Thứ Bảy, ngày 01/07/2023, 11:21

Tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam và sự vận dụng của Đảng trong giai đoạn hiện nay

NGUYỄN THỊ QUYẾN
Học viện Chính trị khu vực I

(GDLL) - Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội là một trong những nội dung quan trọng trong tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng Việt Nam. Vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, Đảng luôn tìm tòi, tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận góp phần làm sáng tỏ hơn về vấn đề này. Bài viết khái quát tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội và sự phát triển nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Từ đó đặt ra yêu cầu, nhiệm vụ của Đảng trong quá trình lãnh đạo xây dựng đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc diễn văn khai mạc Đại hội đại biểu toàn quốc Đảng Lao động Việt Nam lần thứ III, ngày 5/9/1960 tại Hà Nội (Nguồn ảnh: http://dukcqtw.dcs.vn/)

1. Khái quát tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

Tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội được hình thành từ sớm khi Nguyễn Ái Quốc tìm ra đường lối giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản. Trong suốt cuộc đời hoạt động vừa đấu tranh cách mạng, vừa nghiên cứu lý luận Mác - Lênin, vừa làm công tác thực tế của mình, nhận thức của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ngày càng hoàn thiện, sáng tỏ hơn.

Người sớm xác định được phương hướng cứu nước: Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản. Người viết: “...chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”[9, tr.563], “chỉ có chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và giai cấp công nhân toàn thế giới’[10, tr.588]. Như vậy, với Nguyễn Ái Quốc, chỉ có chủ nghĩa xã hội mới cứu được nhân loại, mới thực sự đem lại độc lập, tự do, bình đẳng cho các dân tộc. “Chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới cứu nhân loại, đem lại cho mọi người không phân biệt chủng tộc và nguồn gốc sự tự do, bình đẳng, bác ái, đoàn kết, ấm no trên quả đất, việc làm cho mọi người và vì mọi người, niềm vui, hòa bình, hạnh phúc”[7, tr.496]. Từ trong quá trình hoạt động cách mạng của Người, quan điểm của Hồ Chí Minh về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ngày càng sáng tỏ.

Thứ nhất, về tính tất yếu và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ:

Một là, trả lời cho câu hỏi: Chủ nghĩa xã hội có thể áp dụng vào châu Á nói chung và Đông Dương nói riêng không? Nguyễn Ái Quốc trả lời ngay: hoàn toàn có thể được. Người lý giải và đặt vấn đề: phải nghiên cứu vấn đề này một cách nghiêm túc, do điều kiện lịch sử và truyền thống mà chủ nghĩa xã hội có thể thực hiện được ở châu Á nói chung và Đông Dương nói riêng.

Hai là, Nguyễn Ái Quốc đặt vấn đề: chủ nghĩa xã hội là gì? Quan niệm về chủ nghĩa xã hội thế nào cho đúng? Người đã trả lời câu hỏi này dưới một hình thức giản dị, trong sáng để ai cũng có thể hiểu được: là mọi người được ăn no, mặc ấm, sung sướng tự do, còn “xây dựng chủ nghĩa xã hội là thay đổi cả xã hội, thay đổi cả thiên nhiên, làm cho xã hội không còn người bóc lột người, không còn đói rét, mọi người đều được ấm no và hạnh phúc”[9, tr.221].

Ba là, Nguyễn Ái Quốc có một sự hiểu biết sâu sắc đất nước và con người, lịch sử và đấu tranh của nhân dân các nước thuộc địa. Theo Người, các nước thuộc địa nói chung và Đông Dương nói riêng đã có sẵn tiền đề cho sự gieo mầm của chủ nghĩa xã hội. Năm 1921, trong bài Đông Dương, Người đã viết: “Sự đầu độc có hệ thống của bọn tư bản thực dân không thể làm tê liệt sức sống, càng không thể làm tê liệt tư tưởng cách mạng của người Đông Dương... Sự tàn bạo của chủ nghĩa tư bản đã chuẩn bị đất rồi: Chủ nghĩa xã hội chỉ còn phải làm cái việc là gieo hạt giống của công cuộc giải phóng nữa thôi”[7, tr.40].

Bốn là, sự nghiệp giải phóng của dân tộc Việt Nam chỉ có thể đi đến thắng lợi triệt để nếu gắn với mục tiêu của chủ nghĩa cộng sản: gắn giải phóng dân tộc với chủ nghĩa cộng sản, gắn cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới. “Ngày mà hàng trăm triệu nhân dân châu Á bị tàn sát và áp bức thức tỉnh để gạt bỏ sự bóc lột đê tiện của một bọn thực dân lòng tham không đáy, họ sẽ hình thành một lực lượng khổng lồ, và trong khi thủ tiêu một trong những điều kiện tồn tại của chủ nghĩa tư bản là chủ nghĩa đế quốc, họ có thể giúp đỡ những người anh em mình ở phương Tây trong nhiệm vụ giải phóng hoàn toàn”[7, tr.48].

Năm là, Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (6/1 - 7/2/1930) đã thông qua Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt và Chương trình tóm tắt và Điều lệ vắn tắt do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo. Trong đó, Người xác định phương hướng chiến lược của cách mạng Việt Nam là: “làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng chỉ rõ phương hướng tiến lên của cách mạng Việt Nam là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Cương lĩnh cho rằng cách mạng Việt Nam phải trải qua hai giai đoạn: Giai đoạn cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa. Trước mắt chúng ta phải hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, có như vậy mới tạo được điều kiện để tiến chủ nghĩa xã hội.

Sau khi miền Bắc được hoàn toàn giải phóng (1954), nhiệm vụ khôi phục kinh tế, xây dựng và đưa miền Bắc theo con đường xã hội chủ nghĩa được đặt ra như một tất yếu lịch sử. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Đặc điểm to nhất là từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên CNXH không phải kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa”[9 tr.411]. “Cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa là một cuộc biến đổi khó khăn nhất và sâu sắc nhất”[8, tr.91-92]. Do đó, xây dựng chủ nghĩa xã hội phải lâu dài, phát triển dần dần, không thể nóng vội, “tiến lên chủ nghĩa xã hội, không thể một sớm một chiều”[10, tr.392].

Thứ hai, về nhiệm vụ lịch sử của thời kỳ quá độ, Người chỉ rõ “phải xây dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, đưa miền Bắc tiến dần lên chủ nghĩa xã hội, có công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, có văn hoá và khoa học tiên tiến. Trong quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa, chúng ta phải cải tạo nền kinh tế cũ và xây dựng nền kinh tế mới, mà xây dựng là nhiệm vụ chủ chốt và lâu dài”[9, tr.412]. Từ đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra những nhiệm vụ cụ thể cho từng lĩnh vực của xã hội ở thời kỳ quá độ: về chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội. Người nói về chủ nghĩa xã hội một cách thiết thực, cụ thể, dễ hiểu: “chủ nghĩa xã hội trước hết nhằm làm cho nhân dân lao động thoát nạn bần cùng, làm cho mọi người có công ăn việc làm, được ấm no và sống một đời hạnh phúc”[9, tr.415], “Chủ nghĩa xã hội là làm sao cho nhân dân đủ ăn, đủ mặc, ngày càng sung sướng, ai nấy được đi học, ốm đau có thuốc, già không lao động được thì nghỉ, những phong tục tập quán không tốt dần dần được xóa bỏ… Tóm lại, xã hội ngày càng tiến, vật chất ngày càng tăng, tinh thần ngày càng tốt, đó là chủ nghĩa xã hội”[10, tr.438].

Thứ ba, về những nhân tố bảo đảm thực hiện thắng lợi chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ đó là phải giữ vững và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng; nâng cao vai trò quản lý của Nhà nước; phát huy tính tích cực, chủ động của các tổ chức chính trị - xã hội; xây dựng đội ngũ cán bộ đủ đức và tài, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa.

Thứ tư, về bước đi, biện pháp, cách thức trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở phải nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo, chống giáo điều, rập khuôn kinh nghiệm nước ngoài, phải suy nghĩ tìm tòi, sáng tạo ra cách làm phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Cụ thể trong bước đi và cách làm chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, phải thể hiện được sự kết hợp giữa hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam: “xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam”. Khi giặc Mỹ mở rộng chiến tranh ra miền Bắc, ta có khẩu hiệu “vừa sản xuất, vừa chiến đấu”, “vừa chống Mỹ cứu nước, vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội”. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, xây dựng chủ nghĩa xã hội là sự nghiệp của dân, do dân, vì dân, vì vậy cách làm phải là “đem tài dân, sức dân, của dân để làm lợi cho dân”, đó là “chủ nghĩa xã hội nhân dân”.

2. Sự phát triển nhận thức của Đảng về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam thời kỳ đổi mới

Công cuộc đổi mới do Đảng khởi xướng từ Đại hội VI (1986) mở ra một bước chuyển cơ bản cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đại hội VII (1991) thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Cương lĩnh thể hiện nhận thức mới của Đảng về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Đảng không quan niệm chủ nghĩa xã hội là một mô hình cứng nhắc, bắt thực tiễn phải tuân theo, mà trái lại, đó là một hiện thực sinh động, có vận động và phát triển.

Đại hội VIII của Đảng (1996) đã tổng kết thực tiễn hơn 10 năm đổi mới, trong đó tuyên bố: “Nhiệm vụ đề ra cho chặng đường đầu của thời kỳ quá độ là chuẩn bị tiền đề cho công nghiệp hóa đã cơ bản hoàn thành cho phép chuyển sang thời kỳ mới đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”. Đảng nhận định: “Xét trên tổng thể, việc hoạch định và thực hiện đường lối đổi mới những năm qua về cơ bản là đúng đắn”[1, tr.67-68]. Đại hội IX của Đảng (2001) một lần nữa khẳng định: “Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh”[2, tr.20]. Đại hội X của Đảng (2006) khẳng định những thành tựu đạt được qua 20 năm tiến hành công cuộc đổi mới và chỉ rõ: “Nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ngày càng sáng tỏ hơn, hệ thống quan điểm lý luận về công cuộc đổi mới, về xã hội xã hội chủ nghĩa và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã hình thành trên những nét cơ bản”[3, tr.68].

Tổng kết 20 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đại hội XI (2011) khẳng định: “Sau 20 năm thực hiện Cương lĩnh, chúng ta đã giành được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử… Sức mạnh tổng hợp của đất nước đã tăng lên rất nhiều, tạo tiền đề để nước ta tiếp tục phát triển mạnh mẽ hơn theo con đường xã hội chủ nghĩa”[4, tr.20-21].

Đại hội XIII (2021) đánh dấu chặng đường 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đến Đại hội XIII, quan điểm của Đảng về chủ nghĩa xã hội ngày càng đầy đủ hơn, hoàn thiện hơn. Đại hội khẳng định: “Lý luận về đường lối đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam ngày càng hoàn thiện và từng bước được hiện thực hóa”[6, tr.103]. Mục tiêu, đặc trưng, những phương hướng cơ bản và những quan hệ lớn mang tính quy luật trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc tiếp tục được bổ sung, cụ thể hóa, phát triển với những nhận thức quan trọng. Về thực tiễn, đất nước đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện so với những năm trước đổi mới. Quy mô, trình độ nền kinh tế được nâng lên. Đời sống nhân dân cả về vật chất và tinh thần được cải thiện rõ rệt. Đảng nhận định: “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”[6, tr.104]. Những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử ấy đã khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội là hoàn toàn phù hợp với thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại.

3. Những yêu cầu vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam giai đoạn hiện nay

Một là, luôn kiên định, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong quá trình xây dựng, phát triển đất nước. Đây vừa là yêu cầu, vừa là bài học hàng đầu của Đảng trong quá trình lãnh đạo đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội.

Hai là, trong mọi công việc của Đảng và Nhà nước, phải luôn quán triệt sâu sắc quan điểm “dân là gốc”; “thật sự tin tưởng, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, kiên trì thực hiện phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng””[6, tr.96]. Nhân dân là trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ yêu cầu, nguyện vọng, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân; thắt chặt mối quan hệ mật thiết với nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng; lấy hạnh phúc, ấm no của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu; củng cố và tăng cường niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa.

Ba là, đẩy mạnh tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, hoàn thiện hệ thống lý luận về đường lối đổi mới, cần có những đánh giá khách quan về những thành tựu đã đạt được và những bất cập, hạn chế, khuyết điểm; để có nhận thức ngày càng sáng rõ hơn về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đặc biệt, cần tập trung nghiên cứu làm rõ một cách tổng quát lộ trình và những chặng đường của thời kỳ quá độ; nội dung cơ bản của từng chặng đường đó...; những thành tựu đã đạt được và hạn chế trong nhiệm vụ xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật ở các chặng đường đã qua của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

Bốn là, tích cực đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh - nền tảng tư tưởng của Đảng và con đường phát triển của đất nước. Hiện nay, các thế lực thù địch đẩy mạnh hoạt động chống phá, tiến hành chiến lược “diễn biến hòa bình”, với nhiều thủ đoạn hết sức tinh vi, thâm độc trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có lĩnh vực tư tưởng, lý luận, với mục tiêu nhằm phủ nhận bản chất khoa học, cách mạng nền tảng tư tưởng của Đảng, xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng và thành tựu của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội của Việt Nam.

Kết luận

Có thể nói, tiến lên chủ nghĩa xã hội là con đường tất yếu khách quan, hợp quy luật ở Việt Nam. Tư tưởng Hồ Chí Minh về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là kim chỉ nam soi tỏ con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội, mang lại tự do, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân. Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng đã không ngừng tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, nhận thức và vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh, đề ra và thực hiện những yêu cầu, nhiệm vụ mới để đưa cách mạng Việt Nam đạt được nhiều thành tựu to lớn hơn nữa, góp phần hiện thực hóa mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

Tài liệu tham khảo:

1. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

3. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

4. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

5. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội.

6. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.

7. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 1, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

8. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 11, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

9. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 12, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

10. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 10, 13,15, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.


Đọc thêm

Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng trong tác phẩm "Sửa đối lối làm việc" đối với rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên hiện nay

Tác giả: TRẦN THỊ THIỀU HOA - ĐẶNG MINH PHỤNG

(GDLL) - Giáo dục đạo đức cho cán bộ, đảng viên là vấn đề được Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm trong quá trình xây dựng Đảng. Người thường xuyên nhắc nhở cán bộ, đảng viên phải rèn luyện, trau dồi, giữ vững đạo đức cách mạng. Trên cơ sở truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc, chắt lọc tinh hoa đạo đức nhân loại, Người phát triển và sáng tạo những giá trị đạo đức mới phù hợp với điều kiện Việt Nam. Bài viết tìm hiểu việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” đối với việc rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên hiện nay.

Bồi dưỡng, nâng cao năng lực, phẩm chất cho đội ngũ cán bộ tuyên giáo, nhà báo ở Việt Nam hiện nay

Tác giả: Ngô Quang Trung

(GDLL) - Bồi dưỡng, nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ tuyên giáo, nhà báo đóng vai trò hết sức quan trọng trong thực hiện nhiệm vụ chính trị của Đảng và Nhà nước hiện nay. Bài viết tập trung làm rõ những yêu cầu về năng lực, phẩm chất của cán bộ tuyên giáo, nhà báo trong bồi dưỡng nâng cao, quán triệt theo tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng. Trên cơ sở đó, đề xuất một số giải pháp nhằm bồi dưỡng, nâng cao năng lực, phẩm chất cho đội ngũ cán bộ tuyên giáo, nhà báo đáp ứng yêu cầu trong bối cảnh mới ở Việt Nam hiện nay.

Vận dụng sáng tạo hình thức đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng giai đoạn 1930-1945 vào thực tiễn ở Việt Nam hiện nay

Tác giả: BIỆN THỊ HOÀNG NGỌC

(GDLL) - Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo cuộc đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong suốt tiến trình cách mạng Việt Nam bằng nhiều phương thức phong phú, sáng tạo, hiệu quả. Bài viết trình bày sự sáng tạo, đa dạng hóa các hình thức đấu tranh phản bác các quan điểm chống phá nền tảng tư tưởng của Đảng giai đoạn 1930-1945 và một số vấn đề cần vận dụng trong đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng hiện nay.

Quan điểm Hồ Chí Minh về nâng cao trình độ dân trí cho nhân dân và sự vận dụng của Đảng trong thời kỳ đổi mới

Tác giả: NGUYỄN THỊ THU HUYỀN

(GDLL) - Trong bối cảnh một thế giới đang có nhiều đổi thay mạnh mẽ như hiện nay, việc nâng cao dân trí cho Nhân dân không chỉ là điều kiện để đem lại cuộc sống tốt đẹp cho mỗi người dân và xã hội mà hơn thế nữa, nó còn mang ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển bền vững và tiến bộ của đất nước. Vì vậy, bài viết tập trung phân tích một số quan điểm cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về nâng cao trình độ dân trí cho Nhân dân, từ đó chỉ ra sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam trong công cuộc đổi mới hiện nay.

Nhận diện và phản bác quan điểm sai trái, thù địch trên không gian mạng về vấn đề "tự do tôn giáo"

Tác giả: NGUYỄN GIA HÙNG - KIM THỊ MỘNG NHI

(GDLL) - Không gian mạng có thể được hiểu là một không gian ảo, nơi con người có thể thực hiện các hành vi xã hội mà không bị giới hạn về không gian và thời gian. Đây là nơi dễ bị kẻ xấu, các thế lực thù địch sử dụng nhằm thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật, đặc biệt là lợi dụng về vấn đề “tự do tôn giáo”. Bài viết bước đầu nhận diện các quan điểm sai trái, thù địch lợi dụng vấn đề “tự do tôn giáo” trên không gian mạng. Trên có sở đó, bài viết đưa ra các luận cứ nhằm đấu tranh và phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trên không gian mạng về vấn đề “tự do tôn giáo”.