Lợi
ích dân tộc là một khái niệm đa diện, phức tạp, có thể được tiếp cận dưới góc độ
là lợi ích dân tộc - quốc gia (nation-states) trong mối quan hệ giữa các quốc
gia, dân tộc trên trường quốc tế, hay lợi ích của dân tộc - tộc người (ethnic
groups) trong mối quan hệ giữa các tộc người, giữa tộc người với dân tộc - quốc
gia ở một quốc gia đa tộc người. Lợi ích dân tộc vừa mang tính lịch sử, vừa
mang tính giai cấp, là yếu tố, là động lực thúc đẩy tư duy và hành động của các
quốc gia, dân tộc trên thế giới.
Trong
bối cảnh quốc tế hiện nay, hòa bình, ổn định và hợp tác vẫn là xu hướng chủ đạo
trong quan hệ giữa các quốc gia, dân tộc. Thế giới dần trở nên đa cực, các quốc
gia, dân tộc với những lợi ích đan xen, phụ thuộc lẫn nhau, vừa hợp tác, vừa cạnh
tranh; trong nội bộ các quốc gia đa tộc người, mỗi tộc người dần hài hòa về mặt
lợi ích đảm bảo sự phát triển bền vững trong sự thống nhất với lợi ích của dân
tộc - quốc gia. Trước tình hình đó, Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn xác định “Bảo
đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc” trong quan hệ giữa dân tộc Việt Nam với
các quốc gia - dân tộc khác trên thế giới và trong giải quyết vấn đề quan hệ
dân tộc trong nước phù hợp với luật pháp quốc tế, với Hiến pháp và pháp luật Việt
Nam.
Nội
dung
Một là, bảo đảm lợi ích quốc gia dân tộc trong mối quan hệ với
quốc gia dân tộc khác
Mối
quan hệ của Việt Nam đã được mở rộng và đi vào chiều sâu với nhiều đối tác,
trong đó, có tất cả các đối tác quan trọng (Nguồn ảnh: https://baotintuc.vn/)
Đảng
Cộng sản Việt Nam ngay từ khi mới ra đời tới nay, trong quan hệ với các quốc
gia - dân tộc khác luôn thực hiện nhất quán nguyên tắc “đặt lợi ích quốc gia -
dân tộc lên trên hết, trước hết” trên cơ sở tôn trọng quyền và lợi ích hợp pháp
của các quốc gia - dân tộc khác, tôn trọng luật pháp quốc tế và đề cao vai trò
của các tổ chức quốc tế với trung tâm là tổ chức Liên Hợp Quốc (UN). Nguyên tắc
trên được thể hiện trước hết trong quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hoà sẵn sàng đặt mọi quan hệ thân thiện hợp tác với bất cứ một
nước nào trên nguyên tắc: tôn trọng sự hoàn chỉnh về chủ quyền và lãnh thổ của
nhau, không xâm phạm lẫn nhau, không can thiệp nội trị của nhau, bình đẳng cùng
có lợi, và chung sống hoà bình”[8, tr.12].
Theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, các quốc gia dân tộc trên thế giới đều
theo đuổi lợi ích tối cao của quốc gia - dân tộc mình, nhưng không làm tổn hại
đến lợi ích của quốc gia - dân tộc khác, trong quan hệ giữa các quốc gia dân tộc
cần đảm bảo sự bình đẳng trong quan hệ, đồng thời tôn trọng luật phát quốc tế
và vai trò của tổ chức Liên Hợp Quốc. Trong tác phẩm “Lời kêu gọi Liên Hợp Quốc”,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu rõ: “Đối với các nước dân chủ, nước Việt Nam sẵn
sàng thực thi chính sách mở cửa và hợp tác trong mọi lĩnh vực;.... Nước Việt
Nam chấp nhận tham gia mọi tổ chức hợp tác kinh tế quốc tế dưới sự lãnh đạo của
Liên Hợp Quốc”[7, tr.523].
Quan
điểm trên của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong quan hệ giữa Việt Nam với các quốc gia
- dân tộc khác trên toàn cầu đã được Đảng và Nhà nước Việt Nam quán triệt và đã
trở thành nguyên tắc nhất quán trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam qua
các thời kỳ, đặc biệt từ thời kỳ Đổi mới (1986) đến nay. Văn kiện Đại hội VI
xác định “...Đảng ta tiếp tục giương cao ngọn cờ hòa bình, độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội, kết hợp nhuần nhuyễn chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ
nghĩa quốc tế vô sản, giữ vững độc lập tự chủ, tăng cường hợp tác quốc tế, ra sức
làm tròn nhiệm vụ dân tộc và làm tốt nghĩa vụ quốc tế đối với nhân dân thế giới”[2, tr.109]. Qua luận điểm trên cho thấy Đảng và
Nhà nước Việt Nam luôn sẵn sàng và chủ động thiết lập mối quan hệ với các quốc
gia - dân tộc khác và cam kết thực hiện vai trò, trách nhiệm của mình khi tham
gia vào các quan hệ quốc tế vì hòa bình thế giới, độc lập dân tộc, dân chủ và
tiến bộ xã hội.
Chủ
trương, quan điểm trên của Đảng và Nhà nước Việt Nam tiếp tục được khẳng định
và bổ sung qua các kỳ đại hội. Trong quá trình hội nhập quốc tế, Đảng và Nhà nước
Việt Nam xác định “Tham gia các cơ chế hợp tác chính trị, an ninh, kinh tế song
phương và đa phương vì lợi ích quốc gia trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc cơ
bản của luật pháp quốc tế, Hiến chương Liên Hợp Quốc”[4,
tr.46]. Trong khi giữa các quốc gia - dân tộc trên toàn cầu có sự khác
biệt về chính trị, văn hóa, xã hội, ngôn ngữ, tôn giáo, trình độ phát triển và
theo đuổi những lợi ích khác nhau thì luật pháp quốc tế, Hiến chương Liên Hợp
Quốc là cơ sở để đảm bảo sự bình đẳng và điều hòa lợi ích giữa các quốc gia -
dân tộc trong mối quan hệ với các quốc gia - dân tộc khác. Đồng thời hệ thống
các tổ chức quốc tế được thành lập và hoạt động như Tổ chức Thương mại Thế giới
(WTO), Ngân hàng Thế giới (WB), Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), Tổ chức Y tế Thế giới
(WHO), v.v., với trung tâm là tổ chức Liên Hợp Quốc giúp điều hòa lợi ích giữa
các quốc gia - dân tộc trên cơ sở luật pháp quốc tế và sự đồng thuận. Ngoài ra,
quá trình toàn cầu hóa, đa phương hóa còn tạo điều kiện cho sự ra đời của các tổ
chức khu vực, liên khu vực cũng giúp điều hòa lợi ích của các quốc gia - dân tộc
trong khu vực và giữa các khu vực trên toàn cầu.
Chủ
trương, quan điểm trên của Đảng và Nhà nước Việt Nam tiếp tục được cụ thể hóa
trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII khi nhấn mạnh: “Bảo đảm lợi
ích tối cao của quốc gia - dân tộc, trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật
pháp quốc tế, bình đẳng và cùng có lợi...”[5,
tr.34]. Đặc biệt, trong bối cảnh thế giới hiện nay trật tự thế giới đang
có những diễn biến mới, có sự đan xen giữa các nhân tố cũ - mới; luật pháp quốc
tế đang đứng trước thách thức trước sự trở lại của chủ nghĩa cường quyền nước lớn,
chủ nghĩa dân tộc vị kỷ, hẹp hòi ở nhiều khu vực trên thế giới. Do vậy, lợi ích
quốc gia - dân tộc của các quốc gia - dân tộc đang phát triển chỉ có thể được bảo
đảm trong một trật tự quốc tế dựa trên luật lệ quốc tế và đa phương hóa, đa dạng
hóa. Trong bối cảnh hội nhập quốc tế, mọi quốc gia - dân tộc cho dù theo đuổi lợi
ích tối cao của quốc gia - dân tộc mình, cũng cần phải tuân thủ các quy định quốc
tế, chế định và nguyên tắc của các tổ chức quốc tế, đặc biệt là những điều ước
quốc tế mà quốc gia - dân tộc đã gia nhập. Tôn trọng và bảo vệ luật pháp quốc tế
cũng chính là nhằm bảo đảm cho lợi ích của quốc gia - dân tộc. Đối với Việt
Nam, lợi ích tối cao của quốc gia - dân tộc sẽ tiếp tục được bảo đảm khi Việt
Nam “chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, là đối tác tin cậy và thành
viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế...”[5,
tr.35]; đồng thời, giữ vững “độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn
lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ
nghĩa”[5, tr.20]. Đặc biệt trong quan hệ với
các quốc gia - dân tộc khác, Việt Nam xác định “Chủ động tham gia xây dựng các
nguyên tắc, chuẩn mực trong các thể chế đa phương, khu vực và toàn cầu; xử lý
đúng đắn, hiệu quả quan hệ với các nước láng giềng, các nước lớn, các đối tác
chiến lược, đối tác toàn diện và các đối tác khác”[6,
tr.69]. Trong những năm tới, Việt Nam tiếp tục kiên định trên con đường
độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia và chủ nghĩa xã hội trên cơ sở bảo đảm cao
nhất lợi ích quốc gia - dân tộc, đồng thời hài hòa và thúc đẩy lợi ích của các
quốc gia - dân tộc khác trong khu vực cũng như trên toàn cầu, vì hòa bình, dân
chủ, hợp tác phát triển và tiến bộ xã hội. Đây vừa là mục tiêu tiên quyết, vừa
kim chỉ nam cho hành động để Việt Nam hiện thực hóa khát vọng phát triển nhanh
và bền vững đất nước.
Hai là, bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc - hài hòa lợi ích giữa
các dân tộc - tộc người ở Việt Nam
Đại đoàn kết toàn dân tộc - sức
mạnh vô địch của dân tộc Việt Nam( Nguồn: https://tuyengiao.vn/)
Là
một quốc gia - dân tộc đa tộc người, vấn đề dân tộc và đoàn kết dân tộc là vấn
đề chiến lược, cơ bản, lâu dài, đồng thời cũng là vấn đề cấp bách của cách mạng
Việt Nam. Mỗi thời kỳ cách mạng, đặc biệt từ thời kỳ Đổi mới (1986) tới nay, Đảng
Cộng Sản Việt Nam đều có những quan điểm, chủ trương phù hợp với những yêu cầu,
đòi hỏi của tình hình thực tiễn trong quan hệ dân tộc ở Việt Nam. Những quan điểm,
chủ trương được thể hiện qua nhiều văn kiện quan trọng của Đảng, đặc biệt là
Văn kiện qua các kỳ Đại hội. Đại hội lần thứ VI đánh dấu sự đổi mới của Đảng và
Nhà nước Việt Nam trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có vấn đề về
dân tộc và quan hệ dân tộc, Báo cáo chính trị của Đại hội xác định: “Trong việc
phát triển kinh tế, xã hội ở những nơi có đông đồng bào các dân tộc thiểu số, cần
thể hiện đầy đủ chính sách dân tộc, phát triển mối quan hệ tốt đẹp gắn bó giữa
các dân tộc trên tinh thần đoàn kết, bình đẳng, giúp đỡ nhau cùng làm chủ tập
thể”[2, tr.97]. Văn kiện Đại hội khẳng định
các dân tộc Việt Nam, trong 54 dân tộc anh em, tất cả đều có quyền bình đẳng
như nhau, không có sự phân biệt đối xử vì bất cứ lý do nào; bình đẳng giữa các
dân tộc được bảo đảm không những trên phương diện sự ghi nhận và bảo vệ của Hiến
pháp và pháp luật đối với quyền, mà còn trên phương diện hưởng thụ về vật chất
và tinh thần hướng tới “phát triển mọi mặt của từng dân tộc đi liền với sự củng
cố, phát triển của cộng đồng các dân tộc trên đất nước ta”[2, tr.98]. Các quan điểm, chủ trương trên của Đảng
tiếp tục được Đại hội IX(2001) kế thừa và phát triển phù hợp với yêu cầu, đòi hỏi
mới của thực tiễn cách mạng Việt Nam. Đặc biệt, tại Hội nghị Trung ương 7 khóa
IX, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã thông qua Nghị quyết số
24- NQ/TW, ngày 12 tháng 03 năm 2003, về công tác dân tộc, khẳng định :“Các dân
tộc trong đại gia đình Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tương trợ, giúp nhau cùng
phát triển”[3, tr.48]. Để đạt được những mục
tiêu trên, trước hết các chính sách dân tộc cần tập trung vào phát triển giao
thông và cơ sở hạ tầng, xóa đói, giảm nghèo, nâng cao mức sống, khai thác có hiệu
quả tiềm năng, thế mạnh của từng vùng dân tộc thiểu số và miền núi, đi đôi với
bảo vệ bền vững môi trường sinh thái.
Đại
hội XII (2016) và Đại hội XIII (2021) của Đảng là những kỳ đại hội đề cập đến vấn
đề dân tộc và quan hệ dân tộc một cách toàn diện nhất, bao quát trên tất cả các
lĩnh vực, định hướng cho những chính sách về dân tộc của Nhà nước Việt Nam. Văn
kiện của Đảng xác định: “Tiếp tục hoàn thiện các cơ chế, chính sách, bảo đảm
các dân tộc bình đẳng, tôn trọng, đoàn kết, giải quyết hài hòa quan hệ giữa các
dân tộc, giúp nhau cùng phát triển...”[5, tr.164];
đồng thời, cần “Huy động, phân bổ, sử dụng, quản lý hiệu quả các nguồn lực để đầu
tư phát triển, tạo chuyển biến căn bản về kinh tế, văn hóa, xã hội ở vùng có
đông đồng bào dân tộc thiểu số”[6, tr.170].
Như vậy, đối với vấn đề dân tộc và quan hệ dân tộc, quan điểm, chủ trương của Đảng
và Nhà nước Việt Nam đã dần được hoàn thiện, thể hiện rõ. Trong giải quyết vấn
đề lợi ích giữa các dân tộc, đặc biệt là đối với các dân tộc thiểu số, cần tính
đến sự hài hòa về mặt lợi ích giữa các dân tộc. Hài hòa về lợi ích giữa các dân
tộc sẽ tạo cơ sở để bảo đảm bình đẳng dân tộc và đoàn kết dân tộc. Mỗi dân tộc
đều có sự khác biệt về địa bàn cư trú, tiếng nói, văn hóa, truyền thống, tập tục,
dẫn đến có sự phát triển không đồng đều. Thực tiễn là trong những năm qua, Đảng
và Nhà nước Việt Nam đã không ngừng có những chính sách đặc biệt quan tâm đầu
tư cho sự phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục cho các vùng dân tộc
thiểu số, đặc biệt là vùng núi, vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới. Các chính
sách dân tộc đã từng bước tiến tới xóa đói giảm nghèo bền vững, đảm bảo sự hưởng
thụ ngày càng cao về vật chất và tinh thần cho đồng bào dân tộc thiểu số. Các
dân tộc thiểu số được tạo điều kiện tham gia hệ thống chính trị, quản lý xã hội,
quản lý nhà nước. Tại Quốc hội khóa XIV nhiệm kỳ 2016-2021, số lượng đại biểu
người dân tộc thiểu số là 86 người, chiếm 17,3%; tỷ lệ cán bộ, công chức, viên
chức dân tộc thiểu số ở các tỉnh, thành, thành phố trực thuộc trung ương là
14,53%[1, tr.39]. Quyền tiếp cận giáo dục của
các dân tộc thiểu số được bảo đảm. Người dân tộc thiểu số được chăm sóc sức khỏe,
đảm bảo an sinh xã hội, văn hóa truyền thống được bảo tồn và phát huy. Đến năm
2019, 99,5% các xã vùng dân tộc thiểu số đã có trạm y tế; 91,3% xã có trường học
kiên cố, 100% trẻ em được đến trường; 97,2% thôn có điện lưới quốc gia[9, tr.14-15]. Các chính sách dân tộc hướng tới mục
tiêu chung mà Đảng và Nhà nước Việt Nam đã kiên trì thực hiện là “dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, là điểm tương đồng, tôn trọng sự khác biệt
giữa các dân tộc, vì lợi ích chung của quốc gia - dân tộc.
Ngoài
ra, vấn đề giải quyết hài hòa lợi ích dân tộc người Việt Nam ở nước ngoài cũng
luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm. Người Việt Nam ở nước ngoài là một bộ phận
không thể tách rời của người Việt Nam, các dân tộc Việt Nam, nhận thức và hành
động luôn vì lợi ích chung của quốc gia - dân tộc Việt Nam. Văn kiện Đại hội
XIII xác định “Hỗ trợ để người Việt Nam ở nước ngoài có địa vị pháp lý vững chắc,
phát triển kinh tế và đời sống, hòa nhập xã hội nước sở tại”, đồng thời “Tạo điều
kiện để đồng bào giữ gìn tiếng Việt, bản sắc văn hóa dân tộc, nâng cao lòng tự
hào, tự tôn dân tộc”[6, tr.171]. Đây chính
là cơ sở để giải quyết hài hòa lợi ích giữa các dân tộc nhằm bảo đảm và củng cố
sự đoàn kết giữa các dân tộc, giữa đồng bào Việt Nam ở trong nước với đồng bào
Việt Nam ở nước ngoài trong khối đại đoàn kết toàn dân.
Như
vậy, bảo đảm lợi ích quốc gia dân tộc luôn là nguyên tắc nhất quán, xuyên suốt
trong chủ trương, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam trong quá trình lãnh đạo
cách mạng Việt Nam qua các thời kỳ. Nguyên tắc này được thể hiện cụ thể, trước
hết, trong quan hệ giữa quốc gia - dân tộc Việt Nam với các quốc gia dân tộc
khác trên thế giới vì mục tiêu hòa bình, độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia và
toàn vẹn lãnh thổ. Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở tôn
trọng và bảo đảm lợi ích các quốc gia - dân tộc khác, tôn trọng luật pháp quốc
tế và Hiến chương Liên Hợp Quốc, đấu tranh chống áp bức, bất công, chủ nghĩa
dân tộc cường quyền, nước lớn. Bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc còn được thể
hiện trong giải quyết mối quan hệ giữa các dân tộc trong nước. Việt Nam là một
quốc gia đa tộc người; mỗi tộc người có sự khác biệt về địa bàn cư trú, văn
hóa, tập quán, tiếng nói, tín ngưỡng, trình độ phát triển. Ở mỗi thời kỳ cách mạng,
Đảng Cộng sản Việt Nam luôn có những chủ trương, quan điểm phù hợp với yêu cầu,
đòi hỏi của thực tiễn trong bảo đảm sự hài hòa về lợi ích giữa các dân tộc - tộc
người, tạo cơ sở vững chắc cho đoàn kết, bình đẳng, tôn trọng, giúp nhau cùng
phát triển giữa các dân tộc - tộc người. Lợi ích quốc gia dân tộc phải được đặt
lên trên hết; chỉ khi lợi ích quốc gia - dân tộc được bảo đảm thì lợi ích của
các dân tộc - tộc người mới được thực hiện.
Kết luận
Bảo
đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc là quan điểm xuyên suốt chi phối việc
hoạch định đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam từ thời kỳ Đổi mới
đến nay. Những thành tựu trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội của quốc gia -
dân tộc Việt Nam hiện nay đã thể hiện Đảng, Nhà nước đã đặt lợi ích của quốc
gia - dân tộc lên trên hết, trước hết, cùng với tôn trọng lợi ích chính đáng của
quốc gia - dân tộc khác là hoàn toàn đúng đắn.
Tài liệu
tham khảo:
[1] Bộ Ngoại giao (2018), Báo cáo quốc gia về
bảo vệ và thúc đẩy quyền con người ở Việt Nam theo Cơ chế rà soát định kỳ phổ
quát (UPR) Chu kỳ III, Hà Nội.
[2] Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb. Sự thật, Hà Nội.
[3] Đảng Cộng sản Việt Nam (2003), Văn kiện
Đảng toàn tập, tập 62, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
[4] Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
[5] Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
[6] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
[7] Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 4,
Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
[8] Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 10,
Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
[9] Trần Nam Tiến (2013), Lợi ích quốc gia
trong chính sách đối ngoại của Việt Nam thời kỳ đổi mới, Tạp chí Khoa học xã hội
Việt Nam, số 10 (71).
[10] Ủy ban Dân tộc và Tổng cục Thống kê
(2020), Kết quả điều tra thu thập thông tin về thực trạng kinh tế - xã hội của
53 dân tộc thiểu số năm 2019, Nxb. Thống kê, Hà Nội.