Từ khóa: Chính sách hỗ trợ tài chính; doanh nghiệp; đại dịch Covid-19;
Việt Nam.
Việc đồng
bộ hóa các giải pháp với nội dung thiết thực
nhằm hỗ
trợ doanh nghiệp vượt qua khó khăn là cần thiết
(https://baochinhphu.vn)
Đặt vấn đề
Từ đầu năm 2020 đến nay, hoạt động sản xuất kinh doanh
của các doanh nghiệp tại Việt Nam gặp rất nhiều khó khăn và thử thách. Theo số
liệu thống kê năm 2021, số doanh nghiệp đăng ký thành lập mới 13,4%, vốn đăng
ký giảm 27,9% và số lao động làm việc trong các doanh nghiệp giảm 18,1% so với
năm 2020. Số doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh có thời hạn là gần 55 nghìn
doanh nghiệp, tăng 18% so với năm 2020; 48,1 nghìn doanh nghiệp ngừng hoạt động
chờ làm thủ tục giải thể, tăng 27,8%. Bình quân một tháng có gần 10 nghìn doanh
nghiệp rút lui khỏi thị trường[5]. Trong bối cảnh đó,
nhiều chính sách hỗ trợ tài chính đã được kịp thời ban hành và thực hiện, đã
góp phần tháo gỡ các khó khăn cho các doanh nghiệp. Tuy nhiên, vẫn còn những
hạn chế, khó khăn nhất định. Việc đề xuất giải pháp nhằm thực hiện có hiệu quả
các chính sách hỗ trợ tài chính là cần thiết, là điều kiện tiên quyết giúp các
doanh nghiệp vượt khó và phục hồi phát triển sản xuất kinh doanh.
1. Các chính sách hỗ trợ tài
chính giúp doanh nghiệp vượt qua khó khăn do đại dịch Covid-19
Trước những khó khăn, thách thức đối với cộng
đồng doanh nghiệp do đại dịch Covid-19 gây ra, Chính phủ đã đồng hành cùng
người dân và doanh nghiệp thông qua nhiều chính sách, giải pháp hỗ trợ khác
nhau. Trong đó các chính sách hỗ trợ tài chính được ban hành và thực hiện, kịp
thời “cứu sống” nhiều doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp “vượt khó”, qua đó góp
phần ổn định xã hội, duy trì phát triển kinh tế, củng cố niềm tin của nhân dân
và doanh nghiệp vào Đảng và Nhà nước, được cộng đồng trong nước và quốc tế đánh
giá cao.
Trong năm 2020, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 41/2020/NĐ-CP ngày 9/4/2020 về
gia hạn thời hạn nộp thuế và tiền thuê đất. Theo đó, trong năm 2020 giảm 30%
thuế thu nhập doanh nghiệp phát sinh phải nộp theo quy định; giảm 50% lệ phí
trước bạ, gia hạn thời gian nộp thuế tiêu thụ đặc biệt đối với ô tô sản xuất,
lắp ráp trong nước; giảm các loại phí, lệ phí liên quan đến sản xuất kinh
doanh, vận tải... nhằm hỗ trợ thị trường, kích cầu tiêu dùng và giảm chi phí
đầu vào cho các doanh nghiệp.
Ngày 29/5/2020, Chính
phủ cũng đã ban hành Nghị quyết số 84/NQ-CP về
các nhiệm vụ, giải pháp tiếp tục tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, thúc
đẩy giải ngân vốn đầu tư công và bảo đảm trật tự an toàn xã hội trong bối cảnh
đại dịch Covid-19 với các giải pháp cụ thể như giảm tiền thuê đất; miễn phí bảo
lãnh phát sinh trong năm 2020 đối với các khoản vay được Chính phủ bảo lãnh cho
các doanh nghiệp hàng không còn dư nợ đến ngày 31/12/2019; giảm giá cất cánh,
hạ cánh tàu bay và giá dịch vụ điều hành bay đối với các chuyến bay nội địa từ
tháng 3 đến tháng 9/2020; giảm lãi suất cho vay đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa
từ Quỹ Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa;...
Năm 2021, Chính phủ ban hành Nghị định số
52/2021/NĐ-CP ngày 19/4/2021 về gia hạn thời hạn nộp thuế giá trị gia tăng,
thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân và tiền thuê đất; phạm vi áp
dụng gia hạn rộng hơn so với năm 2020, gồm tất cả các doanh nghiệp thuộc hầu
hết các ngành nghề, lĩnh vực.
Ngày 9/9/2021, Chính phủ ban hành Nghị quyết
số 105/NQ-CP về hỗ trợ doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh trong bối cảnh đại
dịch Covid-19, bao gồm 59 nhiệm vụ, giải pháp chia thành 4 nhóm trong đó có
nhóm nội dung về hỗ trợ cắt giảm chi phí, tháo gỡ khó khăn về tài chính, dòng
tiền cho doanh nghiệp. Trên cơ sở đó, thực hiện việc cắt giảm tiền điện, tiền
cước bưu chính viễn thông, mức đóng bảo hiểm xã hội; miễn tiền phạt nộp chậm
bảo hiểm xã hội; giảm mức đóng Quỹ bảo hiểm thất nghiệp; hỗ trợ tín dụng (cơ
cấu lại thời hạn trả nợ, miễn, giảm lãi, phí, giữ nguyên nhóm nợ, hạ lãi suất
cho vay);... theo quy định.
Ngày 27/10/2021, Chính phủ đã ban hành Nghị
định số 92/2021/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành việc miễn, giảm
thuế năm 2021, Nghị định số 104/2021/NĐ- CP ngày 4/12/2021 gia hạn thời hạn nộp
thuế tiêu thụ đặc biệt đối với ô tô sản xuất hoặc lắp ráp trong nước, cụ thể:
thời gian nộp thuế phát sinh của tháng 10/2021 được gia hạn đến hết ngày
20/12/2021; của tháng 11/2021 được gia hạn đến hết ngày 30/12/2021. Trong thời
gian được gia hạn, doanh nghiệp không phải nộp tiền chậm nộp thuế hay nói cách
khác, doanh nghiệp được mượn tiền thuế mà không phải trả lãi.
Ngoài việc thực hiện các hỗ trợ về gia hạn
nộp thuế, Chính phủ cũng đã ban hành và thực hiện các giải pháp hỗ trợ tài
chính khác cho doanh nghiệp. Ngày 25/9/2021, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết
định số 27/2021/ QĐ-TTg với nội dung thực hiện giảm 30% tiền thuê đất phải nộp
trong năm 2021 cho các tổ chức, đơn vị, doanh nghiệp, hộ gia đình, cá nhân đang
được Nhà nước cho thuê đất dưới hình thức trả tiển thuê đất hàng năm. Cùng với
việc triển khai Nghị quyết số 105, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 103/2021/NĐ-CP
ngày 26/11/2021 theo trình tự thủ tục rút gọn về việc giảm 50% lệ phí trước bạ
đối với các loại xe ô tô được sản xuất hoặc lắp ráp trong nước, thời gian giảm
là 6 tháng áp dụng đối với các loại xe ô tô, kể cả xe đầu kéo có rơ-moóc được
kê khai theo đăng ký nộp lệ phí trước bạ kể trừ ngày 01/12/2021 đến hết ngày
31/5/2022.
Năm 2022, thực hiện Nghị
quyết 43/2022/ QH15 ngày 11/01/2022 của Quốc hội về chính sách tài khóa,
tiền tệ hỗ trợ Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội, Chính phủ
đã ban hành Nghị định số 15/2022/NĐ-CP ngày 28/1/2022 triển khai thực hiện việc miễn, giảm thuế theo Nghị quyết
43/2022/QH15, trong đó có hướng dẫn giảm thuế giá trị gia tăng từ 10% xuống 8%
từ ngày 01/02/2022 đối với các hàng hóa, dịch vụ theo quy định.
2. Thực trạng thực hiện các chính
sách hỗ trợ tài chính cho doanh nghiệp
2.1. Các kết quả tích cực
Về thực hiện các giải pháp hỗ trợ về thuế,
tiền thuê đất: Năm 2020, đã thực hiện khoản hỗ trợ về thuế, tiền thuê đất
khoảng 129.000 tỷ đồng. Năm 2021, đã thực hiện gia hạn số tiền thuế đạt khoảng
121.000 tỷ đồng. Đến thời điểm 31/12/2021, đa số các doanh nghiệp được gia hạn
đã thanh toán xong tiền thuế được gia hạn và trong những ngày đầu năm 2022,
nhiều doanh nghiệp thuộc diện được giảm thuế 30% đã làm xong thủ tục kê khai[4].
Về thực hiện giải pháp hỗ trợ giảm phí, lệ
phí: Đã rà soát lại các khoản phí, lệ phí liên quan đến chi phí đầu vào của
doanh nghiệp để cắt giảm mức thu trên 30 loại phí và lệ phí, ước giảm khoảng
1.000 tỷ đồng[4]. Bên cạnh đó,
với việc áp dụng giảm thuế bảo vệ môi trường đối với nhiên liệu bay trong năm
2021, số tiền hỗ trợ giảm thuế đối với ngành hàng không đạt khoảng 900 tỷ đồng;
việc cho phép tính vào chi phí được trừ của doanh nghiệp, tổ chức các khoản chi
ủng hộ, tài trợ cho các hoạt động phòng, chống đại dịch Covid-19 khi xác định
thu nhập chịu thuế thu nhập doanh nghiệp áp dụng cho năm 2020 và 2021 đã giúp
doanh nghiệp, các tổ chức tiết kiệm khoảng 170 tỷ đồng/năm. Ngoài ra, việc giảm
mạnh các phí liên quan thành lập, công bố thông tin doanh nghiệp, thẩm định sửa
đổi, bổ sung giấy phép hoạt động... cũng đã có tác động khá tích cực đến hoạt
động của doanh nghiệp và phù hợp với các cam kết, xu hướng chung quốc tế[3].
Về hỗ trợ tín dụng: Năm 2020, Ngân hàng Nhà
nước đã thực hiện giảm 3 lần một loạt lãi suất điều hành như lãi suất tiền gửi,
lãi suất qua nghiệp vụ thị trường mở (OMO), lãi suất cho vay, lãi suất tái
chiết khấu..., cụ thể: đã giảm lãi suất tái
cấp vốn từ 4,5%/năm xuống 4,0%/năm; lãi suất tái chiết khấu từ 3,0%/năm xuống
2,5%/năm; lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng và
cho vay bù đắp thiếu hụt vốn trong thanh toán bù trừ của ngân hàng nhà nước đối
với các ngân hàng thương mại từ 5,5%/năm xuống 5%/năm; điều chỉnh lãi
suất chào mua giấy tờ có giá thông qua OMO từ 3%/năm xuống 2,5%/năm; giảm lãi
suất cho vay ngắn hạn tối đa bằng VND của tổ chức tín dụng đối với khách hàng
vay, đáp ứng nhu cầu vốn phục vụ một số lĩnh vực, ngành kinh tế, từ 5%/năm
xuống 4,5%/năm; giảm lãi suất cho vay ngắn hạn tối đa bằng VND của Quỹ Tín dụng
nhân dân và tổ chức tài chính vi mô đối với các nhu cầu vốn này từ 6%/năm xuống
5,5%/năm...[7]
Về cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn, giảm
lãi, phí, giữ nguyên nhóm nợ, hạ lãi suất cho vay: Đến hết tháng 8/2021, đã
thực hiện cơ cấu lại thời hạn trả nợ giữ nguyên nhóm nợ cho 215.320 khách hàng
với tổng dư nợ là 227.009 tỷ đồng, lũy kế giá trị nợ được cơ cấu lại thời hạn
trả nợ cho khách hàng bị ảnh hưởng bởi dịch
từ 23/01/2020 là khoảng 520 nghìn tỷ đồng. Các tổ chức tín dụng đã thực hiện
miễn, giảm, hạ lãi suất cho vay đối với 1.133.194 khách hàng với dư nợ khoảng
1.584 nghìn tỷ đồng. Lũy kế từ 23/01/2020 đến 31/8/2021, tổng số tiền lãi mà
các tổ chức tín dụng miễn, giảm, hạ cho khách hàng là khoảng 26.000 tỷ đồng[1].
Các kết quả trên đã góp phần tạo niềm tin,
tâm thế phấn khởi và quyết tâm “vượt khó” cho các doanh nghiệp, giúp doanh
nghiệp dần khôi phục sản xuất kinh doanh và phát triển. Theo số liệu của Tổng
cục Thống kê, đến hết tháng 9/2022, cả nước có
163,3 nghìn doanh nghiệp đăng ký thành lập mới và quay trở lại hoạt động, tăng
38,6% so với cùng kỳ năm 2021. Bình quân một tháng có 18,1 nghìn doanh nghiệp
thành lập mới và quay trở lại hoạt động. Qua đó, giúp cho nền kinh tế
Việt Nam phục hồi và phát triển, tăng trưởng GDP 9
tháng năm 2022 tăng 8,83% so với cùng kỳ năm 2021, là mức tăng cao nhất của 9
tháng trong giai đoạn 2011-2022; các hoạt động sản xuất kinh doanh dần lấy lại
đà tăng trưởng[6].
2.2 Các khó khăn, hạn chế
Thứ nhất, thực hiện chính sách hỗ trợ về thuế
Theo
khảo sát nhanh của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) trên 500 doanh nghiệp vào tháng 8/2021, chỉ
có 35,29% doanh nghiệp được khảo sát đã tiếp cận được với các gói hỗ trợ về
thuế của Chính phủ. Điều này đã phản ánh những khó khăn và bất cập trong triển
khai thực hiện của các gói hỗ trợ của Chính phủ về thủ tục hành chính, về quy
trình xét duyệt và thẩm định, về các điều kiện để được hưởng, về thời gian xử
lý...
Trong
số các doanh nghiệp nêu trên, chỉ 15,69% cho là tiếp cận dễ dàng, trong khi
khoảng gần 20% cho là tiếp cận khó và rất khó. Về mức độ đáp ứng yêu cầu của
doanh nghiệp, chỉ có 9,3% số doanh nghiệp đã tiếp cận được gói hỗ trợ về thuế
cho rằng đã đáp ứng toàn bộ các yêu cầu của doanh nghiệp về thuế, trong khi đó
số doanh nghiệp còn lại (chiếm hơn 90%) cho rằng chỉ mới đáp ứng được một phần hoặc
rất ít nhu cầu của họ. Nguyên nhân
của tình trạng này có thể do những phiền hà về thủ tục và quy trình tiếp cận
các gói hỗ trợ, đặc biệt là thủ tục chứng minh về tài chính. Trong số các doanh
nghiệp tiếp cận được gói hỗ trợ về thuế, chỉ có 3,27% số doanh nghiệp cho rằng
sự hỗ trợ về thuế có tác động mạnh đối với doanh nghiệp, trong khi đó có tới
24,16% số doanh nghiệp cho rằng sự hỗ trợ này có tác động trung bình và có
7,84% cho rằng sự hỗ trợ về thuế có tác động thấp[2].
Thứ
hai, thực hiện chính sách hỗ trợ về vốn/tín dụng
Theo
Kết quả khảo sát của VCCI, chỉ có 30,72% doanh nghiệp đã tiếp cận được gói hỗ
trợ về vốn/tín dụng (gồm vay vốn, cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn, giảm lãi
suất vay...) của Chính phủ. Trong đó, ngành xây dựng có tỷ lệ doanh nghiệp
tiếp cận được với gói hỗ trợ về vốn/tín dụng cao nhất (chiếm 45,45%) và thấp
nhất là các doanh nghiệp trong ngành công nghiệp (với tỷ lệ 25,45%). Cũng giống
như các gói hỗ trợ thuế, các gói hỗ trợ vốn/tín dụng mặc dù cũng đã có giải
ngân được cho doanh nghiệp nhưng tình trạng vẫn còn chậm có thể do những yêu
cầu về thủ tục, điều kiện chứng minh... đối với doanh nghiệp. Về mức độ đáp ứng
yêu cầu của doanh nghiệp đối với gói hỗ trợ về vốn/tín dụng, chỉ một tỷ lệ rất
nhỏ (0,65%) là đáp ứng được toàn bộ
yêu cầu của doanh nghiệp, còn lại 25,49% số doanh nghiệp cho biết chỉ mới đáp
ứng được một phần và 4,6% cho biết chỉ đáp ứng được rất ít yêu
cầu của doanh nghiệp. Về mức độ tác động của gói hỗ trợ về vốn/tín dụng đối với
doanh nghiệp, phần lớn là tác động ở mức trung bình (chiếm 21,57%) và thấp
(chiếm 5,88%), trong khi chỉ có 3,27% số doanh nghiệp cho biết là có mức tác
động cao. Đa số ý kiến của các doanh nghiệp cho thấy phạm vi và mức độ tác động của gói hỗ trợ về vốn/tín dụng
đối với doanh nghiệp vẫn còn rất hạn chế[2].
Thứ
ba, thực hiện gói hỗ trợ về an sinh xã hội (ASXH)
Gói hỗ
trợ về ASXH đối với doanh nghiệp chủ yếu là cho doanh nghiệp vay vốn để trả
lương cho người lao động, hỗ trợ người lao động, giảm và lùi thời gian đóng góp
các quỹ về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, đóng quỹ công đoàn. Kết quả khảo sát
của VCCI cho thấy, chỉ có 23,53% số doanh nghiệp đã tiếp cận được với các gói
hỗ trợ về ASXH của Chính phủ. Trong số các doanh nghiệp tiếp cận được gói hỗ
trợ về ASXH, chỉ 9,15% cho là tiếp cận dễ dàng, còn gần 17,0% cho là tiếp cận
khó và rất khó. Một số rào cản trong tiếp cận gói ASXH gồm khoảng cách giữa
chính sách được ban hành và thực tiễn triển khai vẫn còn rất lớn; thủ tục rườm
rà, mất thời gian; khó khăn trong xác định đối tượng được hưởng trên thực tế
cũng như điều kiện để nhận hỗ trợ... Về mức độ đáp ứng yêu cầu của doanh
nghiệp, chỉ một tỷ lệ rất nhỏ (1,13% số doanh nghiệp) cho là đáp ứng được toàn bộ
yêu cầu của doanh nghiệp, còn lại 24,85% số doanh nghiệp cho biết chỉ mới đáp
ứng được 1 phần hoặc đáp ứng rất ít
yêu cầu của doanh nghiệp[2].
3.
Một số giải pháp, kiến nghị
Thứ
nhất, tiếp tục triển khai thực hiện kịp thời và
có hiệu quả các giải pháp hỗ trợ thuộc Chương trình phục hồi và phát triển kinh
tế- xã hội theo tinh thần Nghị quyết 11/NQ-CP ngày 30/1/2022, trong đó chú
trọng xây dựng và thực hiện các giải pháp triển khai thực hiện hỗ trợ tài chính
cho doanh nghiệp, cụ thể:
- Thực hiện việc miễn, giảm thuế, phí, lệ phí theo quy
định: đối với một số loại thuế như thuế giá trị gia tăng, thuế bảo vệ môi
trường, tiền thuê đất, thuê mặt nước, thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, lệ phí
trước bạ và tiếp tục rà soát, giảm một số loại thuế, phí, lệ phí khác...
- Gia hạn thời hạn nộp thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân,
thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt và tiền thuê đất trong năm 2022.
- Hỗ trợ lãi suất 2%/năm trong 2 năm
2022-2023 đối với các khoản vay thương mại cho doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ
kinh doanh có khả năng trả nợ, có khả năng phục hồi trong các ngành, lĩnh vực
theo qui định.
- Tiếp tục thực hiện cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn, giảm lãi vay và giữ
nguyên nhóm nợ đối với khách hàng là doanh nghiệp bị ảnh hưởng bởi dịch
Covid-19 với các giải pháp phù hợp với diễn biến kinh tế, thị trường tiền tệ.
Thứ hai, Chính phủ cần chỉ đạo Ngân
hàng Nhà nước tiếp tục có những chính sách hỗ trợ mạnh hơn như nới rộng hạn mức
tín dụng; miễn giảm, vay ưu đãi lãi suất thấp để dự trữ nguyên liệu, hàng hóa,
đặc biệt là đối với các doanh nghiệp lương thực, thực phẩm, doanh nghiệp sản
xuất vật tư tiêu hao phục vụ ngành y tế; nâng hạn mức định tài sản thế chấp để
tăng giá trị vốn vay lưu động lên mức cao hơn, có thể ở mức 80-85%. Cần thúc
đẩy mạnh hơn việc thực hiện cho các doanh nghiệp thuộc khu vực doanh nghiệp nhỏ
và vừa, doanh nghiệp siêu nhỏ,... được vay và huy động vốn dưới hình thức các
Quỹ bảo lãnh tín dụng, Quỹ hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, các quỹ đầu tư mạo
hiểm, quỹ khởi nghiệp.
Thứ ba, tiếp
tục rà soát để điều chỉnh, bổ sung thực hiện việc miễn, giảm, giãn, hoãn các
khoản thuế, phí sau cho doanh nghiệp: Ngoài việc thực hiện miễn nộp phí công
đoàn cho đoàn cho người lao động, giảm phí công đoàn cho doanh nghiệp năm 2021,
2022 theo Nghị quyết 105/NQ-CP, cần sớm thực hiện sửa đổi Luật Công đoàn theo
hướng giảm phí công đoàn doanh nghiệp phải nộp ít nhất 50% so với quy định hiện
hành; Mở rộng đối tượng doanh nghiệp được hỗ trợ, xem xét bổ sung các chính
sách hỗ trợ giảm 50% các khoản nộp bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm
thất nghiệp; Tăng mức hỗ trợ giảm thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế giá trị gia
tăng, tiền thuê đất ở mức cao hơn. Ngoài ra, cần rà soát lại tất cả các loại
phí, lệ phí đang áp dụng để có biện pháp miễn, giảm các loại phí, lệ phí này hỗ
trợ doanh nghiệp giảm chi phí, nâng cao năng lực cạnh tranh; Xem xét hỗ trợ
hoặc điều chỉnh một số chi phí sản xuất kinh doanh cho doanh nghiệp bị ảnh
hưởng bởi dịch Covid-19 theo hướng giảm như: điều chỉnh mức hỗ trợ lên 100%
kinh phí khi doanh nghiệp tham gia thực hiện Chương trình xúc tiến thương mại
trong nước, chương trình về xúc tiến thương mại điện tử. Lùi thời điểm tăng giá
thuê đất phục vụ sản xuất kinh doanh...
Thứ tư, tăng
cường phổ biến tuyên truyền và nâng cao hiệu quả công tác phối hợp trong triển
khai thực hiện hỗ trợ tài chính cho doanh nghiệp, cụ thể:
- Cần
tổ chức quán triệt sâu, rộng ở tất cả các cấp, ngành và cộng đồng doanh nghiệp
về các nhiệm vụ, giải pháp hỗ trợ tài chính cho doanh nghiệp phục hồi phát
triển sản xuất, nâng cao sức cạnh tranh để các cấp, ngành tập trung thực hiện
chủ động, kịp thời, đảm bảo tính thống nhất. Đồng thời, giúp các doanh nghiệp
nắm được thông tin để chuẩn bị các điều kiện cần thiết khi nhận các hỗ trợ.
- Tăng cường công tác phối hợp giữa các cấp, ngành liên quan xử lý những vướng mắc phát sinh khi triển
khai các cơ chế, chính sách, giải pháp hỗ trợ tài chính doanh nghiệp, đồng thời
đảm bảo ngăn chặn tình trạng “xin-cho”, gây khó khăn, phiền hà, tiêu cực cho
doanh nghiệp.
- Thường xuyên giám sát, kiểm tra, đôn đốc, có biện pháp xử lý nghiêm khắc
đối với tập thể, cá nhân gây khó khăn, nhũng nhiễu doanh nghiệp, trì trệ, thiếu
trách nhiệm trong thực thi công vụ.
- Cần giảm thiểu các thủ tục hành chính không cần
thiết để giảm thời gian, chi phí trong triển
khai thực hiện, đơn giản hóa các tiêu chí và
điều kiện tiếp cận các chính sách hỗ trợ. Theo đó, có thể
cân nhắc thực hiện hỗ trợ tài chính cho doanh nghiệp theo một số tiêu chí như
sụt giảm về doanh thu và người lao động, tăng chi phí để khắc phục ảnh hưởng do
Covid-19 gây nên...
Kết luận
Đại dịch Covid-19 diễn ra đã gây nhiều tác động tiêu cực đến nền kinh tế
Việt Nam nói chung và tới hoạt động của các doanh nghiệp. Trong bối cảnh đó,
Quốc hội, Chính phủ và các Bộ, ban ngành đã triển khai thực hiện nhiều giải
pháp tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp, trong đó có nhiều giải pháp hỗ trợ
tài chính đã được thực hiện, góp phần giúp doanh nghiệp bước đầu vượt qua khó
khăn, dần khôi phục hoạt động sản xuất kinh doanh. Bên cạnh những kết quả bước
đầu đã đạt được vẫn còn những thách thức, khó khăn không nhỏ trong chặng đường
tiếp theo nên các doanh nghiệp vẫn cần sự hỗ trợ mọi mặt từ phía Nhà nước,
trong đó các giải pháp hỗ trợ tài chính là quan trọng và cần được tiếp tục thực
hiện có hiệu quả hơn.
Tài liệu tham khảo:
[1] Bộ Kế hoạch
và Đầu tư (2021), Báo cáo
tình hình triển khai các chính sách, giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp trong thời
gian qua (Báo
cáo phục vụ Hội nghị của Thủ tướng Chính phủ với doanh nghiệp ngày 26/9/2021
tại Hà Nội), Hà Nội.
[2] Phòng
Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (2021), Báo cáo tình hình và kiến nghị của cộng đồng doanh nghiệp (Phục vụ Hội nghị Thủ tướng gặp gỡ cộng
đồng doanh nghiệp), Hà Nội.
[3] Nguyễn
Minh Phong
(2021), Để hỗ
trợ doanh nghiệp vượt qua đại dịch COVID-19…!, https://baochinhphu.vn
[4] Thanh Tùng (2022), Nhìn lại cơ chế hỗ trợ thuế
và các khoản thu ngân sách trong phòng, chống dịch Covid-19, https://baotainguyenmoitruong.vn
[5] Tổng
cục Thống kê (2021), Báo cáo tình hình kinh tế- xã hội quí IV và năm 2021, https://www.gso.gov.vn
[6] Tổng
cục Thống kê (2022), Báo cáo tình hình
kinh tế - xã hội quí III và 9 tháng đầu năm 2022, https://www. gso.gov.vn
[7] Phạm Thị Tường Vân (2021): “Chính sách tài chính hỗ
trợ doanh nghiệp ứng phó với đại dịch Covid-19”, https://tapchitaichinh.vn