lý chưa chặt chẽ dẫn đến nhiều nơi phát triển DLCĐ gây
tổn hại đến môi trường và xuất hiện những dịch vụ biến tướng, gây tác động xấu
đến những giá trị văn hóa bản địa truyền thống.
3. Một số giải pháp thúc đẩy phát triển du lịch cộng đồng
tạo sinh kế bền vững ở các tỉnh Tây Bắc trong thời gian tới
Thứ nhất, quan
tâm đến công tác quy hoạch, định hướng phát triển DLCĐ của địa phương, đặc biệt
chính quyền địa phương cần xây dựng đề án riêng về phát triển DLCĐ thay vì lồng
ghép trong các quy hoạch. Gắn đề án phát triển du lịch của các địa phương với
Chiến lược phát triển du lịch quốc gia nói chung và chiến lược phát triển du
lịch của các tỉnh trong vùng nói riêng.
Thứ hai, sớm
đầu tư, xây dựng hệ thống đường giao thông kết nối các điểm DLCĐ với hệ thống
giao thông nội tỉnh được thông suốt và thuận lợi. Đặc thù của các điểm DLCĐ
trên địa bàn các tỉnh vùng Tây Bắc là ở vùng sâu, vùng xa nên việc di chuyển
của du khách chưa được thuận tiện, vì vậy cần phải được ưu tiên đầu tư để tạo
điều kiện cho du khách dễ dàng tiếp cận với các địa điểm du lịch.
Thứ ba, cần
có chính sách ưu đãi, hỗ trợ phát triển đối với các chủ thể kinh doanh DLCĐ
như: Chính sách hỗ trợ sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ, sản xuất nông sản sạch,
nông sản bản địa để phục vụ cho các điểm DLCĐ... qua đó góp phần đa dạng hóa
các sản phẩm du lịch trên địa bàn.
Thứ tư, có
chính sách thu hút đầu tư đào tạo nâng cao năng lực cho cộng đồng các địa
phương, tập trung phát triển những kỹ năng và kiến thức căn bản về du lịch, quản
lý kinh doanh; nâng cao các kỹ năng nghề cho người dân.
Thứ năm, cần
có cơ chế để các hộ phát triển DLCĐ có thể tiếp cận với nguồn vốn của chính
sách xóa đói, giảm nghèo, đơn giản thủ tục pháp lý và giảm thiểu thời gian giải
ngân, đồng thời số tiền đủ lớn để tạo cho người dân cú hích trong phát triển cơ
sở lưu trú hay các cơ sở sản xuất nghề thủ công. Thành lập quỹ hỗ trợ các hoạt
động cộng đồng với nguồn thu được trích trực tiếp từ hoạt động du lịch của địa
phương thu trên mỗi du khách.
Thứ sáu, tuyên
truyền, nâng cao ý thức của người dân và khách du lịch trong công tác vệ sinh
công cộng, bảo vệ môi trường thôn bản, không vứt rác bừa bãi. Khuyến khích
người dân sử dụng các vật liệu thân thiện với môi trường gắn với tự nhiên như
tre, gỗ... trong thiết kế các sản phẩm, công cụ phục vụ cho phát triển DLCĐ.
Thứ bảy,
tranh thủ sự hỗ trợ của chính quyền, các cơ quan quản lý chức năng, đặc biệt là
các doanh nghiệp kinh doanh du lịch bên ngoài cộng đồng về vốn, kinh nghiệm và
tư vấn về kiến thức, kỹ năng làm du lịch. Chủ động triển khai các hoạt động
kinh doanh theo những tư vấn, hướng dẫn của họ đảm bảo đạt hiệu quả cao nhất.
Kết luận
Sinh kế bền vững được xem là vấn đề cốt lõi của cộng đồng để cải thiện đời
sống người dân, nhất là đồng bào các dân tộc thiểu số Tây Bắc. Phát triển DLCĐ
chính là chìa khóa góp phần tạo sinh kế bền vững: Cải thiện thu nhập cho cộng
đồng địa phương, nâng cao trình độ dân trí cho cộng đồng, nâng cao ý thức bảo
vệ tài nguyên du lịch tự nhiên, tài nguyên du lịch văn hóa, bảo đảm phát triển
bền vững cho các tỉnh Tây Bắc. Do đó, trong thời gian tới các tỉnh vùng Tây Bắc
cần thực hiện đồng bộ các giải pháp trên nhằm góp phần thúc đẩy phát triển DLCĐ
tạo sinh kế bền vững cho cộng đồng cư dân trên địa bàn.
Tài liệu tham khảo:
[1] Nguyễn
Hồng Hải (2020), Phát triển mô hình sinh kế bền vững dựa trên tiềm năng tri thức bản
địa các tộc người thiểu số ở vùng Đông Bắc, https://hvdt.edu.vn
[2] Hoàng
Mai (2017), Định hướng phát triển sản phẩm du lịch liên kết đặc trưng vùng
Tây Bắc,
http://itdr.org.vn
[3] Bùi Minh (2022), Mô hình
chi hội “Nông dân làm Homestay” bản Lác ở Mai Châu (Hòa Bình), https://vietnamtourism.gov.vn
[4] Quốc hội (2017),
Luật Du lịch số 09/2017/QH14 ngày 19
tháng 6 năm 2017, Hà Nội, https://thuvienphapluat.vn