1. Chuyển đổi số nông thôn và mô hình làng thông minh
Về chuyển đổi số nông thôn
Theo Bộ Thông tin và Truyền thông, chuyển đổi số là quá
trình thay đổi tổng thể và toàn diện của cá nhân, tổ chức về cách sống, cách
làm việc và phương thức sản xuất dựa trên các công nghệ số(1).
Chuyển đổi số trong xây dựng nông thôn là một xu hướng tất
yếu trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Nội dung chuyển đổi số
nông thôn tập trung trên ba phương diện: (i) Phát triển chính quyền số ở nông
thôn; (ii) Phát triển các chủ thể kinh tế số ở nông thôn; (iii) Phát triển xã hội
số cho cộng đồng dân cư ở nông thôn. Chuyển đổi số trong xây dựng nông thôn mới
góp phần thực hiện mục tiêu xây dựng nền nông nghiệp sinh thái, nông thôn hiện
đại, nông dân văn minh(2).
Đối với người dân: Chuyển đổi số giúp bình đẳng hơn về cơ
hội tiếp cận các dịch vụ, đào tạo, tri thức. Người dân được chính quyền thấu
hiểu và phục vụ tốt hơn nhờ vào dữ liệu và công nghệ số, tham gia các hoạt động
học tập, kinh doanh, giải trí, tư vấn, chăm sóc sức khỏe... mà không phụ thuộc
vào vị trí, khoảng cách địa lý.
- Đối với doanh nghiệp: Những lợi ích dễ nhận biết nhất của
chuyển đổi số là giảm chi phí vận hành; tiếp cận và mang đến trải nghiệm tốt
hơn cho khách hàng; phản ứng nhạy bén với sự thay đổi của thị trường; tăng năng
suất lao động và tăng lợi nhuận. Chuyển đổi số dẫn đến sự xuất hiện những mô
hình kinh doanh mới, những thị trường mới mà trong đó sự linh hoạt và sáng tạo
mới là yếu tố quyết định thành công.
- Đối với chính quyền: Chuyển đổi số giúp hoạt động hiệu
lực, hiệu quả và minh bạch hơn. Chính quyền điều hành công việc thông qua các
công cụ hỗ trợ; nhanh chóng ra quyết định với đầy đủ thông tin, tài nguyên và
nguồn lực.
- Đối với xã hội: Chuyển đổi số tác động tích cực đến mọi
mặt của đời sống xã hội, nâng cao chất lượng đời sống vật chất và tinh thần của
người dân thông qua hệ thống giáo dục thông minh, y tế thông minh.
Về làng thông minh
Từ năm 2016, Ủy ban châu Âu đã khởi động chính sách thí điểm
xây dựng làng thông minh giai đoạn 2016 - 2020 tại một số quốc gia với tên gọi
“Châu Âu hành động vì làng thông minh”, dựa trên công nghệ kết nối với các giá
trị bản địa nhằm bảo tồn và phát triển các giá trị châu Âu, giúp người dân nông
thôn có công ăn việc làm và cuộc sống ấm no.
Theo Nghị viện châu Âu: Làng thông minh là cộng đồng xóm,
thôn, xã ở các vùng nông thôn sử dụng các giải pháp sáng tạo dựa trên các thế
mạnh và cơ hội của địa phương để phát triển và thực hiện chiến lược nhằm cải
thiện kinh tế, xã hội và môi trường thông qua việc ứng dụng các công nghệ kỹ
thuật số(3).
Tháng 4-2018, một tuyên bố khác đã được chấp nhận rộng rãi ở
châu Âu là Tuyên bố Bled (Bled, Slovennia) với tiêu đề “Tương lai thông minh
hơn của các khu vực nông thôn ở EU”. Trong đó, làng thông minh sẽ bao gồm: canh
tác chính xác, các nền tảng kỹ thuật số khác nhau (học tập điện tử, y tế điện
tử, quản trị điện tử, giao thông, ẩm thực, dịch vụ xã hội, bán lẻ), nền kinh tế
chia sẻ, nền kinh tế vòng tròn giảm chất thải và tài nguyên cứu sinh, kinh tế
dựa trên sinh học, năng lượng tái tạo, du lịch nông thôn, đổi mới xã hội trong
dịch vụ nông thôn và tinh thần kinh doanh(4).
Theo Đánh giá Nông thôn châu Âu số 26, các làng thông minh
sẽ tạo ra 5 động lực chính: thứ nhất, ứng phó với tình trạng giảm dân số và
thay đổi nhân khẩu học; thứ hai, tìm kiếm các giải pháp để cắt giảm kinh phí
công và tập trung hóa các dịch vụ công; thứ ba, khai thác mối liên kết với các
thị trấn, thành phố nhỏ; thứ tư, phát huy tối đa vai trò của khu vực nông thôn
trong quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế vòng tròn, cácbon thấp; thứ năm,
thúc đẩy chuyển đổi số khu vực nông thôn(5).
Theo N.Viswanadham và S.Vedula, hệ sinh thái làng thông minh
được xây dựng trên khuôn khổ STERM (Khoa học, Công nghệ, Kỹ thuật, Quy định và
Quản lý). Hệ sinh thái làng thông minh được hình thành từ sự đồng phát triển
của 4 lĩnh vực: 1) Chuỗi dịch vụ; 2) Công nghệ và cơ chế cung cấp dịch vụ; 3)
Các thể chế ảnh hưởng đến quản trị và các quy định; 4) Nguồn lực và quản lý
chúng. Cách tiếp cận hệ sinh thái này tích hợp tất cả các tổ chức có trách
nhiệm, các nguồn lực cần thiết, các dịch vụ được cung cấp, các cơ chế và công
nghệ cung cấp dịch vụ(6).
Theo Anand Singh, Megh Patel, một ngôi làng thông minh sẽ
tạo điều kiện: (i) Cơ hội kinh doanh trong nông nghiệp; (ii) Dịch vụ giáo dục
được cải thiện; (iii) Dịch vụ y tế; (iv) Chú trọng đến phúc lợi xã hội; (v)
Tăng cường tham gia dân chủ; (vi) Chất lượng cuộc sống được cải thiện; (vii)
Công nghệ như một phương tiện để phát triển toàn diện. Từ viết tắt SMART trong
“làng thông minh” được hiểu là: S - Bền vững, M - Đo lường được, A - Giá cả
phải chăng, R - Có thể tái tạo, T - Công nghệ(7).
Ở Việt Nam, làng thông minh có thể được hiểu thống nhất là
một cộng đồng xóm, thôn, xã ở nông thôn sử dụng giải pháp sáng tạo dựa trên thế
mạnh và cơ hội của địa phương, với cách tiếp cận có sự tham gia, chia sẻ để phát
triển và thực hiện chiến lược kinh tế, xã hội nhằm cải thiện điều kiện kinh tế,
xã hội và môi trường.
Trong làng thông minh, các giá trị truyền thống và dịch vụ
mới được tăng cường bằng các phương tiện kỹ thuật số, công nghệ viễn thông, đổi
mới sáng tạo và việc sử dụng tri thức tốt hơn, vì lợi ích của người dân và
doanh nghiệp.
2. Chủ trương về chuyển đổi số trong nông nghiệp, nông thôn
và xây dựng làng thông minh ở Việt Nam
Nông nghiệp, nông dân và nông thôn là một chỉnh thể thống
nhất, có mối quan hệ gắn bó, khăng khít. Trong đó, nông nghiệp là bộ phận quan
trọng của nền kinh tế quốc dân, là ngành nghề chính tạo việc làm và thu nhập
cho nông dân. Nông dân là chủ thể của quá trình phát triển nông nghiệp và xây
dựng nông thôn mới; nông thôn là địa bàn cư trú, là môi trường sản xuất và môi
trường sống của nông dân. Ban Chấp hành Trung ương 7 khóa X đã ban hành Nghị
quyết số 26/NQTW ngày 5-8-2008 về nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Nghị quyết
này được coi là một bước ngoặt quan trọng trong việc xác định rõ hơn vị trí
chiến lược và mối quan hệ gắn bó của vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn.
Nghị quyết khẳng định: “Trong mối quan hệ mật thiết giữa nông nghiệp, nông dân
và nông thôn, nông dân là chủ thể của quá trình phát triển, xây dựng nông thôn
mới gắn với xây dựng các cơ sở công nghiệp, dịch vụ và phát triển đô thị theo
quy hoạch là căn bản; phát triển toàn diện, hiện đại hóa nông nghiệp là then
chốt”(8).
Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “Phát huy vai trò chủ thể
của nông dân trong quá trình phát triển nông nghiệp, kinh tế nông thôn gắn với
xây dựng nông thôn mới. Gắn xây dựng giai cấp nông dân với phát triển nông
nghiệp và quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa nông thôn... Huy động và phát
triển các nguồn lực khác để thực hiện thành công mô hình nông nghiệp sinh thái,
nông thôn hiện đại và nông dân văn minh”(9).
Nhận thức được những lợi ích to lớn của chuyển đổi số trong
nông nghiệp, nông thôn, Chính phủ Việt Nam đã ban hành một số định hướng, chủ
trương và chiến lược nhằm khai thác các cơ hội do công nghệ số mang lại. Nông
nghiệp số ở Việt Nam được phát triển trên nền nông nghiệp ứng dụng công nghệ
cao, do đó các chính sách đều nằm trong khung chính sách chung về phát triển
nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao. Chuyển đổi số nông nghiệp, nông thôn nằm trong
cấu trúc chung của nền kinh tế số, bắt nhịp với sự phát triển của cuộc Cách
mạng công nghiệp lần thứ tư.
Chính phủ đã ban hành một loạt các chủ trương, chính sách
lớn thúc đẩy quá trình chuyển đổi số như: Chỉ thị 01/CT-TTg ngày 14-1-2020 về
“Thúc đẩy phát triển công nghệ số Việt Nam”; Nghị quyết số 50/NQ-CP ngày
17-4-2020 của Chính phủ ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện
Nghị quyết số 52-NQ/TW ngày 27-9-2019 của Bộ Chính trị về một số chủ trương,
chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và Quyết
định số 749/QĐ-TTg ngày 3-6-2020 phê duyệt “Chương trình chuyển đổi số quốc gia
đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”. Trong bối cảnh chuyển đổi số là xu
hướng tất yếu, việc ứng dụng công nghệ cao, công nghệ kỹ thuật số, hệ thống cơ
sở dữ liệu lớn là những nội dung cần được áp dụng trong mô hình xây dựng làng
thông minh.
Đặc biệt, trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng, những khái
niệm như chuyển đổi số, kinh tế số, xã hội số lần đầu tiên được đề cập. Nội hàm
của những khái niệm này cũng được nhấn mạnh nhiều lần trong mục tiêu, quan điểm
và chiến lược phát triển. Với kỳ vọng là cuộc cách mạng số sẽ thực sự tạo ra
được sự bứt phá cho phát triển đất nước ta trong những thập niên tới, Đảng ta
đã đặt ra yêu cầu thúc đẩy mạnh mẽ chuyển đổi số quốc gia, phát triển kinh tế
số, xã hội số để tạo bứt phá về nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức
cạnh tranh của nền kinh tế. Ba đột phá chiến lược gồm: hoàn thiện đồng bộ thể
chế, phát triển nguồn nhân lực và xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng gắn với
chuyển đổi số.
Đại hội XIII của Đảng đã nhấn mạnh chiến lược xây dựng hệ
thống kết cấu hạ tầng đồng bộ là yếu tố rất quan trọng, trong đó chú trọng phát
triển hạ tầng thông tin viễn thông, tạo nền tảng chuyển đổi số quốc gia, từng
bước phát triển kinh tế số và xã hội số. Mục tiêu cụ thể về phát triển kinh tế
số là phấn đấu đến năm 2030 hoàn thành xây dựng chính phủ số, kinh tế số chiếm
khoảng 30% GDP cả nước, Việt Nam phấn đấu đứng trong nhóm 50 quốc gia hàng đầu
thế giới và xếp thứ 3 trong khu vực ASEAN về chính phủ điện tử và kinh tế số.
Như vậy, Việt Nam là một trong những quốc gia sớm có chương
trình, chiến lược về chuyển đổi số quốc gia, có nhận thức về chuyển đổi số cùng
các quốc gia tiên tiến trên thế giới. Đây là điều kiện thuận lợi để Việt Nam
chủ động khai thác triệt để các cơ hội mà cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư
mang lại và bứt phá vươn lên.
Trong lĩnh vực nông nghiệp, Chính phủ đã ban hành nhiều
chính sách nhằm thúc đẩy phát triển, ứng dụng công nghệ cao. Thủ tướng Chính
phủ ký Quyết định số 1895/QĐ-TTg ngày 17-12-2013 phê duyệt Chương trình phát
triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao thuộc Chương trình quốc gia phát triển
công nghệ cao đến năm 2020. Trên cơ sở chương trình này, Chính phủ đã ban hành
Quy hoạch tổng thể về các vùng, khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao và quy
chế công nhận doanh nghiệp nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao tại Việt Nam.
Hiện nay, phát huy vai trò của nông dân Việt Nam không thể
tách rời quá trình phát triển nông nghiệp công nghệ cao và xây dựng nông thôn
mới hiện đại, văn minh. Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “Phát triển nông
nghiệp hàng hóa tập trung quy mô lớn theo hướng hiện đại, ứng dụng công nghệ
cao, nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững. Khuyến khích phát triển
nông nghiệp xanh, sạch, nông nghiệp sinh thái, nông nghiệp hữu cơ, nông nghiệp
công nghệ cao, thông minh, thích ứng với biến đổi khí hậu”(10) ; “Chương trình mục tiêu quốc gia
xây dựng nông thôn mới theo hướng gắn với quá trình đô thị hóa, đi vào chiều
sâu, hiệu quả, bền vững; thực hiện xây dựng nông thôn mới nâng cao, nông thôn
mới kiểu mẫu...”(11).
Đầu năm 2021, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Chương trình
quốc gia phát triển công nghệ cao đến năm 2030, được ban hành theo Quyết định
số 130/QĐTTg ngày 27-01-2021, trong đó, phát triển nông nghiệp ứng dụng công
nghệ cao là một nội dung quan trọng.
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn phối hợp với các bộ,
ngành và địa phương xây dựng thí điểm một số mô hình làng, xã thông minh ứng
dụng chuyển đổi số trên cả nước, trên cơ sở đó rút kinh nghiệm và đề xuất cơ
chế, chính sách phát triển làng, xã thông minh phục vụ Chương trình xây dựng
nông thôn mới giai đoạn 2021-2025.
Ngày 02-8-2022, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số
924/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình chuyển đổi số trong xây dựng nông thôn mới,
hướng tới nông thôn mới thông minh giai đoạn 2021 - 2025.
3. Một số mô hình thí điểm làng thông minh ở Việt Nam
Mô hình làng thông minh ở Việt Nam đang có những tín hiệu
khởi động cho giai đoạn 2020 - 2025 và tầm nhìn 2030 - 2045. Các làng thông
minh tuy ở vùng nông thôn nhưng sẽ không thua kém đô thị về sức sản xuất, về
năng suất lao động, về tính cạnh tranh, an sinh và hưởng các dịch vụ xã hội,
góp phần tạo ra một không gian đáng sống cho người dân, thu hẹp khoảng cách giữa
nông thôn và thành thị nếu được đầu tư phát triển hạ tầng và dịch vụ kết nối.
Đặc biệt, mô hình này còn tạo động lực cho các lĩnh vực du lịch sinh thái, du
lịch sức khỏe, du lịch y tế, du lịch trải nghiệm, du lịch nghiên cứu... cùng
phát triển.
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn xem xét đưa nội dung
về công nghệ số trong nông thôn mới thành một nội dung trọng tâm trong các giải
pháp phát triển. Bộ Thông tin và Truyền thông đã chủ trì, phối hợp với doanh
nghiệp công nghệ số thí điểm mô hình “Xã thông minh” bao gồm: xã Bạch Đằng (thị
xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương); xã Vi Hương (huyện Bạch Thông, tỉnh Bắc Kạn); xã
Yên Hòa (huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình); xã An Nhơn (huyện Châu Thành, tỉnh Đồng
Tháp); xã Quảng Thọ (huyện Quảng Điền) và xã Vinh Hưng (huyện Phú Lộc, tỉnh
Thừa Thiên Huế)...
Mô hình làng thông minh ở xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền và
xã Vinh Hưng, huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên Huế
Ngày 18-8-2021, UBND tỉnh Thừa Thiên Huế ban hành Kế hoạch
số 265/KH-UBND về xây dựng mô hình “Xã thông minh”, triển khai thí điểm tại xã
Quảng Thọ, huyện Quảng Điền và xã Vinh Hưng, huyện Phú Lộc dựa trên 3 trụ cột
chính gồm: Thiết chế thông minh, Con người thông minh và Công nghệ thông minh.
Nội dung kế hoạch bao gồm: hoàn thiện chính quyền điện tử, hướng đến chính quyền
số; xây dựng các hệ thống thông tin tích hợp phục vụ cho xã hội số; xây dựng mô
hình hợp tác xã số, doanh nghiệp nông nghiệp ứng dụng công nghệ số và từng bước
triển khai một số dịch vụ cho kinh tế số nông thôn.
Đến nay, mô hình làng thông minh ở Thừa Thiên Huế đã đạt một
số kết quả nhất định. Trung tâm Công nghệ thông tin tỉnh (HueCIT), Trung tâm
Giám sát và Điều hành đô thị thông minh (HueIOC) cùng các đơn vị liên quan đã
tổ chức ra mắt và bàn giao các sản phẩm ứng dụng công nghệ thông tin - một phần
của mô hình xã thông minh - cho UBND xã Quảng Thọ cuối tháng 3-2021. Ngoài ra,
HueCIT đã bàn giao Trang thông tin tổng hợp xã thông minh
(http://quangtho.huecit.com/) và chuyên trang Hợp tác xã số
(http://htxquangtho1.huecit.com) tích hợp thêm chức năng thương mại điện tử.
Đây là bước tạo đà cho việc triển khai giải pháp quản trị hợp tác xã thông
minh, quản lý sản xuất và hỗ trợ ra quyết định; ứng dụng hệ thống quan trắc môi
trường thời gian thực và hỗ trợ điều hành, quản lý sản xuất nông nghiệp.
Huyện Quảng Điền đã đầu tư cho xã Quảng Thọ phòng quản lý
điều hành thông minh, 7 điểm phát wifi miễn phí ở 8 thôn; lắp đặt gần 20 camera
an ninh (trong đó có 3 camera thông minh) để giám sát trên các trục chính tỉnh
lộ, huyện lộ, liên thôn và các cơ quan, trường học với nhiệm vụ kết nối thông
tin, dữ liệu, dịch vụ, hạ tầng toàn diện.
Mô hình làng thông minh tại tỉnh Thừa Thiên Huế bước đầu
phát huy hiệu quả, đem lại lợi ích cho người dân, như: giúp người dân chủ động
ứng phó với thiên tai, mưa bão; giám sát môi trường để phục vụ nuôi trồng thủy
hải sản; quảng bá hệ thống du lịch bằng công nghệ thực tế ảo nhằm thúc đẩy kinh
tế - xã hội địa phương; giúp công tác phòng, chống dịch bệnh Covid-19 đạt hiệu
quả;... Đặc biệt, sau khi đưa vào hoạt động mô hình xã thông minh, tình hình an
ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội trên địa bàn được bảo đảm.
Mô hình làng thông minh ở xã Vi Hương (huyện Bạch Thông,
tỉnh Bắc Kạn) được xây dựng với các nội dung trọng tâm như sau: chính quyền xã
thông minh; giao tiếp trực tuyến với người dân; thương mại điện tử; dịch vụ xã
hội; du lịch; quảng bá thương hiệu trực tuyến.
Tới nay, mô hình đã lắp đặt trạm phát sóng di động 4G; trạm
wifi công cộng tại khu vực UBND xã; xây dựng các kênh giao tiếp, tương tác
thuận tiện hơn với người dân; nâng cấp hệ thống loa truyền thanh thông minh,
cài đặt phần mềm chuyển văn bản sang âm thanh thông qua nền tảng trí tuệ nhân
tạo AI; triển khai các hoạt động thương mại điện tử nhằm quảng bá, tiếp thị và
bán các sản phẩm của địa phương; triển khai nền tảng kết nối thương mại điện tử
cho các sản phẩm nông sản của xã; phần mềm bán hàng Shop One; triển khai cầu
truyền hình và nền tảng hỗ trợ hệ thống khám chữa bệnh từ xa Telehealth tại
trạm y tế.
Mô hình đã đạt một số kết quả cụ thể như sau:
Về chính quyền xã thông minh: Việc thực hiện chuyển đổi số
đã được thực hiện nghiêm túc trong quy trình tiếp nhận và xử lý văn bản, không
gây tồn đọng trong tiếp nhận, xử lý văn bản. Đến nay, đã tiếp nhận và giải
quyết 692 hồ sơ dịch vụ công trực tuyến mức độ 3 trên hệ thống Một cửa điện tử.
Trang điện tử của xã được huyện hỗ trợ, xây dựng từ năm 2012 và được nâng cấp
trong năm 2020.
Về giao tiếp với người dân: Việc thực hiện mô hình đã thay
đổi cách thức giao tiếp giữa chính quyền xã với nhân dân thông qua hệ thống loa
phát thanh thông minh, giúp tuyên tuyền nhiều nội dung hơn, nhanh hơn và kịp
thời hơn mà không phát sinh biên chế phát thanh viên. Thông tin của chính quyền
xã được gửi đến nhân dân thông qua các nhóm zalo một cách nhanh chóng, giúp
người dân nắm bắt kịp thời các nội dung, tinh thần chỉ đạo của lãnh đạo xã,
tăng cường sự tin tưởng, gần gũi hơn giữa chính quyền và nhân dân. Người dân
được hỗ trợ sử dụng wifi, mạng internet công cộng miễn phí, được tập huấn, tiếp
cận và sử dụng nhanh chóng hình thức tư vấn, bán hàng qua mạng.
Về thương mại điện tử và quảng bá thương hiệu: các đơn vị
tham gia xây dựng mô hình thí điểm đã hỗ trợ quảng bá, tiếp thị và bán các sản
phẩm của địa phương trên mạng internet; hướng dẫn người dân tạo tài khoản, viết
bài, chụp hình, xây dựng các video quảng bá sản phẩm, dịch vụ để đăng trên các
sàn thương mại điện tử, các mạng xã hội, sử dụng các phương thức thanh toán
điện tử an toàn, tin cậy, góp phần nâng cao thu nhập cho người dân.
Hợp tác xã Thiên An được hỗ trợ thúc đẩy phát triển thương mại
điện tử đã xây dựng website giới thiệu các sản phẩm nông nghiệp; xây dựng
fanpage trên Facebook; xây dựng nền tảng kết nối thương mại điện tử dành cho
nông sản AgriConnect để kết nối các gian hàng trên các sàn như Postmart, Tiki,
Shopee...; phối hợp với Viettel Post và VNPost vận chuyển hàng hóa. Các sản
phẩm có mã vạch QR code để truy xuất nguồn gốc sản phẩm, ứng dụng BlockChain để
kiểm định chất lượng tất cả các khâu. Hợp tác xã Thiên An có trang thông tin
điện tử tại địa chỉ: https://hoptacxathienan.com/.
Về dịch vụ xã hội: Trong lĩnh vực y tế, hỗ trợ trang bị
thiết bị y tế thông minh Telehealth và nền tảng hỗ trợ khám chữa bệnh từ xa để
truyền nhận âm thanh, hình ảnh kết nối với các bệnh viện trong cả nước. Trong
lĩnh vực giáo dục, các trường học trên địa bàn đã được số hóa, sử dụng hồ sơ
điện tử, cung cấp sổ liên lạc điện tử SMAS (SMS Parents, SParent), phân hệ quản
lý thư viện và tuyển sinh đầu cấp cho các nhà trường; thực hiện nộp các khoản
đóng góp của học sinh qua hệ thống tài khoản ngân hàng.
Mô hình thí điểm làng thông minh tại xã Vi Hương đã mang lại
một số kết quả tích cực, nổi bật trong lĩnh vực y tế, giáo dục thông minh và
thương mại điện tử cho các sản phẩm đặc trưng của địa phương. Tuy nhiên, mô
hình còn gặp nhiều hạn chế trong quá trình triển khai vì Bắc Kạn là một tỉnh
miền núi nên hạ tầng còn khá lạc hậu, nhiều cơ sở dữ liệu của các ngành, địa
phương chưa được số hóa hoặc đã số hóa nhưng còn phân tán, nhỏ lẻ, thiếu tính
kết nối, liên thông. Một số người dân, doanh nghiệp chưa nhận thức được lợi ích
do chuyển đổi số mang lại; kiến thức, kỹ năng trong chuyển đổi số còn ở mức
thấp, kể cả đội ngũ cán bộ thực hiện nhiệm vụ chuyển đổi số tại các cơ quan,
địa phương, đơn vị.
3. Khó khăn, vướng mắc trong việc triển khai mô hình làng
thông minh tại Việt Nam
Mặc dù đã được triển khai thí điểm tại một số xã trên địa
bàn cả nước và mang lại kết quả tích cực, nhưng có thể thấy, việc triển khai mô
hình làng thông minh tại Việt Nam còn một số khó khăn, vướng mắc sau:
Các yếu tố khách quan
Việt Nam có hình dạng lãnh thổ kéo dài và hẹp ngang, các
vùng sản xuất nông nghiệp phân bố trải dài theo các vùng khí hậu khác nhau. Với
sự đa dạng về vùng miền, dân tộc và các sản phẩm nông nghiệp, rất khó có thể áp
dụng một mô hình làng thông minh cụ thể mà cần linh hoạt theo điều kiện từng
địa phương.
Sản xuất nông nghiệp ở Việt Nam có quy mô nhỏ lẻ và manh
mún. Năm 2017, cả nước có gần 14 triệu hộ nông dân sở hữu khoảng 78 triệu mảnh
ruộng nhỏ lẻ, quá trình tích tụ và tập trung ruộng đất diễn ra khá chậm, vẫn
còn hơn 70% mảnh đất sản xuất nông nghiệp có diện tích dưới 0,5 ha(12). Quy mô sản xuất nông nghiệp nhỏ lẻ,
không tập trung khiến cho việc ứng dụng các công nghệ cao, công nghệ số còn hạn
chế.
Văn hóa và thói quen sản xuất: Sự đa dạng về văn hóa cũng
gây ra nhiều thách thức trong quá trình chuyển đổi số. Việc ứng dụng, chuyển
đổi số cho cộng đồng nông thôn cần phù hợp với tập quán, đời sống văn hóa cộng
đồng và sự phát triển các dịch vụ kinh tế - xã hội. Việc áp dụng cùng lúc nhiều
nền tảng số trên các lĩnh vực Chính phủ số, Xã hội số và Kinh tế số có thể dẫn
đến việc “quá tải” cho chính quyền cấp xã cũng như chưa phù hợp với nếp sống
nông thôn, điều kiện văn hóa, canh tác, sản xuất của nông dân. Người dân một số
vùng còn sản xuất manh mún, nhỏ lẻ, chưa thay đổi được thói quen canh tác từ
lâu đời, không có nguồn tài chính để cơ giới hóa, chuyển đổi canh tác sau khi
dồn điền đổi thửa.
Các yếu tố chủ quan:
Trình độ công nghệ chung của cả nước còn thấp, thị trường
khoa học công nghệ kém phát triển, tình trạng vi phạm bản quyền, mất thông tin,
bí quyết, quy trình công nghệ diễn ra phổ biến.
Chất lượng nguồn nhân lực khu vực nông thôn tương đối thấp,
chưa đáp ứng yêu cầu ứng dụng công nghệ tiên tiến. Tỷ lệ lao động trong độ tuổi
lao động đã qua đào tạo ở nông thôn năm 2019 chỉ đạt 16,3%(13). Kỹ năng sử dụng công nghệ thông tin
của người dân ở nhiều vùng còn hạn chế, trình độ học vấn chưa cao nên việc tiếp
thu kiến thức khoa học - kỹ thuật để áp dụng vào sản xuất chưa đạt yêu cầu;
kiến thức, kỹ năng trong chuyển đổi số còn ở mức thấp. Đặc biệt, năng lực của
đội ngũ cán bộ cơ sở còn hạn chế, thiếu kinh nghiệm, chưa đáp ứng được yêu cầu
đề ra trong quá trình chuyển đổi số và xây dựng làng, xã thông minh.
Về thể chế, chính sách: chưa ban hành được các chính sách,
văn bản quy phạm pháp luật quy định rõ tiêu chí cụ thể, quy trình xây dựng làng
thông minh. Hiện nay, các địa phương thực hiện thí điểm chỉ đang lồng ghép vào
các tiêu chí của chương trình nông thôn mới, do đó, chưa khuyến khích, thúc đẩy
nhân rộng các mô hình làng thông minh trên cả nước.
Kết cấu hạ tầng phục vụ phát triển khoa học công nghệ và ứng
dụng công nghệ thông tin còn lạc hậu, hạ tầng viễn thông băng rộng kém phát
triển ở các vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa; mức độ bảo mật và an toàn thông
tin kém. Nhiều vùng còn khó khăn, chưa bảo đảm tiếp cận internet, chưa có nhiều
thiết bị điện thoại thông minh. Trang thiết bị cho các cán bộ, công chức xã còn
hạn chế, cấu hình kỹ thuật thấp, lạc hậu, thời gian sử dụng quá lâu. Hệ thống
Logistic cho nông nghiệp quy mô nhỏ, manh mún, thiếu kết cấu hạ tầng mềm cho
ứng dụng kỹ thuật số, thiếu các trung tâm thúc đẩy đổi mới sáng tạo, vườn ươm
khởi nghiệp.
Về cơ sở dữ liệu: nhiều cơ sở dữ liệu của các ngành, địa
phương chưa được số hóa hoặc đã số hóa nhưng còn phân tán, nhỏ lẻ, thiếu tính
kết nối, liên thông, chia sẻ giữa các cấp, các ngành.
4. Giải pháp tăng cường chuyển đổi số trong xây dựng nông
thôn mới hướng tới nông thôn thông minh ở Việt Nam
Một là, tuyên truyền, nâng cao nhận thức về chuyển đổi số trong
xây dựng nông thôn mới hướng tới nông thôn thông minh. Đẩy mạnh công tác tuyên
truyền, nâng cao nhận thức, thay đổi tư duy về chuyển đổi số trong xây dựng
nông thôn mới cho cấp ủy, chính quyền và người dân. Để từ đó tích cực, chủ động
học hỏi và mạnh dạn ứng dụng công nghệ số vào xây dựng chính quyền số, vào sản
xuất, kinh doanh nông nghiệp số và phát triển xã hội số ở nông thôn.
Để làm được điều này, cần tăng cường công tác thông tin,
truyền thông, tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng, các hội
nghị, hội thảo, các mô hình khuyến nông về vai trò và lợi ích của việc ứng dụng
công nghệ số trong quản lý, sản xuất và tiêu thụ nông sản.
Hai là, đẩy mạnh xây dựng chính quyền số trong xây dựng nông thôn
mới. Tăng cường xây dựng và hoàn thiện hệ thống dịch vụ công trực tuyến liên
thông, đồng bộ các cấp, hướng tới mức độ 3 - 4 ở cấp xã. Dịch vụ công trực
tuyến là dịch vụ hành chính công và các dịch vụ khác của cơ quan nhà nước được
cung cấp cho các tổ chức, cá nhân trên môi trường mạng(14). Dịch vụ công trực tuyến mức độ 3, 4
cần đạt được các yêu cầu: phải tương thích với các trình duyệt web thông dụng;
dễ dàng tìm thấy dịch vụ; có cơ chế hướng dẫn, tự động khai báo thông tin; có
chức năng để người sử dụng đánh giá sự hài lòng đối với dịch vụ sau khi sử
dụng; bảo đảm thời gian xử lý, trao đổi dữ liệu nhanh; hoạt động ổn định; có
địa chỉ thư điện tử để tiếp nhận góp ý của người sử dụng(15).
Ba là, nâng cao năng lực sử dụng và ứng dụng công nghệ thông tin
của người dân (sử dụng smartphone, khai thác internet, sử dụng các phần mềm ứng
dụng sản xuất và tiêu thụ nông sản, bán hàng trực tuyến...), hình thành đội ngũ
nông dân số gắn liền với quá trình chuyển đổi số nông nghiệp, nông thôn.
Hội Nông dân các cấp cần phối hợp với các tập đoàn, công ty
viễn thông xây dựng các dự án nhằm nâng cao nhận thức, kiến thức và kỹ năng sử
dụng công nghệ thông tin cho cán bộ, hội viên nông dân; nâng cao khả năng tiếp
cận, sử dụng máy tính, điện thoại thông minh và internet, thúc đẩy sản xuất,
kinh doanh và đời sống của nông dân.
Các dự án cần tổ chức các lớp tập huấn ngắn hạn; tổ chức và
nhân rộng các câu lạc bộ, các cuộc thi “Nông dân với internet”, tổ chức các hội
thảo chia sẻ kinh nghiệm... Qua đó, nông dân được hướng dẫn, chia sẻ các kiến
thức về sử dụng máy tính, điện thoại thông minh và internet; giới thiệu những
gương hội viên có mô hình sản xuất, kinh doanh, trồng trọt, chăn nuôi làm ăn
hiệu quả nhằm khích lệ các thành viên tìm tòi, học hỏi kinh nghiệm và chia sẻ
với nhiều hội viên khác; hướng dẫn cách khai thác, tìm hiểu thông tin giá cả thị
trường, địa chỉ tin cậy về giống, vốn, vật tư; giới thiệu và quảng bá nông
sản...
Bốn là, thúc đẩy kinh tế số trong phát triển kinh tế nông thôn.
Tăng cường ứng dụng công nghệ số trong phát triển kinh tế nông thôn theo hướng
kinh tế tuần hoàn. Kinh tế tuần hoàn trong nông nghiệp được xác định là quá
trình sản xuất theo chu trình khép kín thông qua việc áp dụng các tiến bộ khoa
học - kỹ thuật, công nghệ sinh học, công nghệ hóa lý, nhờ đó các chất thải,
phế, phụ phẩm được tái chế, làm nguyên liệu đầu vào cho quá trình nuôi trồng,
chế biến nông, lâm, thủy sản, tạo ra sản phẩm an toàn, chất lượng cao, giảm
lãng phí, thất thoát và giảm tối đa lượng chất thải, góp phần nâng cao nhận
thức của người dân về tái sử dụng phụ, phế phẩm trong sản xuất, bảo vệ môi trường.
Năm là, đẩy mạnh quá trình số hóa, xây dựng bản đồ số nông nghiệp,
nông thôn, cơ sở dữ liệu đồng bộ, thực hiện quản lý mã số vùng nguyên liệu,
truy xuất nguồn gốc đối với các sản phẩm nông nghiệp, nông thôn. Bản đồ số nông
nghiệp có vị trí quan trọng, bởi qua đó người dân, doanh nghiệp có thể biết
được vị trí, chất đất, khí hậu, thời tiết phù hợp với giống cây trồng nào,
nguồn sản lượng ra sao... Đây chính là cơ sở dữ liệu quan trọng giúp người dân
và doanh nghiệp triển khai, quy hoạch cây trồng, vật nuôi phù hợp.
Xây dựng bản đồ nông sản Việt Nam và coi đây là kênh thông
tin chính thức, giới thiệu khách hàng tiềm năng cho sản phẩm nông sản từng địa
phương. Thông qua môi trường mạng có thể kết nối trực tiếp từng địa phương, hợp
tác xã, hộ nông dân sản xuất.
Sáu là, tăng cường chính sách hỗ trợ nông dân, hợp tác xã tiêu thụ
nông sản vùng trên sàn giao dịch thương mại điện tử. Mỗi địa phương cần xây
dựng các chợ thương mại điện tử với các sản phẩm nông nghiệp an toàn, sản xuất
theo chuỗi, giúp người tiêu dùng có cơ hội tiếp cận phương thức mua bán nông
sản an toàn, hiện đại dưới sự quản lý, giám sát chất lượng sản phẩm và an toàn
thực phẩm của cơ quan quản lý. Phát triển công nghệ thông tin gắn với hỗ trợ
nông dân, các hợp tác xã, các doanh nghiệp đẩy mạnh ứng dụng thương mại điện tử
như thiết lập, sử dụng hệ thống thư điện tử với tên miền dùng riêng, hỗ trợ xây
dựng website thương mại điện tử, tham gia các sàn giao dịch thương mại điện tử,
sử dụng những công cụ kinh doanh điện tử (e-business)... tập huấn cho các hộ
nông dân thực hiện các kỹ năng livestream, họp nhóm, gửi hình ảnh hoặc
video...; cùng nông dân đóng gói, bảo quản, vận chuyển sản phẩm...
Cục Xúc tiến Thương mại (Bộ Công thương) cần phối hợp với
các sàn thương mại điện tử đào tạo, tập huấn cho nông dân, chủ trang trại kỹ
năng quảng bá sản phẩm; hỗ trợ áp dụng hệ thống truy xuất nguồn gốc, tạo điều
kiện để nông dân hiểu và nắm bắt rõ hơn về xu hướng và yêu cầu thị trường, từ
đó tổ chức sản xuất hiệu quả, đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng.
Tăng cường, hỗ trợ các hoạt động bán nông sản trên các sàn
thương mại điện tử với mô hình phân phối trực tiếp từ nhà sản xuất tới người
tiêu dùng, như một “siêu thị hàng Việt uy tín” trên các sàn thương mại điện tử
như: Sen Đỏ, Vỏ Sò (Viettel Post), Tiki, Shopee, Postmart, Lazada theo các hình
thức khác nhau nhằm hỗ trợ tiêu thụ các nông sản, hàng Việt đến tay người tiêu
dùng trên cả nước.
Bảy là, tập trung phát triển xã hội số trong xây dựng nông thôn
mới. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ số trong hoạt động lấy ý kiến sự hài lòng của
người dân về kết quả xây dựng nông thôn mới. Hỗ trợ các tổ chức và doanh nghiệp
cung cấp dịch vụ số đầu tư, phát triển và cung cấp dịch vụ trực tuyến về y tế,
giáo dục, văn hóa, xã hội, môi trường nông thôn ở các địa phương. Tuyên truyền,
hướng dẫn và khuyến khích người dân sử dụng các dịch vụ số và kỹ năng an toàn,
trọng tâm là dịch vụ công trực tuyến, dịch vụ y tế số, giáo dục số, sử dụng các
mạng xã hội, mua bán trực tuyến, thanh toán điện tử và khai thác tiện ích, tài
nguyên số.
(Nguồn:
lyluanchinhtri.vn)
Tài liệu tham khảo
(1) Bộ Thông tin và Truyền thông: Cẩm nang chuyển đổi số: 200 câu hỏi
- đáp về chuyển đổi số, Nxb Thông tin và Truyền thông, 2021.
(2) Thủ tướng Chính phủ: Quyết định số
924/QĐ-TTg Phê duyệt Chương trình chuyển đổi số trong xây dựng nông thôn mới,
hướng tới nông thôn mới thông minh giai đoạn 2021 -2025.
(3)
https://ec.europa.eu/eip/agriculture/en/news/smart-villages-pilot-project.
(4)
https://enrd.ec.europa.eu/news-events/news/new-decosystem-smarter-rural-areas_en
(5) European Network for Rural
Development, EU rural review No 26. Smart villages revitalising rural services.
Retrieved from https://enrd.ec.europa.eu).
(6) Viswanadham, N., & Vedula, S:
Design of Smart Villages. Computer Science and Automation, Indian Institute of
Science, Bangalore. Retrieved from http://drona.csa.iisc.ernet.in/~nv/Mypublications/C/z.pdf, 2014.
(7) Anand Singh, Megh Patel: Achieving
inclusive development through smart village, PDPU Journal of Energy and
Management, Vol.3, No.1, 2018, 37-43 truy cập tại
https://www.pdpu.ac.in/downloads/SPM%20JEM%20Oct18- Editorial%20Chap4.pdf.
(8) ĐCSVN: Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban
Chấp hành Trung ương khóa X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008, tr.124.
(9) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XIII,
t.I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.167.
(10), (11) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XIII,
t.II, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.107, 108.
(12), (13) Viện Chính sách và Chiến lược Phát
triển nông nghiệp nông thôn: Báo cáo rà soát, đánh giá và đề xuất xây dựng quy trình thực
hiện mô hình “làng thông minh” tại Việt Nam, 2021, tr.83, 84.
(14) Chính phủ: Nghị định số
43/2011/NĐ-CP quy định về việc cung cấp thông tin và dịch vụ công trực tuyến
trên trang thông tin điện tử hoặc cổng thông tin điện tử của cơ quan nhà nước.
(15) Bộ Thông tin và Truyền thông: Thông
tư số 32/2017/TT-BTTTT quy định về việc cung cấp dịch vụ công trực tuyến và bảo
đảm khả năng truy cập thuận tiện đối với trang thông tin điện tử hoặc cổng
thông tin điện tử của cơ quan nhà nước.