Cuộc Cách công
nghiệp lần thứ tư dựa trên nền tảng Internet đã
và đang tạo ra một không gian kết nối vạn vật thúc đẩy sự phát triển của máy
móc tự động hóa và hệ thống sản xuất thông minh, đã và đang làm thay đổi mọi
mặt của đời sống kinh tế, văn hóa, chính trị, xã hội của nhân loại trên toàn
cầu nói chung, ở mỗi quốc gia, dân tộc nói riêng. Tuy nhiên, trên không gian
đó, đồng thời, cũng đặt ra nhiều thách thức, là môi trường dễ bị lợi dụng,
trong đó có vấn đề ‘tự do tôn giáo’, vi phạm quyền và lợi ích hợp pháp của cá
nhân, cộng đồng, xã hội, quốc gia, dân tộc. Nhận diện các hành vi lợi dụng trên
không gian mạng và tăng cường công tác quản lý không gian mạng là yêu cầu cấp
thiết đối với các quốc gia, dân tộc trên thế giới nói chung, đối với Việt Nam
nói riêng. Việc chúng ta nhận diện rõ các quan điểm, hành vi lợi dụng và động
cơ của các quan điểm, hành vi này mới có thể có những giải pháp hiệu quả trong
đấu tranh, phản bác trước các quan điểm, hành vi trên.
1. Nhận diện quan
điểm sai trái, thù địch trên không gian mạng về vấn đề “tự do tôn giáo”
Thứ
nhất, các thế lực thù địch thường tuyên truyền các quan điểm
cho rằng Đảng và Nhà nước Việt Nam có chính sách hạn chế tự do tín ngưỡng, tôn
giáo, hạn chế thực hành tôn giáo, hay trái ngược với các chuẩn mực nhân quyền
quốc tế.
Thứ hai, một số cá nhân, nhóm
người ở trong nước, tổ chức ở nước ngoài lợi dụng mạng Internet, các mạng xã
hội như Facebook, Twitter, YouTube, Zalo, TikTok, Instagram,
LinkedIn, WhatsApp, WeChat đưa tin, tuyên truyền về một số trường hợp cá
nhân công dân Việt Nam vi phạm pháp luật và bị xét xử theo quy định của pháp
luật, mà theo họ là những “Tù nhân lương tâm” (Prisoner of Conscience) để vu
cáo Việt Nam đàn áp tôn giáo, hạn chế, phân biệt đối xử với người có tôn
giáo.
Thứ
ba, một số cá nhân, nhóm người ở trong nước, tổ chức ở nước
ngoài sử dụng mạng Internet và các mạng xã hội truyền tôn giáo trái phép, tuyên
truyền, lôi kéo nhân dân tham gia hoạt động ly khai, tự trị, phá hoại khối đoàn
kết giữa các dân tộc, cộng đồng. Điển hình là đạo “Bà Cô Dợ”, “Giê Sùa”, các tổ
chức Tin lành hoạt động bất hợp pháp, với những hình thức như “Nhà nước Mông” ở
Tây Bắc[5], Tin lành “Đề ga” ở Tây Nguyên, hay “Nhà nước Khmer Krom” lợi dụng
vấn đề về Phật giáo Nam tông Khmer ở Tây
Nam bộ.
2. Luận cứ đấu tranh
phản bác quan điểm sai trái, thù địch trên không gian mạng về vấn đề “tự do tôn
giáo”
Thứ
nhất, luận cứ đấu tranh phản bác một số quan điểm của các thể
lực thù địch cho rằng Nhà nước Việt Nam có chính sách hạn chế tự do tín ngưỡng,
tôn giáo, hạn chế thực hành tôn giáo, hay trái ngược với các chuẩn mực nhân
quyền quốc tế đều mang tính quy chụp, chủ quan, một chiều, đan cài các ý đồ
chính trị của quốc gia phương Tây, hoặc các quốc gia đứng sau, tài trợ cho
những tổ chức trên.
Về quan điểm,
chính sách tôn giáo, trong những năm qua, đặc biệt là giai đoạn từ sau Đổi mới năm 1986 đến nay, Đảng và Nhà nước
Việt Nam luôn có quan điểm, chủ trương và chính sách nhất quán tôn trọng và bảo
vệ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và không tín ngưỡng, tôn giáo của một bộ
phận quần chúng nhân dân. Những quan điểm, chủ trương này được thể hiện cụ thể
trong các Văn kiện của Đảng Cộng sản Việt Nam qua các kỳ đại
hội, trong Hiến pháp, Luật Tín ngưỡng Tôn giáo, cụ thể như: Nghị quyết số
24/NQ-TW ngày 16 tháng 10 năm 1990 về “Tăng cường công tác tôn giáo trong tình
hình mới”, Nghị quyết số 25-NQ/2003/TW ngày 12-3-2003 về “Công tác tôn giáo”,
Điều 24 Chương II của Hiến pháp 2013. Các quan điểm, chủ trương của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước Việt Nam đều ghi nhận, bảo vệ quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo và không tín ngưỡng, tôn giáo và xem đây là một nội dung cơ
bản của quyền con người. Các quan điểm, chủ trương này hoàn toàn phù hợp với
quy định trong các công ước quốc tế mà Việt Nam đã tham gia; đặc biệt là với
Điều 18 của Công ước Quốc tế về Quyền Dân sự, Chính trị (ICCPR) 1966 và Điều 18
của Tuyên ngôn quốc tế về quyền con người 1948. Luật Tín
ngưỡng, Tôn giáo (Luật số: 02/2016/QH14) tiếp tục cụ thể hóa quan điểm, chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam trong tôn trọng, ghi nhận và
bảo vệ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo từ Điều 6 đến Điều 9, Chương II; Luật,
đồng thời, đảm bảo tạo điều kiện cho các tổ chức tín ngưỡng, tôn giáo hoạt động
bình thường, đảm bảo giữa các tôn giáo bình đẳng, giữa các tôn giáo đoàn kết
trong khối đoàn kết dân tộc.
Về thực tiễn thực hiện quan điểm,
chính sách tín ngưỡng, “Các tổ chức tôn giáo ở Việt Nam chung sống hòa hợp
trong các cộng đồng các dân tộc Việt Nam”[6, tr.9]; Quyền tự do tín ngưỡng, tôn
giáo, quyền theo hoặc không theo tôn giáo của người dân, trong đó có cộng đồng
các dân tộc thiểu số ở Tây Bắc, Tây Nguyên và Tây Nam Bộ được tôn trọng và đảm
bảo; các tổ chức tôn giáo được Nhà nước công nhận về pháp nhân và tạo điều kiện
hoạt động như in ấn kinh sách, cấp quyền sử dụng đất đai, trùng tu, sửa chữa và
xây dựng cơ sở thờ tự...[6, tr.10]. Theo
số liệu Tổng điều tra Dân số và Nhà ở năm 2019, Việt Nam có 16 tôn giáo chính
thức hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam với 43 tổ chức/pháp môn tôn giáo đã được
công nhận hoặc được cấp giấy chứng nhận đăng ký hoạt động tôn giáo. Trên cả
nước có khoảng 13,2 triệu người theo tôn giáo, chiếm 13,7% tổng dân số cả nước.
Trong đó, số người theo Công giáo là đông nhất với 5,9 triệu người, chiếm 44,6%
tổng số người theo tôn giáo và chiếm 6,1% tổng dân số cả nước. Tiếp đến là số
người theo Phật giáo với 4,6 triệu người, chiếm 35% tổng số người theo tôn giáo
và chiếm 4,8% dân số cả nước[2,
tr.54].
Thực tiễn tình hình tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt
Nam hiện nay cho thấy: các cơ sở tín ngưỡng, tôn giáo được đầu tư ngày càng
tăng từ sự đóng góp của cộng đồng tín đồ, người hảo tâm; các thủ tục hành chính
về sử dụng đất đai tôn giáo, in, phát hành kinh sách, đào tạo chức sắc, xây
dựng, trùng tu, tôn tạo các công trình tín ngưỡng, tôn giáo ngày càng được hoàn
thiện, đơn giản hóa; nhu cầu hoạt động của các tổ chức tôn giáo, nhu cầu về
tinh thần, tâm linh, tôn giáo của một bộ phận quần chúng nhân dân ngày càng
được Đảng và Nhà nước Việt Nam đảm bảo.
Thứ hai, Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn khẳng
định “thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng, tạo điều kiện thuận lợi để mọi
người dân thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; nghiêm cấm mọi hình thức
kỳ thị, phân biệt đối xử vì lý do tôn giáo; đồng thời coi trọng thúc đẩy sự hòa
hợp giữa các tôn giáo”[3, tr.17]. Do đó, những nhận định đưa ra trong các báo
cáo của các tổ chức trên đều mang tính quy chụp, phiến diện, thiếu khách quan
và không phản ánh đúng thực tiễn tình hình tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam.
Thứ ba, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và
không tín ngưỡng luôn được Hiến pháp và pháp luật Việt Nam tôn trọng, ghi nhận
và bảo vệ; hoạt động tôn giáo đều phải tuân thủ các quy định của Hiến pháp và
pháp luật, đảm bảo an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, quyền và lợi ích
hợp khác của các nhân, tổ chức trong xã hội. Điều này cũng hoàn toàn phù hợp
với các quy định quốc tế, cụ thể là Khoản 3, Điều 18, Công ước quốc tế về quyền
Dân sự, Chính trị (ICCPR 1966) quy định: “Quyền tự do bày tỏ tôn giáo hoặc tín
ngưỡng chỉ có thể bị giới hạn bởi pháp luật và khi sự giới hạn đó là cần thiết
để bảo vệ an ninh, trật tự công cộng, sức khỏe hoặc đạo đức xã hội, hoặc để bảo
vệ các quyền và tự do cơ bản của người khác”[8].
Luật Tín ngưỡng, Tôn giáo (Luật số:
02/2016/QH14) (Điều 5) nghiêm cấm các hành vi: Phân biệt đối xử, kỳ thị vì lý
do tín ngưỡng, tôn giáo; Ép buộc, mua chuộc hoặc cản trở người khác theo hoặc
không theo tín ngưỡng, tôn giáo; Chia rẽ dân tộc; Chia rẽ tôn giáo; Chia rẽ
người theo tín ngưỡng, tôn giáo với người không theo tín ngưỡng, tôn giáo, giữa
những người theo các tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau. Không gian mạng là nơi mà
các cá nhân, tổ chức thực hiện các hành vi của mình theo quy định của pháp luật
quốc tế và pháp luật Việt Nam. Luật An ninh mạng (24/2018/QH14) (Điều 8) nghiêm
cấm các hành vi “Xuyên tạc lịch sử, phủ nhận thành tựu cách mạng, phá hoại khối
đại đoàn kết toàn dân tộc, xúc phạm tôn giáo, phân biệt đối xử về giới, phân
biệt chủng tộc”, các hành vi “xâm phạm chủ quyền,
lợi ích, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp
của cơ quan, tổ chức, cá nhân hoặc để trục lợi”. Như vậy,
mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, bất kỳ hành vi nào vi phạm như
tuyên truyền tôn giáo bất hợp pháp, kích động ly khai, tự trị, phá hoại khối
đoàn kết đều bị xử lý theo quy định của pháp luật.
Kết luận
Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn thực hiện
nhất quán quan điểm, chính sách về tín ngưỡng, tôn giáo với mục tiêu đảm bảo tự
do tín ngưỡng, tôn giáo, các tôn giáo bình đẳng, các tôn giáo đoàn kết trong
khối đoàn kết dân tộc, phù hợp với các quy định quốc tế về quyền con người và
tự do tín ngưỡng, tôn giáo trong một số văn kiện quốc tế cơ bản. Đồng thời,
những hành vi lợi dụng tự do tín ngưỡng, tôn giáo nói chung, trên không gian
mạng nói riêng, nhằm tuyên truyền tôn giáo phủ nhận thuần phong, mỹ tục, tập
quán tốt đẹp của cộng đồng, của dân tộc, phá hoại khối đoàn kết dân tộc, kích
động ly khai tộc người, xâm phạm chủ quyền, lợi ích, an ninh quốc gia, trật tự,
an toàn xã hội, quyền và lợi ích của cá nhân, tổ chức đều bị nghiêm khắc xử lý
theo quy định của Hiến pháp và pháp luật
Việt Nam.
Tài liệu tham khảo:
[1] Australian Government Department of
Foreign Affairs and Trade (2019). Country
Information Report Vietnam. See at https://www.ecoi.net
[2] Ban Chỉ đạo tổng điều tra dân số và nhà
ở Trung ương (2019): Kết quả tổng điều tra
dân số và nhà ở thời điểm 0 giờ ngày 01 tháng 4 năm 2019. Nxb. Thống
kê, Hà Nội.
[3] Bộ Ngoại giao (2018). Bảo vệ và thúc đẩy quyền con người ở Việt Nam,
Hà Nội.
[4] Human Rights Watch (2020), World Report 2020. See at
https://www.hrw.org/
[5] Nguyễn Quốc Phong (VOV) (2020): “Tà đạo ở Điện Biên và âm mưu lập "Nhà nước cộng
hòa dân chủ Mông" bất thành”, https://baoquangninh.com.vn
[6] United Nations Human Rights Council (2018),
National report submitted in accordance with
paragraph 5 of the annex to Human Rights Council resolution 16/21: Vietnam,
A/HRC/WG.6/32/VNM/1, https://digitallibrary.un.org
[7] United States Department of State
(2020). Vietnam 2020 International Religious
Freedom Report, https://www.state.gov