Thứ Ba, ngày 18/07/2023, 14:17

Nhận diện và phản bác quan điểm sai trái, thù địch trên không gian mạng về vấn đề "tự do tôn giáo"

NGUYỄN GIA HÙNG - KIM THỊ MỘNG NHI
Học viện Chính trị khu vực I - Thị ủy Ngã Năm, thị xã Ngã Năm, tỉnh Sóc Trăng

(GDLL) - Không gian mạng có thể được hiểu là một không gian ảo, nơi con người có thể thực hiện các hành vi xã hội mà không bị giới hạn về không gian và thời gian. Đây là nơi dễ bị kẻ xấu, các thế lực thù địch sử dụng nhằm thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật, đặc biệt là lợi dụng về vấn đề “tự do tôn giáo”. Bài viết bước đầu nhận diện các quan điểm sai trái, thù địch lợi dụng vấn đề “tự do tôn giáo” trên không gian mạng. Trên có sở đó, bài viết đưa ra các luận cứ nhằm đấu tranh và phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trên không gian mạng về vấn đề “tự do tôn giáo”.

Ảnh minh họa

Cuộc Cách công nghiệp lần thứ tư dựa trên nền tảng Internet đã và đang tạo ra một không gian kết nối vạn vật thúc đẩy sự phát triển của máy móc tự động hóa và hệ thống sản xuất thông minh, đã và đang làm thay đổi mọi mặt của đời sống kinh tế, văn hóa, chính trị, xã hội của nhân loại trên toàn cầu nói chung, ở mỗi quốc gia, dân tộc nói riêng. Tuy nhiên, trên không gian đó, đồng thời, cũng đặt ra nhiều thách thức, là môi trường dễ bị lợi dụng, trong đó có vấn đề ‘tự do tôn giáo’, vi phạm quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cộng đồng, xã hội, quốc gia, dân tộc. Nhận diện các hành vi lợi dụng trên không gian mạng và tăng cường công tác quản lý không gian mạng là yêu cầu cấp thiết đối với các quốc gia, dân tộc trên thế giới nói chung, đối với Việt Nam nói riêng. Việc chúng ta nhận diện rõ các quan điểm, hành vi lợi dụng và động cơ của các quan điểm, hành vi này mới có thể có những giải pháp hiệu quả trong đấu tranh, phản bác trước các quan điểm, hành vi trên.

1. Nhận diện quan điểm sai trái, thù địch trên không gian mạng về vấn đề “tự do tôn giáo”

Thứ nhất, các thế lực thù địch thường tuyên truyền các quan điểm cho rằng Đảng và Nhà nước Việt Nam có chính sách hạn chế tự do tín ngưỡng, tôn giáo, hạn chế thực hành tôn giáo, hay trái ngược với các chuẩn mực nhân quyền quốc tế.

Thứ hai, một số cá nhân, nhóm người ở trong nước, tổ chức ở nước ngoài lợi dụng mạng Internet, các mạng xã hội như Facebook, Twitter, YouTube, Zalo, TikTok, Instagram, LinkedIn, WhatsApp, WeChat đưa tin, tuyên truyền về một số trường hợp cá nhân công dân Việt Nam vi phạm pháp luật và bị xét xử theo quy định của pháp luật, mà theo họ là những “Tù nhân lương tâm” (Prisoner of Conscience) để vu cáo Việt Nam đàn áp tôn giáo, hạn chế, phân biệt đối xử với người có tôn giáo. 

Thứ ba, một số cá nhân, nhóm người ở trong nước, tổ chức ở nước ngoài sử dụng mạng Internet và các mạng xã hội truyền tôn giáo trái phép, tuyên truyền, lôi kéo nhân dân tham gia hoạt động ly khai, tự trị, phá hoại khối đoàn kết giữa các dân tộc, cộng đồng. Điển hình là đạo “Bà Cô Dợ”, “Giê Sùa”, các tổ chức Tin lành hoạt động bất hợp pháp, với những hình thức như “Nhà nước Mông” ở Tây Bắc[5], Tin lành “Đề ga” ở Tây Nguyên, hay “Nhà nước Khmer Krom” lợi dụng vấn đề về Phật giáo Nam tông Khmer ở Tây Nam bộ. 

2. Luận cứ đấu tranh phản bác quan điểm sai trái, thù địch trên không gian mạng về vấn đề “tự do tôn giáo”

Thứ nhất, luận cứ đấu tranh phản bác một số quan điểm của các thể lực thù địch cho rằng Nhà nước Việt Nam có chính sách hạn chế tự do tín ngưỡng, tôn giáo, hạn chế thực hành tôn giáo, hay trái ngược với các chuẩn mực nhân quyền quốc tế đều mang tính quy chụp, chủ quan, một chiều, đan cài các ý đồ chính trị của quốc gia phương Tây, hoặc các quốc gia đứng sau, tài trợ cho những tổ chức trên.

Về quan điểm, chính sách tôn giáo, trong những năm qua, đặc biệt là giai đoạn từ sau Đổi mới năm 1986 đến nay, Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn có quan điểm, chủ trương và chính sách nhất quán tôn trọng và bảo vệ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và không tín ngưỡng, tôn giáo của một bộ phận quần chúng nhân dân. Những quan điểm, chủ trương này được thể hiện cụ thể trong các Văn kiện của Đảng Cộng sản Việt Nam qua các kỳ đại hội, trong Hiến pháp, Luật Tín ngưỡng Tôn giáo, cụ thể như: Nghị quyết số 24/NQ-TW ngày 16 tháng 10 năm 1990 về “Tăng cường công tác tôn giáo trong tình hình mới”, Nghị quyết số 25-NQ/2003/TW ngày 12-3-2003 về “Công tác tôn giáo”, Điều 24 Chương II của Hiến pháp 2013. Các quan điểm, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước Việt Nam đều ghi nhận, bảo vệ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và không tín ngưỡng, tôn giáo và xem đây là một nội dung cơ bản của quyền con người. Các quan điểm, chủ trương này hoàn toàn phù hợp với quy định trong các công ước quốc tế mà Việt Nam đã tham gia; đặc biệt là với Điều 18 của Công ước Quốc tế về Quyền Dân sự, Chính trị (ICCPR) 1966 và Điều 18 của Tuyên ngôn quốc tế về quyền con người 1948. Luật Tín ngưỡng, Tôn giáo (Luật số: 02/2016/QH14) tiếp tục cụ thể hóa quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam trong tôn trọng, ghi nhận và bảo vệ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo từ Điều 6 đến Điều 9, Chương II; Luật, đồng thời, đảm bảo tạo điều kiện cho các tổ chức tín ngưỡng, tôn giáo hoạt động bình thường, đảm bảo giữa các tôn giáo bình đẳng, giữa các tôn giáo đoàn kết trong khối đoàn kết dân tộc.

Về thực tiễn thực hiện quan điểm, chính sách tín ngưỡng, “Các tổ chức tôn giáo ở Việt Nam chung sống hòa hợp trong các cộng đồng các dân tộc Việt Nam”[6, tr.9]; Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, quyền theo hoặc không theo tôn giáo của người dân, trong đó có cộng đồng các dân tộc thiểu số ở Tây Bắc, Tây Nguyên và Tây Nam Bộ được tôn trọng và đảm bảo; các tổ chức tôn giáo được Nhà nước công nhận về pháp nhân và tạo điều kiện hoạt động như in ấn kinh sách, cấp quyền sử dụng đất đai, trùng tu, sửa chữa và xây dựng cơ sở thờ tự...[6, tr.10]. Theo số liệu Tổng điều tra Dân số và Nhà ở năm 2019, Việt Nam có 16 tôn giáo chính thức hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam với 43 tổ chức/pháp môn tôn giáo đã được công nhận hoặc được cấp giấy chứng nhận đăng ký hoạt động tôn giáo. Trên cả nước có khoảng 13,2 triệu người theo tôn giáo, chiếm 13,7% tổng dân số cả nước. Trong đó, số người theo Công giáo là đông nhất với 5,9 triệu người, chiếm 44,6% tổng số người theo tôn giáo và chiếm 6,1% tổng dân số cả nước. Tiếp đến là số người theo Phật giáo với 4,6 triệu người, chiếm 35% tổng số người theo tôn giáo và chiếm 4,8% dân số cả nước[2, tr.54]. 

Thực tiễn tình hình tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam hiện nay cho thấy: các cơ sở tín ngưỡng, tôn giáo được đầu tư ngày càng tăng từ sự đóng góp của cộng đồng tín đồ, người hảo tâm; các thủ tục hành chính về sử dụng đất đai tôn giáo, in, phát hành kinh sách, đào tạo chức sắc, xây dựng, trùng tu, tôn tạo các công trình tín ngưỡng, tôn giáo ngày càng được hoàn thiện, đơn giản hóa; nhu cầu hoạt động của các tổ chức tôn giáo, nhu cầu về tinh thần, tâm linh, tôn giáo của một bộ phận quần chúng nhân dân ngày càng được Đảng và Nhà nước Việt Nam đảm bảo.

Thứ hai, Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn khẳng định “thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng, tạo điều kiện thuận lợi để mọi người dân thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; nghiêm cấm mọi hình thức kỳ thị, phân biệt đối xử vì lý do tôn giáo; đồng thời coi trọng thúc đẩy sự hòa hợp giữa các tôn giáo”[3, tr.17]. Do đó, những nhận định đưa ra trong các báo cáo của các tổ chức trên đều mang tính quy chụp, phiến diện, thiếu khách quan và không phản ánh đúng thực tiễn tình hình tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam.

Thứ ba, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và không tín ngưỡng luôn được Hiến pháp và pháp luật Việt Nam tôn trọng, ghi nhận và bảo vệ; hoạt động tôn giáo đều phải tuân thủ các quy định của Hiến pháp và pháp luật, đảm bảo an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, quyền và lợi ích hợp khác của các nhân, tổ chức trong xã hội. Điều này cũng hoàn toàn phù hợp với các quy định quốc tế, cụ thể là Khoản 3, Điều 18, Công ước quốc tế về quyền Dân sự, Chính trị (ICCPR 1966) quy định: “Quyền tự do bày tỏ tôn giáo hoặc tín ngưỡng chỉ có thể bị giới hạn bởi pháp luật và khi sự giới hạn đó là cần thiết để bảo vệ an ninh, trật tự công cộng, sức khỏe hoặc đạo đức xã hội, hoặc để bảo vệ các quyền và tự do cơ bản của người khác”[8]

Luật Tín ngưỡng, Tôn giáo (Luật số: 02/2016/QH14) (Điều 5) nghiêm cấm các hành vi: Phân biệt đối xử, kỳ thị vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo; Ép buộc, mua chuộc hoặc cản trở người khác theo hoặc không theo tín ngưỡng, tôn giáo; Chia rẽ dân tộc; Chia rẽ tôn giáo; Chia rẽ người theo tín ngưỡng, tôn giáo với người không theo tín ngưỡng, tôn giáo, giữa những người theo các tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau. Không gian mạng là nơi mà các cá nhân, tổ chức thực hiện các hành vi của mình theo quy định của pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam. Luật An ninh mạng (24/2018/QH14) (Điều 8) nghiêm cấm các hành vi “Xuyên tạc lịch sử, phủ nhận thành tựu cách mạng, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xúc phạm tôn giáo, phân biệt đối xử về giới, phân biệt chủng tộc”, các hành vi “xâm phạm chủ quyền, lợi ích, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân hoặc để trục lợi”. Như vậy, mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, bất kỳ hành vi nào vi phạm như tuyên truyền tôn giáo bất hợp pháp, kích động ly khai, tự trị, phá hoại khối đoàn kết đều bị xử lý theo quy định của pháp luật.

Kết luận

Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn thực hiện nhất quán quan điểm, chính sách về tín ngưỡng, tôn giáo với mục tiêu đảm bảo tự do tín ngưỡng, tôn giáo, các tôn giáo bình đẳng, các tôn giáo đoàn kết trong khối đoàn kết dân tộc, phù hợp với các quy định quốc tế về quyền con người và tự do tín ngưỡng, tôn giáo trong một số văn kiện quốc tế cơ bản. Đồng thời, những hành vi lợi dụng tự do tín ngưỡng, tôn giáo nói chung, trên không gian mạng nói riêng, nhằm tuyên truyền tôn giáo phủ nhận thuần phong, mỹ tục, tập quán tốt đẹp của cộng đồng, của dân tộc, phá hoại khối đoàn kết dân tộc, kích động ly khai tộc người, xâm phạm chủ quyền, lợi ích, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, quyền và lợi ích của cá nhân, tổ chức đều bị nghiêm khắc xử lý theo quy định của Hiến pháp và pháp luật Việt Nam.

Tài liệu tham khảo:

[1]  Australian Government Department of Foreign Affairs and Trade (2019). Country Information Report Vietnam. See at https://www.ecoi.net

[2] Ban Chỉ đạo tổng điều tra dân số và nhà ở Trung ương (2019): Kết quả tổng điều tra dân số và nhà ở thời điểm 0 giờ ngày 01 tháng 4 năm 2019. Nxb. Thống kê, Hà Nội.

[3] Bộ Ngoại giao (2018). Bảo vệ và thúc đẩy quyền con người ở Việt Nam, Hà Nội.

[4] Human Rights Watch (2020), World Report 2020. See at https://www.hrw.org/

[5] Nguyễn Quốc Phong (VOV) (2020): “Tà đạo ở Điện Biên và âm mưu lập "Nhà nước cộng hòa dân chủ Mông" bất thành”, https://baoquangninh.com.vn

[6] United Nations Human Rights Council (2018), National report submitted in accordance with paragraph 5 of the annex to Human Rights Council resolution 16/21: Vietnam, A/HRC/WG.6/32/VNM/1, https://digitallibrary.un.org

[7] United States Department of State (2020). Vietnam 2020 International Religious Freedom Report, https://www.state.gov


Đọc thêm

Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng trong tác phẩm "Sửa đối lối làm việc" đối với rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên hiện nay

Tác giả: TRẦN THỊ THIỀU HOA - ĐẶNG MINH PHỤNG

(GDLL) - Giáo dục đạo đức cho cán bộ, đảng viên là vấn đề được Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm trong quá trình xây dựng Đảng. Người thường xuyên nhắc nhở cán bộ, đảng viên phải rèn luyện, trau dồi, giữ vững đạo đức cách mạng. Trên cơ sở truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc, chắt lọc tinh hoa đạo đức nhân loại, Người phát triển và sáng tạo những giá trị đạo đức mới phù hợp với điều kiện Việt Nam. Bài viết tìm hiểu việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” đối với việc rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên hiện nay.

Bồi dưỡng, nâng cao năng lực, phẩm chất cho đội ngũ cán bộ tuyên giáo, nhà báo ở Việt Nam hiện nay

Tác giả: Ngô Quang Trung

(GDLL) - Bồi dưỡng, nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ tuyên giáo, nhà báo đóng vai trò hết sức quan trọng trong thực hiện nhiệm vụ chính trị của Đảng và Nhà nước hiện nay. Bài viết tập trung làm rõ những yêu cầu về năng lực, phẩm chất của cán bộ tuyên giáo, nhà báo trong bồi dưỡng nâng cao, quán triệt theo tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng. Trên cơ sở đó, đề xuất một số giải pháp nhằm bồi dưỡng, nâng cao năng lực, phẩm chất cho đội ngũ cán bộ tuyên giáo, nhà báo đáp ứng yêu cầu trong bối cảnh mới ở Việt Nam hiện nay.

Vận dụng sáng tạo hình thức đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng giai đoạn 1930-1945 vào thực tiễn ở Việt Nam hiện nay

Tác giả: BIỆN THỊ HOÀNG NGỌC

(GDLL) - Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo cuộc đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong suốt tiến trình cách mạng Việt Nam bằng nhiều phương thức phong phú, sáng tạo, hiệu quả. Bài viết trình bày sự sáng tạo, đa dạng hóa các hình thức đấu tranh phản bác các quan điểm chống phá nền tảng tư tưởng của Đảng giai đoạn 1930-1945 và một số vấn đề cần vận dụng trong đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng hiện nay.

Quan điểm Hồ Chí Minh về nâng cao trình độ dân trí cho nhân dân và sự vận dụng của Đảng trong thời kỳ đổi mới

Tác giả: NGUYỄN THỊ THU HUYỀN

(GDLL) - Trong bối cảnh một thế giới đang có nhiều đổi thay mạnh mẽ như hiện nay, việc nâng cao dân trí cho Nhân dân không chỉ là điều kiện để đem lại cuộc sống tốt đẹp cho mỗi người dân và xã hội mà hơn thế nữa, nó còn mang ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển bền vững và tiến bộ của đất nước. Vì vậy, bài viết tập trung phân tích một số quan điểm cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về nâng cao trình độ dân trí cho Nhân dân, từ đó chỉ ra sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam trong công cuộc đổi mới hiện nay.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam và sự vận dụng của Đảng trong giai đoạn hiện nay

Tác giả: NGUYỄN THỊ QUYẾN

(GDLL) - Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội là một trong những nội dung quan trọng trong tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng Việt Nam. Vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, Đảng luôn tìm tòi, tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận góp phần làm sáng tỏ hơn về vấn đề này. Bài viết khái quát tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội và sự phát triển nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Từ đó đặt ra yêu cầu, nhiệm vụ của Đảng trong quá trình lãnh đạo xây dựng đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội.