Từ khóa: Cách mạng Việt Nam; Đảng cộng
sản Việt Nam; độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội;kiên định.

(Ảnh: https://tuyengiao.vn)
Đặt vấn đề
Kể từ khi ra đời đến nay, Đảng Cộng sản Việt
Nam luôn phấn đấu, rèn luyện xứng đáng là đội tiền phong và đại biểu trung
thành của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; là
lực lượng lãnh đạo toàn diện Nhà nước và xã hội. Kiên định con đường độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội (CNXH) là một yếu tố quan trọng hàng đầu đưa đến thành
công của cách mạng Việt Nam. Đảng
lãnh đạo kiên định con đường phát triển được minh chứng bằng những thắng lợi
đạt được trong hơn 91 năm qua, đưa Việt Nam từ một nước thuộc địa nửa phong
kiến trở thành quốc gia độc lập, tự do, phát triển với vị thế, uy tín quốc tế
ngày càng cao. Có thể nói, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sự sàng lọc nghiêm
khắc của lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc ở Việt Nam, là sản phẩm của sự
kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin, phong trào công nhân và phong trào yêu nước
trong những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX.
1. Những thành công khẳng định sự đúng đắn của việc Đảng lãnh
đạo kiên định con đường độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội
Khẳng
định vai trò lãnh đạo và sự kiên định của Đảng đối với con đường phát triển của
Việt Nam không phải chỉ được hiến định trong Hiến pháp, các văn bản pháp lý,
trong Văn kiện của Đảng, mà được ghi nhận, khẳng định qua chặng đường vẻ vang
hơn 91 năm xây dựng và trưởng thành. Đó là, Đảng đã lãnh đạo nhân dân giương
cao ngọn cờ cách mạng độc lập dân tộc và CNXH, vượt qua muôn vàn khó khăn, thử
thách làm nên những thắng lợi có ý nghĩa lịch sử với những dấu mốc vẻ vang to
lớn: Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 mở ra một kỷ nguyên mới cho dân
tộc - kỷ nguyên độc lập, tự do, hạnh phúc và đi lên
CNXH; một chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954 lừng
lẫy năm châu chấn động địa cầu; một đại thắng Mùa Xuân đem tới thống nhất Tổ
quốc năm 1975; thắng lợi trong 2 cuộc chiến tranh biên giới giữ vững chủ quyền
lãnh thổ quốc gia; nhất là những kết quả to lớn, toàn diện trên tất cả các lĩnh
vực của công cuộc đổi mới đất nước từ 1986 đến nay.
Những thành công đó cho thấy trong cuộc trường
chinh để giành độc lập, tự do, hạnh phúc cho dân tộc; sự thống nhất, phát triển
phồn thịnh của đất nước; khẳng định vị thế đối tác uy tín, trách nhiệm của cộng
đồng quốc tế..., ở đâu và lúc nào cũng có Đảng. Đảng đi đầu trong chiến đấu,
Đảng xông pha nơi khó khăn, Đảng tiên phong trong phát triển kinh tế; Đảng gắn
bó mật thiết máu thịt với nhân dân, Đảng quyết làm tất cả vì Tổ quốc, vì nhân
dân và Đảng luôn kiên định con đường đã lựa chọn. Trên nền tảng chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam đã kiên định và vận dụng,
phát triển sáng tạo để xây dựng nên nhiều truyền thống quý báu thể hiện bản
chất tốt đẹp, như: Bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định mục tiêu, lý tưởng
cách mạng; tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo; nắm vững ngọn cờ độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội; trung thành với lợi ích quốc gia, dân tộc, gắn bó mật
thiết với nhân dân; giữ gìn đoàn kết nội bộ và đoàn kết quốc tế... Những truyền
thống quý báu đó vừa là sự kế thừa, phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc
trên một tầm cao mới của thời đại, vừa là kết quả của quá trình vun trồng, xây
đắp bền bỉ, là sự hy sinh phấn đấu của các thế hệ đảng viên.
Thành
công tiếp nối thành công. Những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử đạt được
trong hơn 35 năm đổi mới trên tất cả các lĩnh vực là minh chứng bổ sung khẳng
định sự kiên định con đường lựa chọn của Việt Nam - độc lập dân tộc gắn liền
với CNXH do Đảng lãnh đạo là đúng đắn, phù hợp với thực tiễn Việt Nam và xu thế
vận động chung của nhân loại. So sánh bối cảnh thế giới đang có nhiều thay đổi
và biến động nhanh chóng, khó lường trong những thập niên gần đây ta càng tự
hào và gia tăng thêm niềm tin vào vai trò lãnh đạo của Đảng mà sợi chỉ đỏ xuyên
suốt là kiên định con đường độc lập dân tộc và CNXH. Trở lại những năm 80 - 90
của thế kỷ XX, trong muôn vàn thử thách, khó khăn đối mặt với bao vây cấm vận
từ bên ngoài; khủng hoảng, dao động bên trong về sự sụp đổ chủ nghĩa xã hội ở
Liên Xô và Đông Âu; thực lực một nền kinh tế - xã hội nghèo nàn, lạc hậu...
nhưng Đảng đã tự tin, bản lĩnh, kiên định, sáng tạo lãnh đạo nhân dân thực hiện
sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước, từng bước tạo nên một diện mạo của Việt
Nam với sự chuyển động mạnh mẽ trên mọi lĩnh vực để giờ đây chúng ta có quyền
tự hào rằng “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín
quốc tế như ngày nay”[1, tr. 25].
Về chính trị, đó là thành công về phương
diện nhận thức lý luận với việc tiếp thu, bổ sung sáng tạo và hình thành về cơ
bản khung lý luận tổng quát về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam, như:
Xác định rõ hơn các đặc trưng trong mô hình xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân
ta xây dựng; xác định đầy đủ hơn những phương hướng, định hướng lớn mang tính
quy luật trong xây dựng, bảo vệ đất nước của thời kỳ quá độ lên CNXH phù hợp
với tình hình thực tiễn mới trong nước và xu thế vận động của thế giới; xác
định rõ và ngày càng đầy đủ các mối quan hệ lớn trong quá trình đổi mới cần nắm
vững và giải quyết. Đó là thành công trong bước chuyển về xây dựng ngày càng rõ
nét mô hình Nhà nước pháp quyền XHCN. Căn cứ vào đường lối chính trị của Đảng,
pháp luật của Nhà nước và thực tiễn hoạt động của hệ thống chính trị Việt Nam
trong những năm qua cho thấy việc “xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN có nhiều
tiến bộ, tổ chức bộ máy nhà nước tiếp tục được hoàn thiện, hoạt động hiệu lực
và hiệu quả; bảo đảm thực hiện đồng bộ các quyền lập pháp, hành pháp và tư
pháp”[1, tr.71];
và “khẳng định bản chất của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là Nhà nước của
nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân”[1, tr.100].
Về kinh tế, đó là việc đổi
mới tư duy “chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, chủ động và
tích cực hội nhập quốc tế”[2, tr.19]. Điều này đã đưa Việt Nam từ một nền kinh tế nông
nghiệp lạc hậu từng bước trở thành quốc gia có cơ sở vật chất - kỹ thuật, hạ tầng
kinh tế - xã hội theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Nổi bật rõ nét là
tốc độ tăng trưởng kinh tế cao hơn hẳn thời kỳ trước đổi mới. Trong những năm
gần đây do chịu tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới (2008) tốc
độ tăng trưởng có chậm lại, nhưng “bức tranh” kinh tế của Việt Nam vẫn là điểm sáng của khu vực và thế
giới. Đặc biệt năm 2020 - 2021, cả thế giới bị tàn phá bởi đại dịch Covid - 19,
song Việt Nam là một trong ít quốc gia trên thế giới có tốc độ tăng trưởng kinh
tế dương. Năm 2022, kinh tế Việt Nam đang phục hồi và có những bước phát triển
mạnh mẽ. Nhiều đánh giá của các tổ chức và chuyên gia quốc tế đều khẳng định
Việt Nam sẽ là nước nằm trong nhóm ít quốc gia có tốc độ tăng trưởng kinh tế
cao. Bên cạnh đó, “quy mô của nền kinh tế tăng nhanh, tính đến nay đã tăng hơn
40 lần so với năm 1990 - Theo Ngân hàng thế giới, quy mô GDP của Việt Nam năm
1990 là 6,5 tỷ USD, năm 2019 là 262 tỉ USD”[2, tr.208]. Và “năm 2020 đạt 342,7 tỉ USD, thu nhập bình quân đầu
người đạt 3.512 USD”[3, tr.31].
Bên cạnh đó hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng, hiệu quả trên nhiều
cấp độ, đa dạng về hình thức, theo nguyên tắc và chuẩn mực của thị trường toàn
cầu. Đặc biệt, Việt Nam đã, đang tham gia rất nhiều hiệp định thương mại tự do
thế hệ mới, như: Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên
Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định Thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh
châu Âu (EU) - EVFTA, Hiệp định Đối tác Kinh tế toàn diện khu vực (RCEP)...
Về văn hóa, đó là tầm nhìn sâu
sắc, toàn diện, bao quát hơn về phát triển văn hóa và xây dựng con người Việt
Nam, thể hiện với quan điểm văn hóa là nhu cầu thiết yếu của đời sống con
người, thể hiện trình độ phát triển chung của đất nước, văn hóa là sức mạnh nội
sinh quan trọng của sự phát triển, không chỉ là động lực của sự phát triển kinh
tế - xã hội mà phải là sự phát triển bền vững của đất nước, của dân tộc. Vì thế
“phát triển toàn diện con người Việt Nam đang từng bước trở thành trung tâm của
chiến lược phát triển kinh tế - xã hội”[1,
tr.65]. Thực tế cho thấy, sự nghiệp phát triển văn
hóa và xây dựng con người đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Văn hóa phát
triển đa dạng, phong phú, xuất hiện nhiều loại hình, thể loại, các hoạt động
văn hóa mới có khả năng chiếm lĩnh các mặt khác nhau của đời sống xã hội. Chính
sự phát triển của văn hóa đã góp phần quan trọng tạo không khí dân chủ, cởi mở
hơn, dân trí được nâng cao, tính năng động sáng tạo, tự chủ và tích cực của con
người được phát huy, hình thành các nhân tố mới, giá trị mới của con người Việt
Nam. Văn hóa đã, đang thực sự soi đường cho quốc dân đi.
Về quan hệ quốc
tế, đó là những kết quả to lớn của đường lối đối
ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa phương
hóa, đa dạng hóa quan hệ, như: Phá thế bao vây, cấm vận, giữ vững môi trường
hòa bình, ổn định; mở ra một không gian sâu rộng thuận lợi cho kinh tế Việt Nam
hội nhập, phát triển; tạo điều kiện để Việt Nam học hỏi, tiếp thu nhanh nhất
những tiến bộ, văn minh của thế giới về khoa học công nghệ, kinh nghiệm quản
lý, tinh hoa văn hóa của các nước; quảng bá hình ảnh, tiềm năng lợi thế so sánh
của Việt Nam ra bên ngoài; nhận được nhiều sự quan tâm ủng hộ, giúp đỡ của cộng
đồng quốc tế; nâng cao vị thế của Việt Nam từ “tham gia tích cực” vươn lên “chủ
động đóng góp xây dựng định hình luật chơi chung” với một tinh thần, vị thế “là
bạn, là đối tác tin cậy, và là thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng
đồng quốc tế”[1, tr.162]...
Không tự hào sao được khi 192/193 quốc gia thành viên của Liên hiệp quốc đã bỏ
phiếu bầu Việt Nam lần thứ hai là Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an
Liên Hợp nhiệm kỳ 2020 - 2021. Và trong bối cảnh thế giới vẫn đang đối mặt với
những hệ lụy phức tạp của đại dịch Covid - 19, thì việc Việt Nam nhanh chóng
vượt qua đại dịch, cả nước sớm trở lại trạng thái hoạt động bình thường mới, an
toàn là thêm một minh chứng để khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng với con
đường đã lựa chọn được nhân dân tin tưởng, ủng hộ.
Vẫn biết rằng trong chặng đường thăng trầm của
lịch sử thời gian qua, Đảng cũng không tránh khỏi những yếu kém, sai lầm; song
Đảng đã không hề che giấu, lẩn tránh, mà đã
thực sự nghiêm túc cầu thị, mạnh dạn nhận diện chỉ ra sai lầm, yếu kém và hành động
quyết liệt khắc phục, sửa chữa để đáp lại niềm tin, niềm
hy vọng và nguyện vọng của nhân dân bằng việc chứng minh lãnh đạo đất nước luôn
ổn định, phát triển đi lên. Chúng ta hoàn toàn tin tưởng rằng, với một tư duy
dám nhìn thẳng vào sự thật, dám nghĩ, dám làm, khát vọng vươn lên trên cơ sở
thực tiễn sinh động phong phú và kế thừa những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch
sử đã đạt được, với tinh thần đoàn kết và sự thống nhất của toàn hệ thống chính
trị, sự tin tưởng ủng hộ của nhân dân, Đảng sẽ biến nguy cơ, thách thức thành
những thời cơ, “đưa ra những thông điệp mạnh mẽ, những quyết sách sáng suốt,
đúng đắn, tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ, có hiệu quả công cuộc đổi mới,
hội nhập và phát triển trong giai đoạn mới”[1,
tr.108].
2. Những bài học kinh nghiệm cần tiếp tục được vận dụng,
phát huy để Việt Nam đạt được những mục tiêu Đại hội XIII đề ra
Một là, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam -
nhân tố quyết định hàng đầu trong công cuộc đổi mới và phát triển đất nước
Điều này đã được khẳng định trên thực tế bằng
những thành công của Cách mạng Việt Nam do Đảng lãnh đạo trong đấu tranh giành
độc lập dân tộc, thống nhất đất nước trước kia và trong thời gian những năm đổi
mới vừa qua. Tuy nhiên, để tiếp tục khẳng định vai trò lãnh đạo, khắc phục
những hạn chế của mình, Đảng cần tập trung giải quyết tốt hơn nữa một số nội
dung như: (i) Củng cố và mở rộng
nền tảng xã hội của Đảng, tiếp tục tạo được sự ủng hộ của nhân dân. Muốn vậy
Đảng không chỉ phải làm tốt vai trò là người lãnh đạo mà còn phải làm tốt bổn
phận “là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”; (ii) Phòng, chống triệt để những biểu hiện quan
liêu, độc đoán, chuyên quyền, cơ hội chủ nghĩa, kiêu ngạo cộng sản. Những “căn
bệnh” này nếu không được nhận diện kịp thời và kiên quyết đẩy lùi thì như Bác
Hồ đã chỉ rõ sẽ làm đổ vỡ cả sự nghiệp của một đảng cầm quyền; (iii) Lãnh đạo thực hiện hiệu quả Quy định trách
nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, xây dựng hình ảnh người cán bộ, đảng
viên trong sạch, liêm khiết “vừa hồng vừa chuyên”; (iv) Đổi
mới phương thức lãnh đạo của Đảng trước yêu cầu mới của thực tiễn. Phương thức
lãnh đạo của Đảng phải gắn với xây dựng một hệ thống chính trị, bộ máy hành
chính tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả, một xã hội hiện đại, tiến bộ, thượng tôn
pháp luật và đề cao trách nhiệm của cán bộ, đảng viên, người đứng đầu.
Hai là, nhận thức và quán triệt sâu sắc sự kiên định
con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội của Việt Nam
Việc kiên định độc lập dân tộc và CNXH không
chỉ liên quan đến nhận thức, ý chí cách mạng, đến đường lối, chính sách mà còn
liên quan đến lý tưởng, mục tiêu, đặc trưng mô hình phát triển và phương hướng
đi lên của đất nước. Vì thế việc lựa chọn, kiên định này không phải là việc làm
chủ quan, duy ý chí mà đây thực sự là sự lựa chọn khách quan, khoa học, nghiêm
túc, trách nhiệm trước nhân dân và dân tộc của Đảng. Và thực tế đã cho thấy “những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử
là kết tinh sức sáng tạo của Đảng và nhân dân ta, khẳng định con đường đi lên
CNXH của nước ta là phù hợp với thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển của thời
đại”[1, tr.104]. Vì thế, bên cạnh việc tiếp tục kiên định con đường đi lên CNXH của
Việt Nam thì Việt Nam cần kiên quyết đấu tranh chống các quan điểm sai trái,
thù địch phủ nhận mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, đồng thời nắm
vững và thực hiện có hiệu quả mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH trong tình hình
mới.
Ba là, giữ vững, bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng
đó là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
Thực tiễn từ khi Đảng được thành lập đến nay
cho thấy, Đảng đã được xây dựng, trưởng thành, lãnh đạo cách mạng dựa trên nền
tảng tư tưởng, lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng cách mạng sáng tạo
của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh. Nền tảng tư tưởng mang giá trị
khoa học, cách mạng, nhân văn và hiện thực đó đã bảo đảm cho Đảng hoạch định
Cương lĩnh, đường lối đúng đắn và từng bước hiện thực hóa thành công những mục
tiêu chiến lược, nhiệm vụ chính trị đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này
đến thắng lợi khác. Để giữ vững, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng cần: (i) Trong bất kỳ hoàn cảnh và tình thế nào cũng
kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
Việc trung thành với hệ tư tưởng, học thuyết khoa học, cách mạng này phải gắn
liền với đổi mới tư duy, vận dụng và phát triển sáng tạo phù hợp với thực tiễn
Việt Nam trong điều kiện mới; (ii) Chú
trọng công tác chính trị, tư tưởng, nâng cao nhận thức và trình độ lý luận, bản
lĩnh chính trị cho cán bộ, đảng viên, nhất là đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý
các cấp. Điều này có ý nghĩa quan trọng bảo đảm sự thống nhất ý chí và hành
động, sự đoàn kết vững chắc trong Đảng; (iii)
Luôn tỉnh táo phòng ngừa, chủ động và kiên quyết đấu tranh phê phán mọi nhận
thức lệch lạc, quan điển sai trái và thù địch. Điều quan trọng nhất là không bao
giờ được nhân nhượng, thỏa hiệp về tư tưởng, lý luận, càng không được rút lui,
hạ vũ khí trên mặt trận tư tưởng; (iv) Hoàn thiện và thực hiện tốt các chủ trương,
chính sách, pháp luật liên quan đến bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Quản lý
tốt và nâng cao hiệu quả thực chất vai trò, trách nhiệm của các cơ quan báo
chí, truyền thông nhằm định hướng đúng đắn nhận thức trong toàn Đảng và xã hội.
Bốn là,kiên
định con đường độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội phải đi liền với đổi mới
liên tục, đổi mới thường xuyên, đổi mới không ngừng nghỉ và đổi mới phải phù
hợp với thực tiễn mới
Vì rằng đổi mới là tất yếu, là mệnh lệnh của
cuộc sống. Đổi mới không chỉ để sửa chữa sai lầm, điều chỉnh những cái không
phù hợp, mà còn là một sự thay đổi trong nhận thức, phương thức hoạt động, phát
huy những thành công. Đổi mới thực chất là bảo vệ, phát huy cái gì cũ mà đúng;
sửa chữa cái gì đúng mà không còn phù hợp; từ bỏ cái gì cũ mà sai; sáng tạo,
tiếp thu cái gì mới mà tốt; biến đổi cái gì mới mà không thích hợp; kiên quyết
gạt bỏ cái gì mới mà không phù hợp với Việt Nam. Tuy nhiên, thực hiện đổi mới
xây dựng CNXH ở Việt Nam phải chú ý đảm bảo các yêu cầu như: (i) Đổi mới phải chủ động, tích cực, sáng tạo
trên cơ sở kiên định con đường đã lựa chọn và nền tảng tư tưởng của Đảng; (ii) Đổi mới phải quán triệt sâu sắc “dân là gốc”,
vì lợi ích của nhân dân, dựa vào nhân dân, phát huy vai trò làm chủ, tinh thần
trách nhiệm, sức sáng tạo và huy động sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; (iii) Đổi mới phải toàn diện, đồng bộ có bước đi
phù hợp, phải tôn trọng quy luật khách quan, xuất phát từ thực tiễn, bám sát
thực tiễn; (iv) Đổi mới phải đặt lợi
ích quốc gia - dân tộc lên trên hết, kiên định độc lập, tự chủ, đồng thời chủ
động và tích cực hội nhập quốc tế trên cơ sở các nguyên tắc cùng tồn tại hòa
bình; (v) Đổi mới phải trên cơ
sở Đảng biết lắng nghe, chắt lọc, tổng kết, khái quát ý kiến, sáng kiến, nguyện
vọng, cách làm sáng tạo của nhân dân, của địa phương, của cơ sở để từ đó đưa ra
những chủ trương, quyết sách đúng; (vi) Đổi
mới phải đi liền với thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, nâng cao năng lực
lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, giữ vững bản chất giai cấp công nhân của
Đảng.
Kết luận
Kiên định con đường độc
lập dân tộc và CNXH, đây là sợi chỉ đỏ xuyên suốt, nhất quán trong hành trình
đi tới mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh. Trước mắt, các Đảng bộ, Chi bộ, cấp ủy, mọi đảng viên cần tiếp
tục nắm vững, quán triệt, thấm nhuần sâu sắc “Tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt của
toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta là phải kiên định và vận dụng phát triển
sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới của Đảng; kiên
định các nguyên tắc xây dựng Đảng”[1, tr. 33]. Đây chính là nền tảng
và định hướng có tính quyết định để Việt Nam thực hiện thành công các mục tiêu
đặt ra trong Đại hội XIII: “Đến năm 2025, kỷ niệm 50 năm giải phóng hoàn toàn
miền Nam, thống nhất đất nước: Là nước đang phát triển, có công nghiệp theo
hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp; đến năm 2030, kỷ niệm
một trăm năm thành lập Đảng: Là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại,
thu nhập trung bình cao; đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam: Trở thành nước
phát triển, thu nhập cao”[1, tr.112], để đến giữa thế kỷ XXI
Việt Nam trở thành nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Tài liệu tham khảo:
[1] Đảng Cộng sản Việt Nam
(2021), Văn
kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, Nxb. Chính
trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.
[2] Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
(2021), Các chuyên đề lớp bồi dưỡng kiến thức mới cho cán
bộ quy hoạch cấp chiến lược khóa
XIII của Đảng, quyển 1, Nxb. Lý luận chính trị, Hà Nội.
[3] Nguyễn Phú Trọng
(2022), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã
hội và con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà
Nội.