1. Khái
quát tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Tư tưởng Hồ Chí Minh về con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội được hình thành từ sớm khi Nguyễn Ái Quốc tìm ra
đường lối giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản. Trong suốt cuộc
đời hoạt động vừa đấu tranh cách mạng, vừa nghiên cứu lý luận Mác - Lênin, vừa
làm công tác thực tế của mình, nhận thức của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ngày càng hoàn thiện, sáng tỏ hơn.
Người sớm xác định
được phương hướng cứu nước: Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, không có con
đường nào khác con đường cách mạng vô sản. Người viết: “...chỉ có chủ nghĩa xã
hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những
người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”[9, tr.563], “chỉ có chủ nghĩa xã hội và
chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và giai cấp công
nhân toàn thế giới’[10,
tr.588]. Như vậy, với Nguyễn Ái Quốc, chỉ có chủ nghĩa xã hội mới
cứu được nhân loại, mới thực sự đem lại độc lập, tự do, bình đẳng cho các dân
tộc. “Chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới cứu nhân loại, đem lại cho mọi người không
phân biệt chủng tộc và nguồn gốc sự tự do, bình đẳng, bác ái, đoàn kết, ấm no
trên quả đất, việc làm cho mọi người và vì mọi người, niềm vui, hòa bình, hạnh
phúc”[7, tr.496].
Từ trong quá trình hoạt động cách mạng của Người, quan điểm của Hồ Chí Minh về
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ngày càng sáng tỏ.
Thứ
nhất, về tính tất yếu và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã chỉ rõ:
Một là, trả lời cho câu hỏi: Chủ nghĩa xã
hội có thể áp dụng vào châu Á nói chung và Đông Dương nói riêng không? Nguyễn
Ái Quốc trả lời ngay: hoàn toàn có thể được. Người lý giải và đặt vấn đề: phải
nghiên cứu vấn đề này một cách nghiêm túc, do điều kiện lịch sử và truyền thống
mà chủ nghĩa xã hội có thể thực hiện được ở châu Á nói chung và Đông Dương nói
riêng.
Hai là, Nguyễn Ái Quốc đặt vấn đề: chủ
nghĩa xã hội là gì? Quan niệm về chủ nghĩa xã hội thế nào cho đúng? Người đã
trả lời câu hỏi này dưới một hình thức giản dị, trong sáng để ai cũng có thể
hiểu được: là mọi người được ăn no, mặc ấm, sung sướng tự do, còn “xây dựng chủ
nghĩa xã hội là thay đổi cả xã hội, thay đổi cả thiên nhiên, làm cho xã hội
không còn người bóc lột người, không còn đói rét, mọi người đều được ấm no và
hạnh phúc”[9, tr.221].
Ba là, Nguyễn Ái Quốc có một sự hiểu biết sâu sắc đất
nước và con người, lịch sử và đấu tranh của nhân dân các nước thuộc địa. Theo
Người, các nước thuộc địa nói chung và Đông Dương nói riêng đã có sẵn tiền đề
cho sự gieo mầm của chủ nghĩa xã hội. Năm 1921, trong bài Đông Dương, Người đã
viết: “Sự đầu độc có hệ thống của bọn tư bản thực dân không thể làm tê liệt sức
sống, càng không thể làm tê liệt tư tưởng cách mạng của người Đông Dương... Sự
tàn bạo của chủ nghĩa tư bản đã chuẩn bị đất rồi: Chủ nghĩa xã hội chỉ còn phải
làm cái việc là gieo hạt giống của công cuộc giải phóng nữa thôi”[7, tr.40].
Bốn là, sự nghiệp giải phóng của dân tộc Việt
Nam chỉ có thể đi đến thắng lợi triệt để nếu gắn với mục tiêu của chủ nghĩa
cộng sản: gắn giải phóng dân tộc với chủ nghĩa cộng sản, gắn cách mạng Việt Nam
với cách mạng thế giới. “Ngày mà hàng trăm triệu nhân dân châu Á bị tàn sát và
áp bức thức tỉnh để gạt bỏ sự bóc lột đê tiện của một bọn thực dân lòng tham
không đáy, họ sẽ hình thành một lực lượng khổng lồ, và trong khi thủ tiêu một
trong những điều kiện tồn tại của chủ nghĩa tư bản là chủ nghĩa đế quốc, họ có
thể giúp đỡ những người anh em mình ở phương Tây trong nhiệm vụ giải phóng hoàn
toàn”[7, tr.48].
Năm là, Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản
Việt Nam (6/1 - 7/2/1930) đã thông qua Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt
và Chương trình tóm tắt và Điều lệ vắn tắt do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo. Trong
đó, Người xác định phương hướng chiến lược của cách mạng Việt Nam là: “làm tư
sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Cương
lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng chỉ rõ phương hướng tiến lên của cách mạng
Việt Nam là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Cương lĩnh cho rằng
cách mạng Việt Nam phải trải qua hai giai đoạn: Giai đoạn cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân và giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa. Trước mắt chúng ta phải
hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, có như vậy mới tạo được
điều kiện để tiến chủ nghĩa xã hội.
Sau
khi miền Bắc được hoàn toàn giải phóng (1954), nhiệm vụ khôi phục kinh tế, xây
dựng và đưa miền Bắc theo con đường xã hội chủ nghĩa được đặt ra như một tất
yếu lịch sử. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Đặc điểm to nhất là từ một nước
nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên CNXH không phải kinh qua giai đoạn phát
triển tư bản chủ nghĩa”[9
tr.411]. “Cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa là một cuộc biến đổi
khó khăn nhất và sâu sắc nhất”[8,
tr.91-92]. Do đó, xây dựng chủ nghĩa xã hội phải lâu dài, phát
triển dần dần, không thể nóng vội, “tiến lên chủ nghĩa xã hội, không thể một
sớm một chiều”[10, tr.392].
Thứ
hai, về nhiệm vụ lịch sử của thời kỳ quá độ, Người chỉ rõ “phải xây dựng nền
tảng vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, đưa miền Bắc tiến dần lên chủ
nghĩa xã hội, có công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, có văn hoá và khoa học
tiên tiến. Trong quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa, chúng ta phải cải tạo
nền kinh tế cũ và xây dựng nền kinh tế mới, mà xây dựng là nhiệm vụ chủ chốt và
lâu dài”[9, tr.412].
Từ đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra những nhiệm vụ cụ thể cho từng lĩnh vực của xã hội
ở thời kỳ quá độ: về chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội. Người nói về chủ
nghĩa xã hội một cách thiết thực, cụ thể, dễ hiểu: “chủ nghĩa xã hội trước hết
nhằm làm cho nhân dân lao động thoát nạn bần cùng, làm cho mọi người có công ăn
việc làm, được ấm no và sống một đời hạnh phúc”[9, tr.415], “Chủ nghĩa xã hội là làm sao
cho nhân dân đủ ăn, đủ mặc, ngày càng sung sướng, ai nấy được đi học, ốm đau có
thuốc, già không lao động được thì nghỉ, những phong tục tập quán không tốt dần
dần được xóa bỏ… Tóm lại, xã hội ngày càng tiến, vật chất ngày càng tăng, tinh
thần ngày càng tốt, đó là chủ nghĩa xã hội”[10, tr.438].
Thứ
ba, về những nhân tố bảo đảm thực hiện thắng lợi chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ đó là phải giữ vững và tăng
cường vai trò lãnh đạo của Đảng; nâng cao vai trò quản lý của Nhà nước; phát
huy tính tích cực, chủ động của các tổ chức chính trị - xã hội; xây dựng đội
ngũ cán bộ đủ đức và tài, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp cách mạng xã hội chủ
nghĩa.
Thứ
tư, về bước đi, biện pháp, cách thức trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở phải nêu cao tinh
thần độc lập, tự chủ, sáng tạo, chống giáo điều, rập khuôn kinh nghiệm nước ngoài,
phải suy nghĩ tìm tòi, sáng tạo ra cách làm phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Cụ
thể trong bước đi và cách làm chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, phải thể hiện được
sự kết hợp giữa hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam: “xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân ở miền Nam”. Khi giặc Mỹ mở rộng chiến tranh ra miền Bắc, ta có khẩu hiệu
“vừa sản xuất, vừa chiến đấu”, “vừa chống Mỹ cứu nước, vừa xây dựng chủ nghĩa
xã hội”. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, xây dựng chủ nghĩa xã hội là sự nghiệp của dân, do
dân, vì dân, vì vậy cách làm phải là “đem tài dân, sức dân, của dân để làm lợi
cho dân”, đó là “chủ nghĩa xã hội nhân dân”.
2. Sự
phát triển nhận thức của Đảng về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
thời kỳ đổi mới
Công
cuộc đổi mới do Đảng khởi xướng từ Đại hội VI (1986) mở ra một bước chuyển cơ
bản cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đại hội VII (1991)
thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội. Cương lĩnh thể hiện nhận thức mới của Đảng về
chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Đảng không quan niệm chủ
nghĩa xã hội là một mô hình cứng nhắc, bắt thực tiễn phải tuân theo, mà trái
lại, đó là một hiện thực sinh động, có vận động và phát triển.
Đại
hội VIII của Đảng (1996) đã tổng kết thực tiễn hơn 10 năm đổi mới, trong đó
tuyên bố: “Nhiệm vụ đề ra cho chặng đường đầu của thời kỳ quá độ là chuẩn bị
tiền đề cho công nghiệp hóa đã cơ bản hoàn thành cho phép chuyển sang thời kỳ
mới đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”. Đảng nhận định: “Xét trên
tổng thể, việc hoạch định và thực hiện đường lối đổi mới những năm qua về cơ
bản là đúng đắn”[1, tr.67-68].
Đại hội IX của Đảng (2001) một lần nữa khẳng định: “Đảng và nhân dân ta quyết
tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng
chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh”[2, tr.20]. Đại hội X của Đảng
(2006) khẳng định những thành tựu đạt được qua 20 năm tiến hành công cuộc đổi
mới và chỉ rõ: “Nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội ngày càng sáng tỏ hơn, hệ thống quan điểm lý luận về công cuộc đổi mới, về
xã hội xã hội chủ nghĩa và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã hình
thành trên những nét cơ bản”[3,
tr.68].
Tổng
kết 20 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội, Đại
hội XI (2011) khẳng định: “Sau 20 năm thực hiện Cương lĩnh, chúng ta đã giành
được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử… Sức mạnh tổng hợp của đất nước
đã tăng lên rất nhiều, tạo tiền đề để nước ta tiếp tục phát triển mạnh mẽ hơn
theo con đường xã hội chủ nghĩa”[4,
tr.20-21].
Đại hội XIII (2021) đánh dấu chặng đường 35 năm thực hiện
công cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đến Đại hội XIII, quan điểm của Đảng về chủ nghĩa
xã hội ngày càng đầy đủ hơn, hoàn thiện hơn. Đại hội khẳng định: “Lý luận về
đường lối đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của
Việt Nam ngày càng hoàn thiện và từng bước được hiện thực hóa”[6, tr.103]. Mục
tiêu, đặc trưng, những phương hướng cơ bản và những quan hệ lớn mang tính quy
luật trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc tiếp tục được
bổ sung, cụ thể hóa, phát triển với những nhận thức quan trọng. Về thực tiễn,
đất nước đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển
mạnh mẽ, toàn diện so với những năm trước đổi mới. Quy mô, trình độ nền kinh tế
được nâng lên. Đời sống nhân dân cả về vật chất và tinh thần được cải thiện rõ
rệt. Đảng nhận định: “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế
và uy tín quốc tế như ngày nay”[6,
tr.104]. Những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử ấy đã khẳng
định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội là hoàn toàn phù hợp với thực tiễn Việt
Nam và xu thế phát triển của thời đại.
3. Những
yêu cầu vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam giai đoạn hiện nay
Một là, luôn kiên định,
vận dụng sáng tạo và phát triển chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong quá trình xây dựng, phát triển
đất nước. Đây vừa là yêu cầu, vừa là bài học hàng đầu của Đảng trong quá trình
lãnh đạo đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Hai là, trong mọi công việc của Đảng và Nhà
nước, phải luôn quán triệt sâu sắc quan điểm “dân là gốc”; “thật sự tin tưởng,
tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, kiên trì thực hiện phương
châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng””[6, tr.96]. Nhân dân
là trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; mọi
chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ yêu cầu, nguyện vọng, quyền và
lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân; thắt chặt mối quan hệ mật thiết với
nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng; lấy hạnh phúc, ấm no của nhân dân
làm mục tiêu phấn đấu; củng cố và tăng cường niềm tin của nhân dân đối với
Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa.
Ba là, đẩy mạnh tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, hoàn
thiện hệ thống lý luận về đường lối đổi mới, cần có những đánh giá khách quan
về những thành tựu đã đạt được và những bất cập, hạn chế, khuyết điểm; để có
nhận thức ngày càng sáng rõ hơn về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam. Đặc biệt, cần tập trung nghiên cứu làm rõ một cách tổng quát lộ trình và
những chặng đường của thời kỳ quá độ; nội dung cơ bản của từng chặng đường đó...;
những thành tựu đã đạt được và hạn chế trong nhiệm vụ xây dựng cơ sở vật chất
kỹ thuật ở các chặng đường đã qua của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam.
Bốn là, tích cực đấu tranh phản bác
các quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh - nền tảng tư tưởng của Đảng và con đường phát triển của đất nước. Hiện nay, các thế lực thù địch đẩy mạnh hoạt động chống
phá, tiến hành chiến lược “diễn biến hòa bình”, với nhiều thủ đoạn hết sức tinh
vi, thâm độc trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có lĩnh vực tư
tưởng, lý luận, với mục tiêu nhằm phủ nhận bản chất khoa học, cách mạng nền
tảng tư tưởng của Đảng, xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng và thành tựu của sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội của Việt Nam.
Kết luận
Có thể nói, tiến lên chủ nghĩa xã hội
là con đường tất yếu khách quan, hợp quy luật ở Việt Nam. Tư tưởng Hồ Chí Minh
về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là kim chỉ nam soi tỏ con đường tiến lên
chủ nghĩa xã hội, mang lại tự do, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân. Quán triệt tư
tưởng Hồ Chí Minh về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng đã không ngừng
tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, nhận thức và vận dụng sáng tạo tư tưởng
Hồ Chí Minh, đề ra và thực hiện những yêu cầu, nhiệm vụ mới để đưa cách mạng
Việt Nam đạt được nhiều thành tựu to lớn hơn nữa, góp phần hiện thực hóa mục
tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Tài liệu tham khảo:
1. Đảng Cộng sản
Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
2. Đảng Cộng sản
Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
3. Đảng Cộng sản
Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
4. Đảng
Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
5. Đảng Cộng sản Việt
Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII,
Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội.
6. Đảng Cộng sản Việt
Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII,
tập I, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.
7. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 1, Nxb. Chính trị quốc gia -
Sự thật, Hà Nội.
8. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 11, Nxb. Chính trị quốc gia
- Sự thật, Hà Nội.
9. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 12, Nxb. Chính trị quốc gia
- Sự thật, Hà Nội.
10. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 10, 13,15, Nxb. Chính trị
quốc gia - Sự thật, Hà Nội.