Vào
những năm 40 của thế kỷ XX, tình hình chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội nước
ta phức tạp. Về chính trị, kinh tế - xã hội: nhân dân ta đói khổ, lầm than
trong tình cảnh một cổ hai tròng. Về đời sống văn hóa - tư tưởng: bị chia rẽ bởi
sự xuất hiện nhiều trào lưu, tư tưởng đan xen: bên cạnh tư tưởng thân Pháp có
tư tưởng thân Nhật; thuyết Âu hóa chen lẫn thuyết Đại Đông Á; tư tưởng tờrốtkít;
chủ nghĩa đầu hàng và chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi; các tư tưởng triết học duy
tâm, định mệnh chen lẫn với các trường phái siêu hình, bí hiểm, chán chường, bi
quan, “tháp ngà”... Từ thực tiễn hơn mười năm lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng
nhận thấy cần phải phát huy vai trò to lớn của mặt trận văn hóa trong sự nghiệp
đấu tranh giải phóng dân tộc. Theo đó, Đảng phải nắm lấy và giương cao ngọn cờ
lãnh đạo văn hóa, thức tỉnh được tầng lớp trí thức đang bị chia rẽ, qua đó góp
phần thức tỉnh, tập hợp đông đảo quần chúng nhân dân tham gia vào cuộc đấu
tranh giành độc lập dân tộc, xóa bỏ sự nô dịch về văn hóa của chủ nghĩa thực
dân. Đồng thời, tập hợp đông đảo những người hoạt động văn hóa yêu nước vào Hội
Văn hóa cứu quốc - một thành viên của Mặt trận Việt Minh.
Đề
cương về văn hóa Việt Nam (gọi tắt là Đề cương) ra đời là một sự kiện chính trị
quan trọng, tạo nền tảng ban đầu xây dựng nền văn hóa Việt Nam mới. Lần đầu
tiên Đảng vận dụng một cách toàn diện và có hệ thống lý luận của chủ nghĩa Mác
- Lênin vào thực tiễn văn hóa Việt Nam. Cũng là lần đầu tiên, Đảng trình bày những
nhận định tổng quát về lịch sử và tính chất văn hóa Việt Nam qua các thời kỳ; đồng
thời chỉ rõ nguy cơ văn hóa Việt Nam dưới ách phát xít Nhật - Pháp; đề ra đường
lối cách mạng về văn hóa và nguyên tắc xây dựng một nền văn hóa mới.
Ngay
sau khi ra đời, Đề cương về văn hóa Việt Nam đã có sức lan tỏa mạnh mẽ bởi bản
thân nội dung của nó được tạo dựng và hoàn chỉnh với một phương pháp tiếp cận
thực sự khoa học và quan trọng hơn là đã đáp ứng những yêu cầu thực tiễn đặt
ra. Mặc dù mới dừng ở những nét phác thảo nhưng với những nội dung được đề cập,
bản Đề cương xứng đáng là một văn kiện đặt nền móng, mở đường cho xây dựng lý
luận văn hóa cách mạng ở Việt Nam.
1.Nội dung và giá trị
cơ bản của Đề cương về văn hóa Việt Nam
Đề cương văn hóa Việt Nam năm 1943 cho Tổng Bí thư Trường Chinh khởi
thảo. (Ảnh tư liệu)
Với
dung lượng ngắn - chỉ khoảng 1300 từ[2], bản Đề cương đã trình bày, phân tích một
cách ngắn gọn và sâu sắc những vấn đề văn hóa Việt Nam đặt ra lúc bấy giờ. Tuy
ngắn gọn, súc tích nhưng bản Đề cương về văn hoá đã thể hiện rõ các quan điểm,
mục tiêu, phương châm, nguyên tắc của nền văn hóa dân tộc cần hướng đến.
Thứ
nhất, phạm vi nội hàm của văn hóa, Đề cương xác định “bao gồm cả tư tưởng, học
thuật và nghệ thuật”[2]. Mở rộng quan niệm về văn hóa, đặt thành tố tư tưởng
lên hàng đầu, gắn tư tưởng với văn hóa thể hiện một tư duy mới mẻ và khoa học,
phản ánh nhận thức đúng đắn chức năng của văn hóa theo quan điểm Mácxít của Đảng.
Bởi vì, nói đến tư tưởng là đề cập nội dung cốt lõi nhất của văn hóa, vì nó có
quan hệ nhiều mặt đến đời sống tinh thần của con người: Từ ý thức hệ, thế giới
quan, nhân sinh quan đến tâm lý, đạo đức, lối sống. Nếu không có tư tưởng gắn với
văn hoá thì văn hóa cũng chỉ là phương tiện giải trí, không mang lại sức mạnh
và cũng không gắn với phát triển. Hơn nữa, trong lúc tình hình văn hóa diễn ra
phức tạp với sự xuất hiện nhiều khuynh hướng tư tưởng và học thuật khác nhau
khiến cho nhiều người trong giới trí thức có cái nhìn không đúng về văn hóa nước
nhà thì đặt vấn đề tư tưởng lên hàng đầu là nhận thức đúng đắn và cần thiết.
Thứ
hai, từ chỗ xác định đúng phạm vi của văn hóa, Đề cương đã chỉ mối quan hệ giữa
văn hóa với kinh tế và chính trị: “... nền tảng kinh tế của một xã hội và chế độ
kinh tế dựng trên nền tảng ấy quyết định toàn bộ văn hóa của xã hội kia”[2]. Với
tư cách là một bộ phận của kiến trúc thượng tầng, văn hóa phản ánh và chịu sự
quy định của cơ sở hạ tầng. Đây chính là vấn đề cốt lõi trong quan niệm văn hóa
theo lập trường Mácxít. Theo đó, một xã hội xây dựng trên nền tảng của chế độ
chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất thì giai cấp thống trị từ chỗ nắm được tư
liệu sản xuất chủ yếu, đã tiến hành bóc lột về kinh tế, áp bức về chính trị và
nô dịch về văn hóa. Do vậy, cuộc đấu tranh giữa nhân dân lao động với giai cấp
bóc lột, thống trị bao giờ cũng diễn ra rất gay gắt trên cả ba lĩnh vực: Kinh tế,
chính trị và văn hóa. Trong bối cảnh đất nước đang bị nô lệ, áp bức thì vấn đề
lật đổ giai cấp thống trị, giành chính quyền về tay nhân dân là nhiệm vụ đặt
lên hàng đầu. Theo đó, phải hoàn thành cách mạng chính trị trước rồi mới tiến
hành cách mạng văn hóa “Cách mạng văn hóa phải đi sau cách mạng chính trị”.
Không
dừng lại ở đó, Đề cương còn công khai thể hiện quan điểm của Đảng đối với vấn đề
văn hóa: “Cách mạng văn hóa là một trong ba mặt trận (kinh tế, chính trị, văn
hóa) ở đó người cộng sản phải hoạt động” và “Cách mạng văn hóa muốn hoàn thành
phải do Đảng Cộng sản Đông Dương lãnh đạo”[2]. Việc xác định văn hóa là một mặt
trận mà Đảng phải quan tâm lãnh đạo là sự quán triệt chủ nghĩa Mác - Lênin vào
thực tiễn cách mạng Việt Nam. Quan điểm này vừa xuất phát từ tính tất yếu khách
quan trong việc nắm lấy lĩnh vực tư tưởng, văn hóa khi giai cấp thống trị lên nắm
quyền lãnh đạo xã hội vừa thể hiện tính tuyệt đối và toàn diện trong lãnh đạo mọi
mặt đời sống xã hội của Đảng. Đồng thời cũng thể hiện bản lĩnh của một Đảng
chân chính và cách mạng. Vì thời điểm Đảng ban hành Đề cương về văn hóa, chúng
ta còn chưa giành được chính quyền về tay nhân dân.
Thứ
ba, trên cơ sở phân tích lịch sử, tính chất văn hóa Việt Nam và chỉ rõ những
nguy cơ của văn hóa Việt Nam dưới ách phát xít Nhật - Pháp, Đề cương đã xác định
rõ mục tiêu cũng là tương lai của văn hóa Việt Nam: “Nền văn hóa mà cuộc cách mạng
văn hóa Đông Dương phải thực hiện sẽ là văn hóa xã hội chủ nghĩa”[5]. Để thực
hiện được mục tiêu này, Đề cương nêu những nguyên tắc lớn của cuộc vận động văn
hóa Việt Nam, phù hợp với yêu cầu của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân.
Đây là cuộc cách mạng có nhiệm vụ đánh đổ đế quốc, giải phóng dân tộc, xóa bỏ
chế độ phong kiến, giành quyền làm chủ cho nhân dân lao động. Nền văn hóa phục
vụ cho cuộc cách mạng ấy phải là nền văn hóa có tính dân tộc, tính khoa học và
tính đại chúng. Cuộc vận động văn hóa vì thế cũng phải được tiến hành theo ba
nguyên tắc: Dân tộc hóa, khoa học hóa, đại chúng hóa. Dân tộc hóa là chống mọi ảnh
hưởng nô dịch và thuộc địa khiến cho văn hóa Việt Nam phát triển độc lập. Khẳng
định phải dân tộc hóa vì văn hóa Việt Nam trải qua hàng trăm năm dưới ách áp bức
của thực dân đã và đang bị nô dịch và chia rẽ nặng nề. Đó là một nền văn hóa
thiếu hẳn tinh thần độc lập, tự do và thống nhất dân tộc. Khoa học hóa là chống
lại tất cả những cái gì làm cho văn hóa trái khoa học, phản tiến bộ. Đặt nguyên
tắc khoa học hóa lên vị trí ưu tiên vì một nền văn hóa muốn thực sự mang tính
cách mạng, trước hết nó phải có một nền tảng khoa học chắc chắn làm tiền đề.
Trong khi đó, ở một nước nông nghiệp lạc hậu thì chủ nghĩa kinh nghiệm thường lấn
át tri thức khoa học và khoa học trong một nước bị đô hộ thì khó mà được ưu
tiên phát triển. Đại chúng hóa là chống mọi chủ trương hành động làm cho văn
hóa phản lại đông đảo quần chúng hoặc xa đông đảo quần chúng. Ở một nước thuộc
địa còn nhiều tàn tích phong kiến lúc đó, phần lớn người dân bị mù chữ, không
có điều kiện thụ hưởng, tiếp thu tinh hoa văn hóa dân tộc và nhân loại, thậm
chí người dân bị gạt khỏi đời sống văn hóa. Vì vậy, nền văn hóa mới phải là văn
hóa của nhân dân, phục vụ nhân dân. Phải làm cho người dân biết đọc, biết viết,
biết thưởng thức và tham gia sáng tạo nghệ thuật. Ba nguyên tắc trên đây là ba
khâu có quan hệ chặt chẽ không thể tách rời và tác động lẫn nhau. Mỗi khâu
trong đó nhằm chống lại một trong ba nhược điểm, ba căn bệnh lớn của văn hóa Việt
Nam đương thời. Đồng thời, đây cũng là ba khẩu hiệu hành động, kêu gọi đội ngũ
trí thức tập hợp lực lượng, xây dựng một nền văn hóa mới cho tương lai của dân
tộc.
Sau
khi ra đời, Đề cương về văn hóa nhiều lần được bổ sung, hoàn thiện cùng tiến
trình phát triển của cách mạng Việt Nam. Tổng Bí thư Trường Chinh là người khởi
thảo Đề cương về văn hóa Việt Nam đồng thời, cũng là người tiếp tục bổ sung và
hoàn thiện đường lối văn hóa của Đảng cho phù hợp với yêu cầu của mỗi giai đoạn
cách mạng. Đặc biệt là trong báo cáo trình bày tại Hội nghị văn hóa toàn quốc lần
thứ hai (tháng 7/1948) với tiêu đề Chủ nghĩa Mác và văn hóa Việt Nam, Tổng Bí
thư Trường Chinh đã làm rõ hàng loạt vấn đề mà Đề cương về văn hóa chưa có điều
kiện trình bày hoặc trình bày một cách chưa đầy đủ, chưa thuyết phục, như: Khái
niệm mở rộng về văn hóa; về nội dung, tính chất, mối quan hệ giữa các nguyên tắc;
về tờrốtkít ở Việt Nam; về nội dung và hình thức của nền văn hóa mới cũng như vấn
đề kế thừa có chọn lọc các nền văn hóa khác nhau trên thế giới để làm giàu nền
văn hóa Việt Nam, về mối quan hệ giữa văn hóa và kinh tế, giữa nghệ thuật và
tuyên truyền... Tuy nhiên, chỉ với những luận điểm trên, Đề cương về văn hóa Việt
Nam xứng đáng là một văn kiện mang tầm vóc “cương lĩnh” của Đảng, là ngọn đuốc
sáng soi đường, chỉ lối và định hướng tư tưởng, nhận thức, phương châm hoạt động
văn hóa, văn nghệ cho toàn Đảng, toàn dân và cuộc đấu tranh cách mạng ở Việt
Nam.
2.Vận dụng và phát
triển Đề cương vào xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc hiện nay
Đảng ta nhận định, trong bối
cảnh tình hình kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội rất rối ren của đất
nước những năm 40 thế kỷ XX , Đảng cần phải có các tổ chức và đội ngũ cán bộ
chuyên môn hoạt động về văn hoá, văn nghệ để gây dựng và thúc đẩy phong trào
văn hoá tiến bộ, văn hoá cứu quốc nhằm chống lại văn hóa phong kiến bảo thủ,
lạc hậu...(Nguồn ảnh: https://quochoi.vn/)
Tám
mươi năm đã trôi qua kể từ khi Đề cương về văn hóa ra đời, cách mạng Việt Nam
đã trải qua một chặng đường dài với những giai đoạn lịch sử khác nhau. Ở mỗi
giai đoạn, gắn với mỗi nhiệm vụ chính trị, Đảng luôn điều chỉnh, bổ sung các
quan điểm chỉ đạo sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa để văn hóa có thể
phát huy một cách hiệu quả nhất góp phần phục vụ sự nghiệp cách mạng. Trong thời
kỳ đổi mới, với sự nhận thức về văn hóa được mở rộng và ngày càng sâu sắc, nhiều
nội dung đã được Đảng tiếp tục quán triệt, bổ sung và phát triển trở thành những
quan điểm chỉ đạo để xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam đáp ứng yêu cầu
phát triển bền vững đất nước hiện nay. Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp
hành Trung ương Đảng khoá VIII “về xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” (1998) được coi là bản “cương lĩnh thứ hai”
về văn hóa của Đảng - chỉ đạo sự nghiệp xây dựng và phát triển trong thời kỳ đổi
mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Và tiếp nối là Nghị quyết
Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI “về xây dựng và
phát triển văn hoá, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất
nước” (2014) như bản “cương lĩnh thứ ba về văn hóa”- bổ sung những quan điểm,
đường lối, nhiệm vụ xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam trong thời
kỳ hội nhập. Những định hướng lớn bao gồm:
Về
phạm vi và nội hàm của văn hóa: Đã được nhìn nhận một cách bao quát hơn, sâu
hơn, có sự gắn kết chặt chẽ tới đời sống và hoạt động xã hội trên mọi phương diện:
Chính trị, kinh tế, xã hội, luật pháp. Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII của Đảng
xác định: Văn hóa là toàn bộ những sáng tạo tinh thần, tạo nên nền tảng tinh thần
của xã hội, văn hóa không chỉ là văn học - nghệ thuật, mà bao gồm tám lĩnh vực
cơ bản: Tư tưởng, đạo đức, lối sống; môi trường văn hóa; giáo dục - đào tạo; hệ
thống thông tin đại chúng; di sản văn hóa; chính sách văn hóa đối với tôn giáo,
giao lưu, hợp tác quốc tế về văn hóa thể chế, thiết chế văn hóa. Trong đó 4
lĩnh vực: Tư tưởng, đạo đức, lối sống và đời sống văn hóa được xác định là những
lĩnh vực quan trọng nhất. Đồng thời, Đảng cũng khẳng định hệ giá trị chính là cốt
lõi của văn hóa cộng đồng, dân tộc: “Văn hóa chính là những gì tinh hoa, tinh
túy nhất, được chưng cất, kết tinh, hun đúc thành những giá trị tốt đẹp, cao
thượng, đặc sắc nhất, rất nhân văn, nhân ái, nhân tình, tiến bộ”[3, tr.17]. Nói
cách khác, văn hóa chính là “hồn cốt” của một dân tộc.
Về
vị trí, vai trò của văn hóa với phát triển: Với nhận thức văn hóa ở chiều sâu
như vậy, Đảng đã đặt văn hóa vào vị trí trung tâm, có mối quan hệ chặt chẽ với
mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Văn hóa trở thành “nền tảng tinh thần của xã
hội”, vừa đóng vai trò dẫn dắt, định hướng các lĩnh vực của đời sống xã hội; vừa
là bệ đỡ, điều tiết các mục tiêu của các lĩnh vực này. Với ý nghĩa như vậy, vai
trò của văn hóa đang thực sự trở thành “sức mạnh nội sinh” của sự phát triển bền
vững đất nước. Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII nêu rõ: “Chăm lo văn hóa là
chăm lo củng cố nền tảng tinh thần của xã hội. Thiếu nền tảng tinh thần tiến bộ
và lành mạnh, không quan tâm giải quyết tốt mối quan hệ giữa phát triển kinh tế
với tiến bộ và công bằng xã hội thì không thể có sự phát triển kinh tế - xã hội
bền vững”[1, tr.17]. Bổ sung và phát triển thêm một bước nữa, Nghị quyết Trung
ương 9 khóa XI (2014): Coi văn hóa là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự
phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh. Theo đó, văn hóa không chỉ tác động đến kinh tế -
xã hội mà tác động đến toàn bộ các lĩnh vực: Chính trị, kinh tế - xã hội, an
ninh, quốc phòng, ngoại giao... nói cách khác, văn hóa và phát triển bền vững
có mối quan hệ biện chứng, không thể tách rời. Phát biểu trong Hội nghị văn hóa
toàn quốc lần thứ 2 (11/2021), Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cũng khẳng định:
“Chúng ta coi văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, sức mạnh nội sinh, động
lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc; xác định phát triển văn hóa đồng bộ,
hài hòa với tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội là một định hướng
căn bản của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”[3, tr.27].
Về
mục tiêu và tính chất của nền văn hóa Việt Nam: Từ tổng kết thực tiễn xây dựng
văn hóa, trải qua quá trình tìm tòi không hề đơn giản, khắc phục những hạn chế,
đôi khi cả những nhận thức còn ít nhiều giáo điều, máy móc, Đảng đã bổ sung,
phát triển mục tiêu và tính chất của nền văn hóa Việt Nam. Từ nền văn hóa “dân
tộc về hình thức và tân dân chủ về nội dung”[1, tr. 320] được xác định trong Đề
cương trải qua các thời kỳ được điều chỉnh thành “nội dung xã hội chủ nghĩa và
hình thức dân tộc” (Đại hội III, 1960), rồi “nội dung xã hội chủ nghĩa và tính
chất dân tộc” (Đại hội IV, 1976) và hiện nay là “nền văn hóa tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc”. Và đây cũng chính là một trong tám đặc trưng của xã hội xã hội
chủ nghĩa Việt Nam đang xây dựng theo Cương lĩnh 2011 (sửa đổi, bổ sung) đã chỉ
ra.
Kết luận
Như vậy, kể từ khi Đề cương về văn hóa Việt Nam
ra đời, trong suốt 80 năm lãnh đạo sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hóa
Việt Nam, đường lối văn hóa của Đảng luôn có sự nhất quán, kế thừa; đồng thời
luôn được bổ sung, điều chỉnh và phát triển để phù hợp với yêu cầu cách mạng của
từng giai đoạn. Đây là kết quả của tư duy lý luận và tổng kết kinh nghiệm thực
tiễn trong quá trình lãnh đạo của Đảng trên mặt trận văn hóa đối với sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. 80 năm đã trôi qua, nhưng
những tư tưởng của bản Đề cương vẫn còn nguyên giá trị góp phần định hướng cho
sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước trong quá trình hội nhập
quốc tế.
Tài liệu tham khảo:
[1]Đảng
Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương
khóa VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
[2]Đảng
Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 7, Nxb. Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
[3]Nguyễn
Phú Trọng (2021), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.