Từ khóa: Giá trị thời đại của Tuyên ngôn Độc lập; Hồ Chí Minh; Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa; ý nghĩa lịch sử.
(Ảnh:
https://baochinhphu.vn)
Đặt vấn đề
Tuyên ngôn Độc lập khai sinh ra nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa được coi là áng văn lập quốc, một văn bản pháp lý, một văn
kiện đặc biệt của lịch sử Việt Nam
hiện đại. Văn kiện được chắt lọc, kết tinh từ quá trình hoạt động thực tiễn tìm
đường cứu nước, lãnh đạo cách mạng của lãnh
tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh. Đây là minh chứng sinh động về đường
lối đúng đắn mà Cương lĩnh Chính trị đầu
tiên của Đảng đã đề ra; về khát vọng giải phóng dân tộc, giải phóng nhân dân,
tư tưởng, con đường cách mạng của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã trở
thành hiện thực.
1. Tuyên ngôn Độc lập khẳng định quyền của mỗi quốc gia, dân tộc và của
từng con người trên thế giới
Khác với “bài
thơ thần” Nam quốc sơn hà trong
cuộc kháng chiến chống quân Tống xâm lược thế kỷ XI và Bình Ngô đại cáo trong cuộc kháng chiến
chống quân Minh do Nguyễn Trãi viết năm 1428, được đánh giá có ý nghĩa như
những bản Tuyên ngôn độc lập của các vương triều phong kiến Việt Nam trước thế lực xâm lược phương Bắc, Tuyên ngôn Độc lập ngày 2 - 9 - 1945 do Hồ Chí Minh soạn thảo và đọc
trước hàng chục vạn đồng bào ở Quảng trường Ba Đình đã khai sinh ra nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa, một chế độ dân chủ mới, đánh đổ chế độ thực dân phong
kiến lạc hậu, bảo thủ và trì trệ. Tuyên ngôn
Độc lập là lời tuyên bố với toàn thế giới quyền độc lập, tự do đương
nhiên, bất khả xâm phạm của Việt Nam nói riêng, của các dân tộc trên thế giới
nói chung. Tuyên ngôn Độc lập báo
hiệu một thời đại mới, thời đại giải phóng các dân tộc khỏi ách áp bức của chủ
nghĩa thực dân trên quy mô toàn thế giới, phá tan xiềng xích của chủ nghĩa thực
dân; thời đại của các dân tộc bị áp bức, bóc lột, giành lại quyền sống, quyền
độc lập, tự do; thời đại mới cho dân tộc Việt Nam, thời đại đất nước được độc
lập, tự do, do nhân dân làm chủ.
Trong phần mở
đầu Tuyên ngôn Độc lập, Hồ Chí
Minh trích dẫn tinh thần của Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của Hoa Kỳ và Tuyên
ngôn Nhân quyền và Dân quyền năm 1791 của Cách mạng Pháp. Đối với quyền của dân
tộc, hai bản Tuyên ngôn của Mỹ, Pháp chỉ đề cập đến quyền của cá nhân được
sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc, bình đẳng về quyền lợi. Còn trong Tuyên ngôn Độc lập của Việt Nam, Hồ Chí Minh đã có sự mở rộng
mang tính đột phá về mối quan hệ giữa quyền cá nhân với quyền dân tộc. Người
viết: “Suy rộng ra, câu ấy có ý nghĩa là: Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng; dân tộc nào cũng có quyền sống,
quyền sung sướng và quyền tự do”[4, tr.1] - một chân lý hiển nhiên, một lẽ phải không ai chối cãi được. Sự trích
dẫn sáng tạo của Hồ Chí Minh đã thể hiện một tầm nhìn thời đại, một sự
phát triển tư duy tiến bộ về quyền tự do, độc lập của mỗi cá nhân, quốc gia dân
tộc. Hồ Chí Minh nâng từ quyền con người lên thành quyền dân tộc, từ quyền của
mỗi cá nhân lên thành quyền của mọi dân tộc bị áp bức trên thế giới. Đó là cống
hiến vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh, thể hiện tâm huyết lớn của Người đối với
dân tộc Việt Nam và các dân tộc trên thế giới, là những ví dụ điển hình về sự
tiến bộ trong đấu tranh vì quyền con người, quyền dân tộc.
Bằng tư duy
biện chứng, lý luận sắc sảo, Hồ Chí Minh đã
chứng minh quyền con người và quyền của các dân tộc đều là lẽ tự nhiên, đương
nhiên mỗi con người và mọi dân tộc cũng đều được hưởng. Như vậy, hành động xâm
lược Việt Nam của thực dân Pháp, và của đế quốc Mỹ sau này, đều ngược với lẽ tự
nhiên ấy, đi ngược lại những điều tự do, bình đẳng, bác ái mà chính họ đã hùng
hồn tuyên bố.
2. Tuyên ngôn Độc lập khẳng định quyền tự do, độc lập của
dân tộc Việt Nam và quyết tâm sắt
đá để bảo vệ quyền tự do, độc lập
Bằng những dẫn
chứng thuyết phục, sự khái quát lịch sử chân thực, lôgíc, lý luận chặt chẽ, Tuyên ngôn Độc lập là bản tố cáo đanh thép
tội ác của thực dân Pháp xâm lược, áp bức nhân dân Việt Nam hơn 80 năm trên các
lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, đời sống... dưới chiêu bài bảo hộ. Đó là
những hành động trái hẳn với nhân đạo và chính nghĩa. Ấy vậy mà, khi phát xít Nhật vào Đông Dương (9 - 1940), thực dân Pháp
đã mau chóng đầu hàng, làm cho nhân dân Việt Nam chịu cảnh áp bức “một cổ hai
tròng”, đẩy người dân vào tình trạng cùng cực, khiến gần hai triệu người bị chết đói, các cuộc khởi nghĩa bị
đàn áp, những người yêu nước bị chém giết, nhà tù nhiều hơn trường học...
Ngày 9 - 3 -
1945, phát xít Nhật đảo chính, lật đổ bộ máy
thống trị của thực dân Pháp trên toàn cõi Việt Nam và Đông Dương. Trong Tuyên ngôn Độc lập, Hồ Chí Minh viết: “Khi
Nhật hàng Đồng minh thì nhân dân cả nước ta đã nổi dậy giành chính quyền, lập
nên nước Việt Nam Cộng hòa Dân chủ”[4, tr.2]. Vì
thế, Tuyên ngôn nhấn mạnh: “Sự thực là dân ta đã lấy lại nước Việt Nam tự tay
Nhật, chứ không phải từ tay Pháp”[4,
tr.3]. Điều này khẳng định dứt khoát Việt
Nam không còn là thuộc địa của Pháp, thoát ly khỏi những ràng buộc với Pháp,
xóa bỏ mọi đặc quyền của Pháp ở Việt Nam. Đồng thời, Người khẳng định: “Toàn
dân Việt Nam, trên dưới một lòng quyết liệt chống lại âm mưu của bọn thực dân
Pháp”[4, tr.3].
Với lời lẽ
dung dị, rõ ràng mà đanh thép, Tuyên ngôn
Độc lập nhấn mạnh độc lập, tự do là quyền tất yếu của dân tộc Việt
Nam: “Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay, một dân
tộc đã gan góc đứng về phe Đồng minh chống phát xít mấy năm nay, dân tộc đó
phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập!”[4,
tr.3]. Từ đó, Tuyên ngôn
Độc lập khẳng định quyết tâm sắt đá của muôn triệu người dân Việt:
“Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc
lập, và sự thực đã thành một nước tự do và độc lập. Toàn thể dân Việt Nam quyết
đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mệnh và của cải để giữ vững quyền tự do
và độc lập ấy”[4, tr.3]. Thực tiễn lịch sử Việt Nam đã chứng minh những quyền
lợi chính đáng cùng quyết tâm sắt đá của nhân dân Việt Nam, cùng với đó là khả
năng dự báo thiên tài, tầm nhìn vượt thời đại của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ
Chí Minh được thể hiện trong Tuyên ngôn Độc
lập.
3. Tuyên ngôn Độc lập là sự kết tinh, chắt lọc từ quá trình khảo nghiệm lâu dài của Hồ Chí
Minh
Thật thú vị
nếu làm một phép so sánh về thời gian hoàn
thành Tuyên ngôn Độc lập với một
số tác phẩm trước đó của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh. Thứ nhất là Bản yêu sách của nhân dân An Nam (1919), được coi là Tuyên ngôn chính trị đầu tiên, đánh dấu sự công khai
hoạt động chính trị của Nguyễn Ái Quốc. Đây không phải là sản phẩm hoàn
toàn của riêng Nguyễn Ái Quốc, mà được soạn thảo bởi một nhóm người Việt Nam
yêu nước tại Pháp trên cơ sở ý tưởng của Nguyễn Ái Quốc, sau khi thảo xong bản Yêu sách, Người đã đại diện ký tên. Việc soạn thảo
này mất nhiều thời gian vì phải thống nhất quan điểm, nội dung, mức độ yêu cầu,
đòi hỏi của mỗi thành viên của nhóm vốn có những ý kiến khác nhau. Thứ hai, tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp (1925) được Nguyễn Ái Quốc hoàn thành trong khoảng thời gian hơn một năm ở
Liên Xô trên cơ sở phần lớn những bài Người đã viết trong các năm 1921-1925; Thứ ba, tác phẩm Đường cách mệnh (1927), cũng được hoàn
thành trên cơ sở những bài giảng của Nguyễn Ái Quốc cho các lớp huấn
luyện cán bộ từ năm 1925 đến năm
1927.
Đối với bản Tuyên ngôn Độc lập,
chiều tối ngày 25 - 8 - 1945, Hồ
Chí Minh về đến Hà Nội, sáng ngày 26 - 8 -
1945, Người chủ trì phiên họp Ban Thường vụ Trung ương Đảng, bàn và quyết định
các công việc hệ trọng, cấp thiết cần thực hiện, trong đó có việc soạn thảo Tuyên ngôn Độc lập. Công việc rất nhiều,
thời gian gấp gáp bởi từ thời điểm đó đến Lễ tuyên bố độc lập được ấn định vào
ngày 2 - 9 - 1945 trước khi quân Đồng minh kéo vào Hà Nội chỉ còn đúng một
tuần, mọi chuẩn bị phải thật khẩn trương. Trong hoàn cảnh đó, chỉ trong vòng mấy
ngày, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tập trung cao độ trí tuệ, tâm huyết, khởi thảo và
hoàn thiện một văn kiện mang tầm vóc lịch sử vĩ đại. Tuyên ngôn Độc lập đã trở thành “áng thiên cổ hùng văn” vừa
mang tính dân tộc, vừa mang tính quốc tế, vừa có ý nghĩa lịch
sử, vừa có ý nghĩa thời đại sâu sắc. Song, để có được kết quả trong vòng mấy
ngày là cả một quá trình chuẩn bị lâu dài, nghiền ngẫm, tìm tòi, học hỏi hàng
chục năm trước đó của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh. Việc
trích dẫn nội dung hai bản Tuyên ngôn Độc lập của Mỹ, Tuyên ngôn Nhân quyền và
Dân quyền của Pháp cho thấy Hồ Chí Minh đã có sự nghiên cứu, tìm hiểu từ lâu.
Từ tác phẩm Đường Cách mệnh
(1927), Nguyễn Ái Quốc đã có sự phân tích khá kỹ và rút ra cho cách mạng Việt
Nam những bài học kinh nghiệm từ hai cuộc cách mạng của Mỹ và của Pháp. Việc
trích dẫn sử dụng nội dung từ hai bản Tuyên ngôn của họ, đưa vào Tuyên ngôn Độc lập của Việt Nam là
một điều rất đặc biệt và độc đáo, cho thấy rõ dụng ý của Hồ Chí Minh muốn ràng
buộc Mỹ - nước đứng đầu thế giới tư bản và Pháp - nước từng đô hộ Việt Nam, cần
phải làm theo những gì ông cha của họ từng tuyên bố.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp - một trong
những người được chứng kiến những tháng ngày lịch sử lãnh tụ Hồ Chí Minh soạn
thảo Tuyên ngôn Độc lập và được
dự bàn trao đổi ý kiến về bản Tuyên ngôn, đã ghi lại cảm nhận: “Hai mươi sáu năm trước, Bác (Hồ Chí Minh)
đã tới Hội nghị hoà bình Véc-xây nêu lên những yêu cầu cấp thiết về dân sinh,
dân chủ cho những người dân thuộc địa. Cả những yêu cầu tối thiểu đó cũng không được bọn đế quốc mảy may chấp
nhận. Người đã thấy rõ một sự thật là không thể trông chờ ở lòng bác ái của các
nhà tư bản. Người biết chỉ còn trông cậy vào cuộc đấu tranh, vào lực lượng của
bản thân dân tộc mình. Giờ phút này, Người đang thay mặt cho cả dân tộc, hái
quả của tám mươi năm đấu tranh”[2, tr.153-154].
Tuyên ngôn Độc lập được hoàn thành trong một
thời gian ngắn thể hiện một trí tuệ siêu phàm, tầm nhìn vượt thời đại của một
lãnh tụ, vừa cho thấy rõ chân dung một con người có tình yêu thương quê hương đất
nước thiết tha, đau đáu nỗi niềm đấu tranh giành độc lập cho Tổ quốc, giải
phóng nhân dân. Tuyên ngôn là kết quả của một quá trình chuẩn bị, suy nghĩ công
phu, tỉ mỉ, lựa chọn từng câu, từng chữ, vừa có lý, có tình, vừa dung dị dễ
hiểu, vừa kiên quyết, sắc bén, có sức thuyết phục rất cao của một con người
trọn đời hiến dâng cho đất nước.
4. Tuyên ngôn Độc lập được viết bằng văn phong chính luận nhưng lời lẽ
giản dị, dễ hiểu, có sức lôi cuốn mạnh mẽ
Bản Tuyên ngôn Độc lập được viết và đọc trong
bối cảnh trên 90% dân số Việt Nam còn chưa biết đọc, biết viết. Thế nhưng, khi
được nghe, hầu hết mọi người đều hiểu rõ quyền lợi và nghĩa vụ, trách nhiệm của
mình, đều phấn khởi, tự hào là người dân của một nước độc lập, từ nay làm chủ
vận mệnh, cuộc sống của mình. Tuyên ngôn được viết ra từ trái tim của một người
suốt đời đấu tranh cho độc lập tự do của dân tộc, hạnh phúc của nhân dân, nên
ngôn ngữ súc tích, lập luận chặt chẽ, câu chữ rõ ràng, gần dân, dễ hiểu. Chỉ
bằng 3 câu văn ngắn gọn: “Pháp chạy, Nhật
hàng, vua Bảo Đại thoái vị. Dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân gần 100
năm nay để gây nên nước Việt Nam độc lập. Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ
mấy mươi thế kỷ mà lập nên chế độ Dân chủ Cộng hòa”[4, tr.3], Người
đã khái quát hết hoàn cảnh ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, là thành
quả cuộc đấu tranh của toàn dân tộc. Bên cạnh đó, cụm từ “sự thật”, “sự thật
là” được Người nhắc lại nhiều, nhất là trong phần kết của Tuyên ngôn Độc lập, đã minh chứng, khẳng
định rõ ràng sự thật, tính pháp lý của bản Tuyên ngôn và của nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa mà lực lượng Đồng minh, các phe phái chính trị khác không thể phủ
nhận được. Ngôn ngữ mà Người sử dụng trong Tuyên ngôn đã chạm được tới triệu
triệu trái tim người Việt Nam, trở thành lời hiệu triệu, biến thành quyết tâm
sắt đá để giữ vững quyền độc lập, tự do của dân tộc.
Giá trị lịch
sử của Tuyên ngôn Độc lập còn thể
hiện ở chỗ: đây là văn bản báo hiệu một thời đại mới, thời đại giải phóng các
dân tộc khỏi sự áp bức, bóc lột của chủ nghĩa thực dân trên phạm vi toàn thế
giới, giành lại quyền được sống trong độc lập, tự do. Tuyên ngôn Độc lập đã mở ra một giai đoạn
mới trong lịch sử phát triển của dân tộc Việt Nam, giai đoạn xây dựng chế độ
dân chủ nhân dân, tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Tuyên ngôn Độc lập thực sự là một văn kiện có ý nghĩa thời đại và có giá trị cao về mặt lý
luận khi hàm chứa trong đó chân lý của nhân loại về quyền con người và quyền
của dân tộc. Tuyên ngôn Độc lập
của Chủ tịch Hồ Chí Minh có ý nghĩa vượt thời đại, khi
những tư tưởng, quan điểm thể hiện trong đó, đến nay vẫn còn nguyên giá trị. Đó
là sự thống nhất biện chứng giữa quyền độc lập dân tộc và quyền sống của mỗi
con người. Đó là sự thể hiện giữa khát vọng sống trong hòa bình, tự do với tinh
thần kiên quyết “đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mệnh và của cải để giữ
vững quyền độc lập, tự do”. Tuyên ngôn Độc
lập đã thức tỉnh, lay động, cổ vũ tinh thần yêu nước, lòng tự hào
dân tộc, khẳng định tính chính nghĩa của cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc,
từ đó, tập hợp, đoàn kết các tầng lớp nhân dân thành một khối thống nhất, tạo
nên sức mạnh để bảo vệ nền độc lập mới giành được trước nguy cơ bị thực dân
Pháp trở lại xâm lược. Tuyên ngôn là cái kết có hậu về hành trình đi tìm và quá
trình thực hiện khát vọng giải phóng đất nước, nhân dân của Đảng, Nguyễn Ái
Quốc - Hồ Chí Minh nói riêng, nhân dân Việt Nam nói chung. Đồng thời cũng là
thông điệp khẳng định sự kiên cường, quyết tâm, niềm tin và ý chí sắt đá của
Đảng, Hồ Chí Minh, dân tộc Việt Nam sẽ bảo vệ quyền độc lập tự do chính đáng và
đương nhiên của mình. Bên cạnh đó, Tuyên ngôn minh chứng sinh động cho nỗ lực
trọn đời đấu tranh vì độc lập, tự do, hoà bình và hạnh phúc cho đất nước, nhân
dân của Hồ Chí Minh.
Kết luận
Tuyên ngôn Độc lập là một văn kiện quan trọng nhất của lịch sử Việt Nam
hiện đại do lãnh tụ Hồ Chí Minh trực tiếp soạn thảo, là thành quả của quá trình
tích lũy lý luận, thực tiễn trong suốt hơn 30 năm hoạt động tìm đường cứu nước,
cứu dân của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí
Minh, là thành quả của 15 năm Đảng trải bao mất mát hy sinh, khó khăn gian khổ
để lãnh đạo quần chúng nhân dân đấu tranh, là kết quả đổi bằng tính mạng, máu
xương của bao cán bộ, người dân Việt Nam kiên cường anh dũng. Tuyên ngôn Độc lập mang ý nghĩa thời đại
và giá trị lý luận cao bởi trong đó chứa đựng: Chân lý của nhân loại, của thời
đại; vạch rõ tội ác của thực dân xâm lược và sự bạc nhược, lỗi thời của chế độ
phong kiến, khẳng định quyền được sống trong độc lập, tự do của nhân dân Việt
Nam, vai trò và tính hợp pháp của Chính phủ, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa, sự ưu việt của chế độ dân chủ nhân dân..., mong muốn các quốc gia công
nhận độc lập chủ quyền của Việt Nam. Tuyên
ngôn Độc lập thể hiện ý chí, trí tuệ của Hồ Chí Minh, truyền thống,
khát vọng của dân tộc. Vì thế, Tuyên ngôn
Độc lập có sức sống trường tồn trong hành trình phát triển của dân
tộc Việt Nam, của các dân tộc bị áp bức và nhân loại tiến bộ trên thế giới.
Tài liệu tham khảo:
[1] Archimedes L.A.Patti (2008), Tại sao
Việt Nam?,
Nxb. Đà Nẵng, Đà Nẵng.
[2] Võ Nguyên Giáp (2011), Tổng tập
Hồi ký,
Nxb. Quân đội Nhân dân, Hà Nội.
[3] Học viện Chính trị quốc gia Hồ
Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ của Đảng (2016), Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Nxb.
Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
[4] Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 4, Nxb. Chính trị quốc gia -
Sự thật, Hà Nội.
[5] Song Thành (2005), Hồ Chí Minh - Nhà tư tưởng lỗi lạc, Nxb. Lý luận chính trị, Hà Nội.