Phiên thảo luận về tình hình phát triển kinh tế-xã hội trong bối cảnh Cuộc cách mạng công
nghiệp lần thứ tư. Ảnh: Đăng
Khoa
Kinh tế số (KTS) được xác định là một
trong những trụ cột quan trọng và đóng vai trò thiết yếu đối với tăng trưởng
kinh tế, tạo bước đột phá cho các quốc gia. Để thúc đẩy chuyển đổi số quốc gia
và tạo đà cho nền kinh tế số phát triển thì “thể chế cần đi trước một bước khi
có thể”. Nghị quyết số 52-NQ/TW ngày 27/9/2019 của Bộ Chính trị về một số chủ
trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã
đề ra chủ trương: “Hoàn thiện thể chế tạo
thuận lợi cho chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và quá
trình chuyển đổi số quốc gia”[1].
Mới đây, trong Quyết định số 411/QĐ-TTg ngày 31/3/2022 phê duyệt “Chiến lược
quốc gia phát triển kinh tế số và xã hội số đến năm 2025, định hướng đến năm
2030” cũng đã nêu rõ quan điểm: “Thể chế
kiến tạo phát triển kinh tế số và xã hội số, đóng vai trò quyết định trong việc
thúc đẩy đổi mới sáng tạo và bảo đảm trách nhiệm tuân thủ pháp luật như nhau
giữa doanh nghiệp trong nước và nước ngoài”[5]. Tuy nhiên, cho đến nay thể chế về kinh
tế số ở Việt Nam vẫn còn tồn tại một số hạn chế. Chính vì vậy, việc nghiên cứu
một số vấn đề lý luận thể chế về kinh tế số, đồng thời xác định những bất cập,
hạn chế trong thể chế về kinh tế số ở Việt Nam hiện nay, từ đó đề xuất một số
giải pháp nhằm hoàn thiện thể chế về kinh tế số Việt Nam trong thời gian tới có
ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn.
1. Một số vấn đề lý
luận liên quan đến thể chế về kinh tế số
Kinh tế số là hoạt động kinh tế sử
dụng công nghệ số và dữ liệu số làm yếu tố đầu vào chính, sử dụng môi trường số
làm không gian hoạt động chính, sử dụng công nghệ thông tin - viễn thông để
tăng năng suất lao động, đổi mới mô hình kinh doanh và tối ưu hóa cấu trúc nền
kinh tế[4].
Thể chế là những quy tắc, luật pháp,
bộ máy quản lý và cơ chế vận hành nhằm điều chỉnh các hoạt động của con người
trong một chế độ xã hội[1]. Thể chế có thể được phân loại thành: thể chế chính
trị; thể chế kinh tế; thể chế xã hội. Thể chế kinh tế là những quy tắc, luật
pháp, bộ máy quản lý và cơ chế vận hành nhằm điều chỉnh hành vi của các chủ thể
trong nền kinh tế. Thể chế về kinh tế số thuộc thể chế kinh tế.
Từ khái niệm kinh
tế số và khái niệm thể chế kinh tế, có thể hiểu một cách ngắn gọn: thể chế về kinh tế số là những quy tắc, luật pháp, bộ
máy quản lý và cơ chế vận hành nhằm điều chỉnh hành vi của các chủ thể tham gia
vào nền kinh tế số.
Nội dung hoàn thiện thể chế về kinh tế
số bao gồm:
Một là, hoàn thiện những quy
tắc, luật pháp điều chỉnh hành vi của các chủ thể tham gia nền kinh tế số.
Hai là, hoàn thiện bộ máy quản
lý và cơ chế vận hành nền kinh tế số.
Hoàn thiện những quy tắc, luật pháp,
bộ máy quản lý và cơ chế vận hành này sẽ hướng tới xây dựng các yếu tố nền tảng
cần thiết để các quốc gia có thể thực hiện chuyển đổi số thành công, nâng cao
năng suất, góp phần chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng tăng trưởng nhanh
hơn và bền vững hơn.
2. Thực trạng thể chế
về kinh tế số ở Việt Nam và một số bất cập, hạn chế
2.1. Kết quả đạt được trong xây dựng thể chế về kinh tế số ở Việt Nam thời quan qua
Trên cơ sở quan điểm, đường lối của
Đảng, đặc biệt là Nghị quyết 52-NQ/TW ngày 27/9/2019 của Bộ Chính trị về một số
chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư,
trong những năm gần đây nhà nước Việt Nam đã thường xuyên ban hành các chiến
lược, chương trình và kế hoạch tổng thể liên quan đến phát triển kinh tế số, có
thể kể đến như: Quy hoạch phát triển an ninh Công nghệ thông tin ban hành năm
2020; Chương trình mục tiêu phát triển Công nghệ thông tin giai đoạn 2020 -
2025; Chương trình hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo đến năm
2025; Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021-2025; Chương trình hành
động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII
của Đảng; Chương trình hành động của Chính phủ nhiệm kỳ 2021-2026 thực hiện
Nghị quyết của Quốc hội về Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm
2021-2025…
Nhà nước cũng liên tục cập nhật về các
văn bản pháp lý liên quan đến nền kinh tế số. Ứng phó với những rủi ro về quyền
riêng tư, rủi ro trong kinh doanh trên thị trường thương mại điện tử, bảo mật
doanh nghiệp, bí mật quốc gia, Nhà nước đã ban hành các Bộ Luật và các chính
sách phù hợp để có thể giảm thiểu rủi ro cũng như tạo ra sự thuận lợi để phát
triển kinh tế số. Chính phủ cũng đã ban hành các văn bản hướng dẫn để tạo khung
pháp lý cho kinh tế số được vận hành thông thoáng (Xem thêm bảng 1).
Hiện nay, vai trò của các cơ quan
trong bộ máy quản lý và phát triển nền kinh tế số ở Việt Nam là khá rõ ràng:
- Ngân hàng Nhà nước có
chức năng điều tiết các hoạt động về ngân hàng điện tử, công nghệ tài chính,
thanh toán điện tử và phi tiền mặt;
- Bộ Khoa học và Công nghệ điều tiết các hoạt
động về Nghiên cứu & Phát triển, đổi mới sáng tạo, đẩy mạnh việc ứng dụng,
nghiên cứu, phát triển và chuyển giao các công nghệ chủ chốt của cuộc cách mạng
công nghiệp 4.0;
- Bộ Thông tin và Truyền thông điều tiết và lập
kế hoạch phát triển trong lĩnh vực xuất bản, truyền thông, thông tin, bưu
chính, công nghệ thông tin và truyền thông (CNTT&TT), phát thanh và hệ
thống thông tin quốc gia;
Bảng 1: Các văn bản pháp luật liên quan đến phát triển kinh
tế số của Việt Nam
Năm
|
Các văn bản
|
2005
|
Luật Giao dịch điện tử, Luật Sở hữu
trí tuệ.
|
2006
|
Luật Công nghệ thông tin
|
2007
|
Nghị định số 35/2007/NĐ-CP; Nghị
định số 27/2007/NĐ-CP về Ngân hàng điện tử & tài chính điện tử.
|
2008
|
Luật Công nghệ cao
Nghị định số 97/2008/NĐ-CP về Dịch vụ
Internet và thông tin điện tử trên Internet.
|
2009
|
Luật Viễn thông, Luật Tần số vô tuyến
điện
|
2012
|
Quyết định số 418/2012/QĐ-TTg về việc
phê duyệt Chiến lược phát triển KHCN giai đoạn 2011 – 2020, tập trung phát
triển công nghệ số.
|
2013
|
- Nghị định số 154/2013/NĐ-CP về
Khu công nghiệp thông tin tập trung.
- Nghị định số 52/2013/NĐ-CP về Thương
mại điện tử.
- Nghị định số 72/2013/NĐ-CP về Dịch
vụ Internet.
|
2015
|
Luật An toàn thông tin mạng
|
2016
|
- Nghị quyết số 41/NQ-CP năm 2016 về Chính
sách ưu đãi thuế thúc đẩy việc phát triển và ứng dụng công nghệ thông tin.
- Nghị định số 06/2016/NĐ-CP về Phát
thanh truyền hình.
|
2017
|
Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa
- Quyết định số 1563/2017/QĐ-TTg phê
duyệt Kế hoạch tổng thể về phát triển thương mại điện tử giai đoạn 2016 -
2020.
- Chỉ thị số 16/CT-TTg ngày 4/5/2017
về Tăng cường năng lực tiếp cận Cách mạng công nghiệp 4.0.
|
2018
|
Luật Chuyển giao công nghệ, Luật An
ninh mạng
|
2019
|
Nghị quyết số 02/2019/NQ-CP về Cải
thiện môi trường kinh doanh và năng lực cạnh tranh quốc gia.
|
2020
|
Quyết định số 739/QĐ-TTg ngày
03/6/2020 phê duyệt “Chương trình chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định
hướng đến năm 2030”.
|
2021
|
Nghị định số 80/2021/NĐ-CP về Quy định
chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ
và vừa.
|
2022
|
- Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày
08/01/2022 về Nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu thực hiện Kế hoạch phát triển kinh
tế - xã hội và Dự toán ngân sách nhà nước năm 2022.
- Nghị quyết số 02/NQ-CP ngày
10/01/2022 về Những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh
doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia năm 2022.
- Quyết định số 411/QĐ-TTg ngày
31/3/2022 phê duyệt “Chiến lược quốc gia phát triển kinh tế số và xã hội số
đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”.
|
- Bộ Giáo dục và Đào tạo,
Bộ Lao động, Thương binh & Xã hội có trách nhiệm trong việc phát triển đội
ngũ nhân sự trong lĩnh vực CNTT&TT;
- Bộ Tài chính quản lý về
ngân hàng điện tử và tài chính điện tử, xây dựng chính sách về thuế và tài
chính để thúc đẩy các ứng dụng CNTT&TT;
- Bộ Công thương quản lý
về thương mại điện tử và ứng dụng CNTT&TT trong các ngành nghề;
- Bộ Kế hoạch và Đầu tư
xây dựng chiến lược và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội để đẩy mạnh
CNTT&TT và ứng dụng công nghệ số;
- Các bộ ngành khác và ủy
ban nhân dân các tỉnh lập kế hoạch hành động và đẩy mạnh ứng dụng CNTT&TT
tại các khu vực và tỉnh thành.
Ngoài ra, Ủy ban Quốc gia về Ứng dụng CNTT sẽ
giám sát và thực hiện các đề án quốc gia về CNTT.
Mới đây nhất, Thủ tướng Chính phủ cũng đã ký
ban hành Quyết định số 1619/QĐ-TTg ngày 24/9/2021 kiện toàn và đổi tên Ủy ban
Quốc gia về Chính phủ điện tử thành Ủy ban Quốc gia về chuyển đổi số. Chức năng
của Ủy ban là nghiên cứu, đề xuất và giúp việc cho Chính phủ, Thủ tướng Chính
phủ chỉ đạo, phối hợp thực hiện các chủ trương, chiến lược, cơ chế, chính sách
tạo môi trường pháp lý thúc đẩy tiến trình chuyển đổi số quốc gia, gắn kết chặt
chẽ với cải cách hành chính; xây dựng, phát triển Chính phủ điện tử, Chính phủ
số, kinh tế số, xã hội số và đô thị thông minh; tạo thuận lợi cho việc triển
khai Cách mạng công nghiệp lần thứ tư tại Việt Nam. Bên cạnh đó, hành lang pháp
lý trong ứng dụng công nghệ thông tin, xây dựng Chính phủ điện tử đã dần được
thiết lập. Một số cơ sở dữ liệu mang tính chất nền tảng thông tin như Cơ sở dữ
liệu quốc gia về đăng ký doanh nghiệp, Cơ sở dữ liệu quốc gia về bảo hiểm, Cơ
sở dữ liệu quốc gia về dân cư, Cơ sở dữ liệu đất đai quốc gia đang được xây
dựng và đã có những cấu phần đi vào vận hành. Các cơ quan Nhà nước đã cung cấp
một số dịch vụ công trực tuyến thiết yếu cho doanh nghiệp và người dân như:
Đăng ký doanh nghiệp, kê khai thuế, nộp thuế, hải quan điện tử, bảo hiểm xã
hội.
2.2.
Một số bất cập, hạn chế
Bên cạnh những thành tựu đáng ghi nhận
nói trên thì thể chế về kinh tế số ở nước ta vẫn còn chậm được hoàn thiện. Cụ
thể là:
Một là, các quy định thường không theo kịp với
tốc độ số hóa nhanh chóng của nền kinh tế, còn có khoảng cách giữa quy định
pháp luật với việc thực thi trong thực tế, chưa có hành lang pháp lý cho thí
điểm triển khai áp dụng các mô hình kinh doanh, dịch vụ mới. Điều này có thể
thấy rõ qua các vụ việc tranh chấp giữa taxi truyền thống và taxi công nghệ hay
xu hướng mua hàng qua mạng đang phát triển mạnh nhưng tiềm ẩn nhiều rủi ro vì
không kiểm tra được chất lượng, nguồn gốc sản phẩm, người tiêu dùng khó xác
định đầu mối để khiếu nại, đòi bồi thường [3].
Hai
là, các quy định về bảo vệ cơ sở dữ liệu, dữ liệu cá nhân, thông tin riêng
tư còn chưa đầy đủ; vấn đề quyền cá nhân, đạo đức khi ứng dụng trí tuệ nhân
tạo; định danh số và xác thực điện tử cho người dân đang tiến hành hoàn thiện.
Ba là, khung pháp lý còn chưa đồng bộ về xây
dựng Chính phủ điện tử và cơ chế bảo đảm thực thi nhiệm vụ xây dựng Chính phủ
điện tử chưa đủ mạnh nên kết quả triển khai nhiều nhiệm vụ về Chính phủ điện tử
cũng còn chậm và nhiều nơi thực hiện còn mang tính hình thức.
Bốn là, chưa có cơ chế giảm thiểu tác động tiêu
cực và bộ máy quản lý thực sự hiệu quả để ngăn ngừa triệt để tình trạng gian
lận thương mại, trốn thuế, thông tin giả, độc hại…Việc đấu tranh với tội phạm,
đảm bảo an ninh mạng còn nhiều thách thức.
3. Một số giải pháp nhằm hoàn
thiện thể chế về kinh tế số ở Việt Nam trong thời gian tới
Thứ nhất, Chính phủ cần đặc biệt coi trọng việc
tiếp tục hoàn thiện các chế độ chính sách, chương trình hành động nhằm mở rộng,
tạo động lực cho sự phát triển của kinh tế số. Quốc hội cần tăng cường công tác
giám sát việc thực hiện Luật liên quan đến sự phát triển của kinh tế số; tổng
kết, đánh giá kết quả thực hiện theo định kỳ phù hợp. Đồng thời làm tốt việc
hướng dẫn, bổ sung, sửa đổi để Luật ngày một phù hợp hơn với điều kiện thực tế
của nền kinh tế số nước ta cũng như hội nhập kinh tế quốc tế.
Thứ hai, xây dựng, trình cấp có thẩm quyền ban
hành và tổ chức triển khai khung pháp lý thử nghiệm có kiểm soát đối với các
dịch vụ số mới, mô hình kinh doanh kinh tế số mới chưa được pháp luật quy định
rõ ràng. Đặc biệt cần quy định rõ phạm vi không gian và thời gian thử nghiệm.
Thứ ba, rà soát, sửa đổi, ban hành mới quy định,
chính sách về tài sản dữ liệu, mua bán dữ liệu, dịch vụ dữ liệu để tạo thị
trường dữ liệu phát triển lành mạnh, an toàn, tuân thủ pháp luật; xây dựng,
trình ban hành và tổ chức thực thi Luật Giao dịch điện tử sửa đổi và các văn
bản hướng dẫn Luật để công nhận đầy đủ tính pháp lý của hồ sơ, dữ liệu, chứng
từ điện tử và giao dịch điện tử; tạo hành lang pháp lý rõ ràng cho các nền tảng
trung gian trong giao dịch điện tử.
Thứ tư, cần đẩy nhanh việc xây dựng, hoàn
thiện thể chế tạo cơ sở pháp lý cơ bản, toàn diện cho việc triển khai, xây dựng
phát triển Chính phủ điện tử.
Thứ năm, cần chú trọng hoàn thiện cơ chế giải
quyết các tranh chấp trong các hoạt động kinh tế số giữa các doanh nghiệp số
với nhau, với người tiêu dùng, với người lao động… đặc biệt giữa các doanh
nghiệp truyền thống và các doanh nghiệp số. Hoàn thiện pháp luật, chính sách về
tài chính - tiền tệ, thanh toán điện tử, bảo đảm an ninh mạng, quản lý thuế và
các dịch vụ xuyên biên giới phù hợp với xu thế phát triển của kinh tế số để
ngăn ngừa triệt để tình trạng gian lận thương mại, trốn thuế, thông tin giả,
độc hại…
Thứ sáu, kiện toàn bộ máy quản lý Nhà nước nền
kinh tế số và phát triển năng lực quản lý các nền tảng số, xây dựng môi trường
số an toàn, lành mạnh.
Kết luận
Thể chế về kinh tế số đóng vai trò định
hướng, hướng dẫn, tạo khung khổ cho việc tổ chức, vận hành nền kinh tế số. Bởi
vậy, thể chế về kinh tế số ở nước ta nếu sớm được hoàn thiện thông qua việc
thực hiện các giải pháp nói trên sẽ thực sự mở đường cho nền kinh tế số phát
triển, đồng thời góp phần thực hiện thành công mục tiêu chuyển đổi số quốc gia
đến năm 2030.
Tài liệu tham khảo:
[1] Bộ Chính trị (2019), Nghị quyết
số 52-NQ/TW ngày 27/9/2019 của Bộ Chính trị về một số chủ trương, chính sách
chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
[2] Nguyễn Thị Thùy Dung (2022), Báo
cáo tổng hợp nghiên cứu đề tài “Phát triển kinh tế số ở Việt Nam trong bối cảnh
Cách mạng công nghiệp lần thứ tư”.
[3] Anh Minh (2021), Cần hoàn thiện
khung pháp lý để phát triển kinh tế số, https://baochinhphu.vn
[4] Thủ tưởng Chính
phủ (2020), Quyết định số 749/QĐ-TTg ngày 03
tháng 6 năm 2020 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt "Chương trình Chuyển
đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030".
[5] Thủ tưởng Chính
phủ (2022), Quyết định số 411/QĐ-TTg của Thủ
tướng Chính phủ ngày 31 tháng 3 năm 2022 về Phê duyệt Chiến lược quốc gia phát
triển kinh tế số và xã hội số đến năm 2025, định hướng đến năm 2030.