Từ
khóa: Chủ nghĩa xã hội; động
lực; tư tưởng Hồ Chí Minh...
Bác Hồ thăm Nhà máy phích
nước Rạng Đông, năm 1964. (Ảnh: Baotanghochiminh.vn)
Đặt vấn đề
Để hoàn thành tốt các mục
tiêu của chủ nghĩa xã hội, một điều quan trọng là phải nhận thức, phát hiện, sử
dụng, phát huy tất cả các động lực của chủ nghĩa xã hội. Tư tưởng Hồ Chí Minh
về động lực của chủ nghĩa xã hội được xây dựng trên cơ sở vận dụng và phát
triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện thực tiễn của cách mạng Việt
Nam; là sự kế thừa, phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc.
Bối cảnh tình hình trong nước và thế giới hiện nay cho thấy, việc tiếp tục
nghiên cứu, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về động lực của chủ nghĩa xã hội vẫn
luôn có ý nghĩa lý luận và giá trị thực tiễn sâu sắc.
1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về
động lực của chủ nghĩa xã hội
Động lực được hiểu một cách
tóm tắt, đó là tất cả những gì góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội
thông qua hoạt động của con người.
Để thực hiện những mục tiêu
của chủ nghĩa xã hội, cần phát hiện và có giải pháp bảo đảm cho động lực đó
thực sự trở thành sức mạnh thúc đẩy công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhất
là những động lực bên trong, nguồn nội lực của chủ nghĩa xã hội. Theo Hồ Chí
Minh, những động lực chính để xây dựng chủ nghĩa xã hội là: Đoàn kết, đồng
thuận, lợi ích, công bằng, dân chủ, khoa học kỹ thuật... Những động lực này
được biểu hiện trên cả phương diện vật chất và tinh thần; nội lực và ngoại lực.
Chủ nghĩa xã hội là công
trình tập thể của quần chúng lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng; là sự nghiệp
của nhân dân, do nhân dân tự xây dựng lấy. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Ai xây dựng chủ
nghĩa xã hội? Nói chung là những người lao động trong xã hội, gồm công nhân,
nông dân, trí thức cách mạng, v.v...”[6, tr.565]. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, động lực quan
trọng và quyết định nhất là con người, mà cụ thể ở đây là khối đại đoàn kết dân
tộc, trong đó nòng cốt là công - nông - trí thức. Người nói: “Trong cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân cũng như trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, Mặt trận
dân tộc thống nhất vẫn là một trong những lực lượng to lớn của cách mạng Việt
Nam... Chúng ta phải đoàn kết chặt chẽ các tầng lớp nhân dân, động viên lực
lượng của nhân dân để phấn đấu hoàn thành sự nghiệp công nghiệp hóa xã hội chủ
nghĩa... Phải đoàn kết các dân tộc anh em, cùng nhau xây dựng Tổ quốc”[5,
tr.605-606].
Như vậy, tư tưởng nhất quán
của Hồ Chí Minh là ra sức phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết dân tộc, bởi xây
dựng chủ nghĩa xã hội không phải chỉ là vấn đề giai cấp mà còn là vấn đề dân
tộc. Xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội mới tăng cường được sức mạnh dân tộc,
giữ vững độc lập dân tộc. Đoàn kết toàn dân tộc trong Mặt trận dân tộc thống
nhất không phải chỉ là chiến lược trong cách mạng dân tộc dân chủ mà còn là
chiến lược nhất quán của Đảng và Hồ Chí Minh trong toàn bộ tiến trình cách
mạng.
Nhìn nhận yếu tố con người
là động lực quan trọng nhất của chủ nghĩa xã hội, Người nhận thấy sự cần thiết
phải kết hợp sức mạnh của mỗi cá nhân với sức mạnh đoàn kết, tập thể của toàn
xã hội. Người cho rằng, không có chế độ xã hội nào coi trọng lợi ích chính đáng
của cá nhân con người bằng chế độ xã hội chủ nghĩa. Nhưng trong tư tưởng của
Hồ Chí Minh, lợi ích cá nhân phải luôn được đặt trong mối quan hệ thống nhất
với lợi ích tập thể và lợi ích xã hội. Người nói: “Lợi ích cá nhân là nằm trong
lợi ích của tập thể, là một bộ phận của lợi ích tập thể. Lợi ích chung của tập
thể được bảo đảm thì lợi ích của cá nhân mới có điều kiện để được thỏa mãn”[4,
tr.219].
Trong yếu tố con người, Hồ
Chí Minh hết sức chú ý đến truyền thống yêu nước, từ đó nhấn mạnh yêu cầu chăm
lo phát triển tinh thần yêu nước của nhân dân, làm cho lòng yêu nước của mỗi
người không cất giấu kín đáo trong rương, trong hòm mà phải được đem ra thực
hành vào công việc yêu nước, công việc kháng chiến, xây dựng chủ nghĩa xã hội
và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Bởi “nhân dân ta sẵn có truyền thống tốt
đẹp là lao động cần cù... lại có tinh thần yêu nước nồng nàn. Chúng ta cần phát
huy truyền thống và tinh thần ấy”[3, tr.349] trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Truyền thống yêu nước của dân tộc, sự đoàn kết cộng đồng, sức lao động sáng
tạo của nhân dân, đó là sức mạnh tổng hợp sáng tạo nên động lực quan trọng của
chủ nghĩa xã hội.
Cùng với nhấn mạnh yêu cầu
khơi dậy, phát huy động lực về con người, quan tâm chú ý lợi ích vật chất và
tinh thần của mỗi cá nhân, Hồ Chí Minh cũng đặc biệt lưu ý tới sự phát triển,
tiến bộ của văn hóa, khoa học, giáo dục, coi đó là động lực không thể thiếu của
chủ nghĩa xã hội. Người nói: “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội thì nhất định phải
có học thức”[5, tr.306]. “Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc đòi hỏi Đảng ta phải
nắm vững khoa học và kỹ thuật, do đó mỗi đảng viên đều phải cố gắng học tập văn
hóa, học tập khoa học và kỹ thuật”[5, tr.21].
Ngoài các động lực bên
trong, theo Hồ Chí Minh, muốn xây dựng thành công chủ
nghĩa xã hội thì còn phải kết hợp được sức mạnh dân tộc (nội lực) với sức mạnh
thời đại (ngoại lực); tăng cường đoàn kết quốc tế; chủ nghĩa yêu nước phải gắn
liền với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân, phải sử dụng tốt những thành
quả khoa học, kỹ thuật thế giới... Về mối quan hệ giữa nội lực và ngoại lực,
Người xác định rất rõ nội lực là quyết định nhất, ngoại lực là rất quan trọng.
Trong tư duy Hồ Chí Minh để tranh thủ sự giúp đỡ từ bên ngoài, trước hết phải
chủ động tạo ra sức mạnh của chính mình. Người nhấn mạnh: “Một dân tộc không tự
lực cánh sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc khác giúp đỡ thì không xứng đáng được độc
lập”[2, tr.445].
Đó là tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực cánh sinh là chính, nhưng luôn chú
trọng tranh thủ sự giúp đỡ, hợp tác quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức
mạnh thời đại.
Phát huy những động lực phát
triển của chủ nghĩa xã hội đồng thời phải nhận diện để khắc phục những lực cản
kìm hãm sự phát triển, đó là hai mặt của một quá trình biện chứng trong tư
tưởng Hồ Chí Minh. Người nói: “Để tiến lên chủ nghĩa xã hội, cuộc đấu tranh
phải lâu dài, gian khổ. Cần có người cách mạng là vì còn có kẻ địch chống lại
cách mạng. Kẻ địch gồm có ba loại. Chủ nghĩa tư bản và bọn đế quốc là kẻ địch
rất nguy hiểm. Thói quen và truyền thống lạc hậu cũng là kẻ địch to... Loại kẻ
địch thứ ba là chủ nghĩa cá nhân, tư tưởng tiểu tư sản còn ẩn nấp trong mỗi
chúng ta. Nó chờ dịp - hoặc dịp thất bại, hoặc dịp thắng lợi để ngóc đầu dậy.
Nó là bạn đồng minh của hai kẻ địch kia”[4, tr.287].
2. Vận dụng trong giai
đoạn hiện nay
Để thúc đẩy sự phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước với những mục tiêu chiến lược đã đặt ra thì việc
xác định đúng những động lực cơ bản có ý nghĩa rất quan trọng. Do vậy, Đại hội XIII
của Đảng xác định: “Động lực và nguồn lực phát triển quan trọng của đất nước là
khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn
kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc. Phát
huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và nền văn hóa, con người Việt
Nam; thúc đẩy đổi mới sáng tạo, ứng dụng mạnh mẽ khoa học và công nghệ, nhất là
những thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Kết hợp sức mạnh dân
tộc với sức mạnh thời đại; phát huy tối đa nội lực, tranh thủ ngoại lực, trong
đó nguồn lực nội sinh, nhất là nguồn lực con người là quan trọng nhất”[1,
tr.34]. Quan điểm nhất
quán này là sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về động lực của chủ nghĩa xã hội
trong điều kiện mới, được thể hiện cụ thể ở một số nội dung cơ bản sau:
Một là, khơi dậy mạnh mẽ
tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn
kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc
Hiện nay, bối cảnh tình hình thế giới và trong nước đặt ra yêu cầu mới
phức tạp hơn, thách thức hơn đối với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Điều
này đòi hỏi chúng ta phải tiếp tục tăng cường đoàn kết, chung sức, đồng lòng,
đổi mới mạnh mẽ, năng động, sáng tạo, nỗ lực phấn đấu cao nhất để thực hiện
thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ đã đề ra. Phải tiếp tục “Xây dựng, phát triển,
tạo môi trường thuận lợi nhất để khơi dậy tuyền thống yêu nước, niềm tự hào dân
tộc, niềm tin, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc”[1, tr.116]. Các chủ trương, chính
sách, chương trình, kế hoạch hành động phải phát huy sức mạnh tổng hợp của cả
hệ thống chính trị; của mỗi cán bộ, đảng viên, của con người Việt Nam.
Tại Đại hội lần thứ XIII, khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự
lực tự cường, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất
nước phồn vinh, hạnh phúc đã được Đảng kế thừa và phát triển lên một tầm cao
mới: khẳng định khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc là sức mạnh
nội sinh để phát triển đất nước. Để khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn
vinh, hạnh phúc thì từ chủ trương, chính sách cho đến xử lý, giải quyết công
việc hàng ngày, phải vì lợi ích của người dân, xuất phát từ nguyện vọng và yêu
cầu của Nhân dân; giải quyết hài hòa các quan hệ lợi ích trong xã hội; bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân; không ngừng cải thiện, nâng
cao đời sống vật chất và tinh thần của Nhân dân. Thực hiện tốt, có hiệu quả
phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ
hưởng”. Nhân dân là trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới,...; mọi chủ
trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ yêu cầu, nguyện vọng, quyền và lợi
ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân...”[1, tr.96]. Điều này sẽ tạo một
luồng sinh khí mới, phát huy được tối đa trí tuệ, sức sáng tạo, sự đồng lòng,
đoàn kết và phát huy cao độ ý chí của Nhân dân.
Hai là, thúc đẩy đổi mới
sáng tạo, ứng dụng mạnh mẽ khoa học và công nghệ, nhất là những thành tựu của
cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư
Với nội dung này, so với Đại
hội XII thì văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng bổ sung thêm cụm từ “Thúc
đẩy đổi mới sáng tạo” và đặt lên trên để nhấn mạnh vai trò của đổi mới sáng
tạo. Đó là việc tiếp tục thực hiện nhất quán chủ trương khoa học và công nghệ
là quốc sách hàng đầu, là động lực then chốt để phát triển lực lượng sản xuất,
đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức
cạnh tranh của nền kinh tế. Do vậy, cần “có chiến lược phát triển khoa học và
công nghệ phù hợp với xu thế chung của thế giới và điều kiện đất nước, đáp ứng
yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới, thích ứng với cuộc cách
mạng công nghiệp lần thứ tư”[1, tr.140]. Đồng thời, Văn kiện Đại hội XIII nhấn mạnh
yêu cầu đẩy mạnh hợp tác và hội nhập quốc tế, nâng cao năng lực đổi mới sáng
tạo quốc gia, lấy nhiệm vụ xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và phát triển con người làm
mục tiêu. Gắn hợp tác quốc tế về khoa học và công nghệ với mọi lĩnh vực của đời
sống xã hội kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh. Xác định rõ trọng tâm hợp tác
quốc tế về khoa học, công nghệ trong thời gian tới là “đẩy mạnh hội nhập và hợp
tác quốc tế về khoa học, công nghệ, đa dạng hóa đối tác, lựa chọn đối tác chiến
lược là các quốc gia có nền khoa học, công nghệ tiên tiến”[1,
tr.230].
Ba là, kết hợp sức mạnh
dân tộc với sức mạnh thời đại, phát huy tối đa nội lực, tranh thủ ngoại lực,
trong đó nguồn lực nội sinh, nhất là nguồn lực con người là quan trọng nhất
Đảng chỉ rõ: “Phát huy cao
nhất sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị kết hợp với
sức mạnh thời đại, tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế
để bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ
quốc...”[1, tr.155-156]. Với quan điểm này, Đảng nhấn mạnh đến yếu tố “sức mạnh tổng hợp của
toàn dân tộc” chứ không chỉ “sức mạnh dân tộc”. Đó là sức mạnh tổng
hợp của các yếu tố nội lực - trong nước cả về kinh tế, chính trị, văn
hóa, xã hội, quốc phòng - an ninh và nguồn lực vật chất, tinh thần của cộng
đồng người Việt Nam ở nước ngoài, không phải là sự cộng lại cơ học của các
yếu tố cấu thành “sức mạnh dân tộc”. Phát huy tối đa nội lực nhưng phải tranh
thủ ngoại lực, đó là việc “Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, giải quyết
tốt mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; thúc đẩy hội nhập
quốc tế toàn diện, sâu rộng, linh hoạt, hiệu quả vì lợi ích quốc gia - dân tộc,
bảo đảm độc lập, tự chủ, chủ quyền quốc gia”[1, tr.164], với tinh thần “Việt Nam là bạn, là đối tác
tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế”[1,
tr.162]. Đây chính là sự quán triệt và vận dụng sáng
tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về giải quyết mối quan hệ giữa nội lực và ngoại lực,
giữa sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại.
Kế thừa và phát
triển những nội dung cốt lõi về vấn đề con người - nguồn lực quan
trọng nhất trong tư tưởng Hồ Chí Minh về động lực của chủ nghĩa xã
hội, Đại hội XIII của Đảng đã khái quát và đề ra những mục tiêu, nhiệm
vụ cụ thể về xây dựng, phát triển con người Việt Nam toàn diện, đáp
ứng yêu cầu phát triển bền vững kinh tế - xã hội đất nước. Đại hội chỉ rõ:
“Tài năng, trí tuệ, phẩm chất của con người Việt Nam là trung tâm, mục tiêu và
động lực phát triển quan trọng nhất của đất nước”[1,
tr.116]. Trong đó, Đại
hội nêu bật chủ trương về phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt
Nam, đó là: “Tập trung nghiên cứu, xác định và triển khai
xây dựng hệ giá trị quốc
gia, hệ giá trị văn hóa và chuẩn mực con người gắn với giữ gìn, phát triển hệ
giá trị gia đình Việt Nam trong thời kỳ mới”[1, tr.143]. Đồng thời, Đại hội XIII nhấn mạnh vấn
đề phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới là: “Đẩy
mạnh phát triển nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao, đáp ứng yêu
cầu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và hội nhập quốc tế”[1,
tr.213].
Kết luận
Tư tưởng Hồ Chí Minh về động
lực của chủ nghĩa xã hội đã được minh chứng qua thực tiễn cách mạng Việt Nam.
Việc xác định đúng động lực cơ bản không chỉ thúc đẩy sự phát triển kinh tế -
xã hội của đất nước với những mục tiêu chiến lược mà còn đảm bảo cho sự phát
triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Giá trị lý luận, thực tiễn của
tư tưởng Hồ Chí Minh về động lực chủ nghĩa xã hội luôn soi sáng con đường cách
mạng của dân tộc Việt Nam, trở thành cơ sở lý luận quan trọng để Đảng hoạch
định chủ trương, đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trong bối cảnh mới hiện
nay với nhiều khó khăn, phức tạp, tư tưởng đó vẫn vẹn nguyên giá trị, củng cố
thêm niềm tin vững chắc vào con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, nhằm
thực hiện khát vọng phát triển một nước Việt Nam phồn vinh, hạnh phúc, giàu
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Tài liệu tham khảo:
[1] Đảng Cộng sản Việt Nam (2011),
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XIII, tập I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.
[2] Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 7, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.
[3] Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 8, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.
[4] Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 9, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.
[5] Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 10, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.
[6] Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập,
tập 12, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.