Quyền con người là đặc quyền tự nhiên vốn có
của con người; được cộng đồng quốc tế, các quốc gia thừa nhận, tôn trọng, bảo vệ
và bảo đảm bằng hệ thống pháp luật quốc gia và quốc tế. Thực tiễn cho thấy,
trách nhiệm bảo đảm quyền con người trước hết và chủ yếu thuộc về quốc gia; mỗi
quốc gia có quyền quyết định thực hiện những biện pháp phù hợp với các điều kiện
về kinh tế, xã hội, văn hóa như xây dựng hệ thống chính sách, pháp luật, tổ chức
thực hiện chính sách, pháp luật... Nếu quốc gia phải chịu sức ép, can thiệp từ
các nước khác mà không được độc lập, tự quyết những vấn đề nội bộ của mình thì
quyền con người trong quốc gia đó khó được bảo đảm. Có thể khẳng định mối quan
hệ giữa quyền con người với độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia là không thể
tách rời. Tuy nhiên, trong nhiều thập kỷ trở lại đây, các thế lực thù địch, phản
động thông qua các website rfi.fr, Đài Tự do Châu Á... đã tuyên truyền, thực hiện
quan điểm “nhân quyền cao hơn chủ quyền quốc gia” hòng can thiệp vào công việc
nội bộ, phủ nhận thành tựu đã đạt được trong bảo đảm nhân quyền của Việt Nam.
Các đối tượng này đã tuyệt đối hóa tính phổ biến; mặt tự nhiên của quyền con
người với luận điểm cá nhân và quyền của họ phải được đặt ở vị trí tối thượng,
là tuyệt đối, bất khả xâm phạm. Dựa trên quan điểm này, các thế lực thù địch,
phản động đã sử dụng chiêu bài “dân chủ”, “nhân quyền”, thực hiện các cuộc
“cách mạng sắc màu”, “cách mạng đường phố” xâm phạm đến chủ quyền của nhiều quốc
gia không chỉ bằng thủ đoạn can thiệp quân sự mà còn qua các kênh truyền thông,
không gian mạng trong bối cảnh thế giới phẳng 4.0. Vấn đề đặt ra đó là phải chỉ
ra những hạn chế, sai lầm của quan điểm này; đồng thời khẳng định quan điểm
đúng đắn của Đảng và Nhà nước Việt Nam: “quyền con người gắn liền với độc lập
dân tộc và chủ quyền quốc gia”[1].
1.Luận cứ đấu tranh phản bác quan điểm “nhân quyền cao
hơn chủ quyền quốc gia”
Một là, phê phán, phản bác nội dung tuyệt đối
hóa tính phổ biến của quyền con người
Quan điểm “nhân quyền cao hơn chủ quyền quốc
gia” đã tuyệt đối hóa tính phổ biến mà bỏ qua tính đặc thù của quyền con người;
đây là nội dung sai lầm bởi lẽ tính phổ biến và tính đặc thù của quyền con người
là không thể tách rời nhau. Trên phương diện triết học, xem xét tính phổ biến
và tính đặc thù của quyền con người phải gắn với cặp phạm trù cái chung - cái
riêng; cái chung luôn tồn tại trong cái riêng như một bộ phận của cái riêng và
tác động qua lại với những yếu tố còn lại của cái riêng; tính phổ biến gắn với
cái chung, tính đặc thù gắn với cái riêng. Tính đặc thù là biểu hiện cụ thể của
tính phổ biến, hay là sự cụ thể hóa của tính phổ biến. Tính phổ biến tồn tại
thông qua tính đặc thù nên chắc chắn không thể có việc chỉ có tính phổ biến tồn
tại một cách độc lập, đơn nhất. Từ cơ sở của phương pháp luận triết học, có thể
khẳng định quyền con người vừa có tính phổ biến, vừa có tính đặc thù; đó là hai
mặt không thể tách rời của quyền con người. Hơn nữa, khi xem xét tính phổ biến
cần phải chú ý đến bản chất quyền con người là bình đẳng về tư cách chủ thể của
quyền con người chứ không phải cào bằng về mức độ hưởng thụ các quyền[7]. Bên cạnh
đó, quan điểm này cũng tuyệt đối hóa mặt tự nhiên mà không nhìn thấy mặt xã hội
của con người, tuyệt đối hóa quyền của cá nhân mà bỏ quên quyền của cộng đồng,
tách rời cá nhân ra khỏi cộng đồng, đi ngược lại với các quy luật tự nhiên là mỗi
con người không thể tồn tại một mình mà luôn tương tác với những người khác
trong xã hội. Nếu quyền của cá nhân là tuyệt đối thì xã hội sẽ không tồn tại. Tự
do của mỗi người phải đặt trong mối tương quan với tự do của người khác trong cộng
đồng. Việc tuyệt đối hóa tính phổ biến và mặt tự nhiên của quyền con người đã
khẳng định “nhân quyền cao hơn chủ quyền quốc gia” là quan điểm có tính siêu
hình, phiến diện, không xem xét quyền con người một cách toàn diện, với đầy đủ
các thuộc tính vốn có của nó.
Hai là, phê phán, phản bác hành vi xuyên tạc
nội dung các của nguyên tắc cơ bản của pháp luật quốc tế về bảo đảm quyền con
người
Xuất phát từ bản chất của quyền con người,
cũng như mối quan hệ giữa cá nhân và quốc gia; pháp luật quốc tế cũng nhấn mạnh
nội dung quyền con người và chủ quyền quốc gia là không thể tách rời. Điều 1 của
Hiến chương Liên Hợp Quốc và hai Công ước quốc tế về quyền con người ICCPR,
ICESCR (1966) đều khẳng định “mọi dân tộc đều có quyền tự quyết”; quyền này có
ý nghĩa đặc biệt quan trọng bởi việc hiện thực hóa nó là điều kiện cần thiết để
bảo đảm tính hiệu quả, thúc đẩy, củng cố việc hưởng thụ quyền con người của các
cá nhân. Nội dung của quyền tự quyết nhấn mạnh mỗi quốc gia, dân tộc có quyền tự
do quyết định mà không có sự can thiệp từ bên ngoài về chế độ chính trị, sự
phát triển kinh tế, xã hội và văn hóa. Việc các quốc gia, dân tộc bị can thiệp,
lệ thuộc hay bóc lột bởi nước ngoài là vi phạm các nguyên tắc, cũng là vi phạm
các quyền cơ bản của con người và trái với Hiến chương Liên Hợp Quốc. Từ những
quy định trên của pháp luật quốc tế, có thể thấy rằng việc các thế lực thù địch
lợi dụng khẩu hiệu “nhân quyền cao hơn chủ quyền quốc gia” trên cơ sở bóp méo
nguyên tắc “bảo đảm quyền con người là nghĩa vụ chung của cộng đồng quốc tế” để
thực hiện các hành vi hòng can thiệp vào chủ quyền, công việc nội bộ của Việt
Nam và các quốc gia độc lập là vi phạm nguyên tắc “bình đẳng về chủ quyền giữa
các quốc gia”, “không can thiệp vào công việc nội bộ của quốc gia khác”.
Ba là, Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khẳng định: Quyền con người gắn với độc lập dân tộc,
chủ quyền quốc gia
Trên cơ sở chuẩn mực về quyền con người được
Liên Hợp Quốc và cộng đồng quốc tế thừa nhận, cùng với thực tiễn lịch sử đất nước,
“quyền con người gắn với độc lập dân tộc và chủ quyền quốc gia” là một trong những
tư tưởng nền tảng, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Chủ quyền quốc gia
và nhân quyền là một thể thống nhất, không thể tách rời. Quyền con người là những
giá trị phổ biến toàn cầu nhưng cũng có tính đặc thù gắn liền với lịch sử, truyền
thống, văn hóa của mỗi quốc gia, dân tộc. Bảo đảm quyền con người trước hết và
chủ yếu thuộc trách nhiệm của mỗi quốc gia. Đại hội XIII của Đảng đã xác định mục
tiêu “lấy con người làm trung tâm”; bảo đảm quyền con người và phát triển con
người toàn diện, trên cơ sở “kiên quyết, kiên trì bảo vệ chủ quyền, lãnh thổ, lợi
ích quốc gia - dân tộc”[3]. Như vậy, có thể thấy độc lập dân tộc, chủ quyền quốc
gia là điều kiện tiên quyết, vì thế, không có cái gọi là “nhân quyền cao hơn chủ
quyền quốc gia”. Tuy nhiên, quốc gia cũng phải thực thi chủ quyền để xây dựng
cuộc sống bình yên, ấm no, hạnh phúc cho người dân. Điều này thể hiện mối quan
hệ biện chứng giữa chủ quyền quốc gia với nhân quyền và trở thành định hướng
chính trị quan trọng trong mọi hoạt động bảo đảm quyền con người của Nhà nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
2.Một số giải pháp tăng cường đấu tranh phản bác quan điểm
“nhân quyền cao hơn chủ quyền quốc gia” để chống phá Nhà nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam

Ảnh Minh họa (Ảnh: Minh Trường)
Thứ nhất, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc
gắn liền với chủ nghĩa xã hội; xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; bảo vệ vững chắc chủ quyền quốc gia. Độc lập
dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là điều kiện cần thiết để bảo đảm tính hiệu
quả, thúc đẩy, củng cố việc hưởng thụ quyền con người. Kiên quyết, kiên trì đấu
tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ
quốc, lợi ích quốc gia - dân tộc; bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân và chế độ xã
hội chủ nghĩa; bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn xã hội; giữ vững môi trường
hòa bình, ổn định, để phát triển đất nước[3]. Mục tiêu cao cả nhất của độc lập
dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội không gì khác đó chính là giải phóng con
người khỏi áp bức, bóc lột, bất công; đi đến một xã hội tự do, bình đẳng, hạnh
phúc cho mỗi cá nhân và cả cộng đồng. Trong quá trình kiên trì mục tiêu nói
trên, cần tiếp tục xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân do Đảng lãnh đạo là nhiệm vụ trọng tâm của
đổi mới hệ thống chính trị, tất cả vì “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng,
văn minh”.
Thứ hai, tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng
công tác nghiên cứu lý luận, đặc biệt là trong lĩnh vực quyền con người trên
nhiều cách tiếp cận, làm cơ sở cho các hoạt động đối nội và đối ngoại của đất
nước. Việc nghiên cứu phải được tổ chức cơ bản, toàn diện, tổng thể các vấn đề
về quyền con người; tập trung xác định rõ vị trí vấn đề quyền con người trong
chủ nghĩa xã hội, mối quan hệ giữa quyền con người với chủ quyền quốc gia, độc
lập dân tộc, với Hiến pháp và quy định pháp luật, các điều kiện bảo đảm nhân
quyền... nhằm hình thành luận cứ khoa học trên cơ sở pháp luật quốc tế, thực tiễn
quốc gia phục vụ cho hoạt động bảo vệ và đấu tranh trên lĩnh vực quyền con người.
Thứ ba, nâng cao hiệu quả đối thoại, đấu
tranh trên lĩnh vực quyền con người. Chủ động và nâng cao chất lượng đối thoại
về quyền con người: Xác định các chủ thể đối thoại phù hợp nhằm làm sáng tỏ, tạo
sự thống nhất, đồng thuận trong nhận thức của các chủ thể tham gia đối thoại về
chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về quyền con người.
Tích cực đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ nền tảng
tư tưởng của Đảng; đặc biệt, phải kiên định với mục tiêu, lý tưởng của Đảng;
bình tĩnh, sáng tạo, giành thế chủ động trong đấu tranh trên vũ đài không gian mạng,
góp phần làm thất bại các âm mưu lợi dụng chiêu bài dân chủ, “nhân quyền cao
hơn chủ quyền quốc gia”, “nhân quyền không biên giới”... hòng can thiệp vào
công việc nội bộ, xâm phạm độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh và ổn
định chính trị của đất nước.
Thứ tư, tăng cường tuyên truyền, phổ biến,
giáo dục đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về
bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm quyền con người, quyền và nghĩa vụ công dân nhằm nâng
cao nhận thức của đội ngũ đảng viên, cán bộ, công chức, viên chức và nhân dân.
Trên cơ sở đồng thuận về nhận thức trong toàn thể xã hội sẽ chuyển hóa thành
hành động cụ thể của mỗi cá nhân, tích cực tham gia công cuộc bảo vệ, kiến thiết
đất nước; xây dựng, thực thi chính sách, pháp luật về quyền con người, quyền
công dân; chủ động trong đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch
nói chung, quan điểm “nhân quyền cao hơn chủ quyền” nói riêng.
Thứ năm, bảo đảm điều kiện vật chất - kỹ thuật,
trang thiết bị, phương tiện phục vụ đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái,
thù địch nói chung, luận thuyết lợi dụng dân chủ, nhân quyền nói riêng trên
không gian mạng nhằm bảo vệ chủ quyền quốc gia trong bối cảnh cuộc cách mạng
4.0.
Kết luận
Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam khẳng định: “Quyền con người gắn liền với độc lập dân
tộc và chủ quyền quốc gia”. Thực tiễn lịch sử đã chứng minh quan điểm này là
hoàn toàn đúng đắn, phù hợp với các nguyên tắc của pháp luật quốc tế. Quyền của
mỗi cá nhân chỉ được bảo đảm khi quốc gia được độc lập, có chủ quyền toàn vẹn
và đầy đủ. Trên cơ sở đó, quốc gia mới có điều kiện thực thi các chính sách,
pháp luật phát triển đất nước thịnh vượng, đem lại cuộc sống bình yên, ấm no, hạnh
phúc cho người dân.
Tài liệu tham khảo:
[1]Ban Bí thư Trung ương Đảng (1992), Chỉ thị số 12-CT/TW ngày 12/7/1992 về Vấn đề
quyền con người và quan điểm, chủ trương của Đảng ta.
[2]Ban Bí thư Trung ương Đảng (2010), Chỉ thị số 44-CT/TW ngày 20/7/2010 về Công
tác nhân quyền trong tình hình mới.
[3]Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XIII, tập I, tập II, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.
[4]Phạm Thị Mai (2021), Phê phán quan điểm “Nhân quyền cao hơn chủ quyền quốc gia” dưới góc
nhìn triết học, http://lyluanchinhtri.vn
[5]Trần Thị Thúy Ngọc (dịch) (2016), Phê phán luận điểm sai lầm “Nhân quyền cao
hơn chủ quyền”, http://philosophy.vass.gov.vn
[6]Nguyễn Đức Thắng (2007), Thực chất của luận thuyết “nhân quyền cao
hơn chủ quyền”, https://www.tapchicongsan.org.vn
[7]Tính
phổ biến và tính đặc thù của quyền con người từ phương diện triết học,
https://vusta.vn