Bình Định phát huy vai trò của đoàn viên, thanh niên trong
bảo vệ chủ quyền biển, đảo (nguồn: news.vnanet.vn)
Đặt vấn
đề
Chiến
lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm
2045 xác định mục tiêu đến năm 2045: “Việt Nam trở thành quốc gia biển mạnh,
phát triển bền vững, thịnh vượng, an ninh, an toàn; kinh tế biển đóng góp quan
trọng vào nền kinh tế đất nước, góp phần xây dựng nước ta thành nước công
nghiệp hiện đại theo định hướng xã hội chủ nghĩa; tham gia chủ động và có trách
nhiệm vào giải quyết các vấn đề quốc tế và khu vực về biển và đại dương”[1].Trong tình hình mới hiện nay, tập trung
khơi dậy khát vọng phát triển biển, đảo bền vững trong cán bộ, đảng viên, nhân
dân và lực lượng vũ trang; cùng toàn Đảng, toàn dân, toàn quân hiện thực hóa
các mục tiêu, chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của
Đảng đã đề ra có ý nghĩa thiết thực cả về lý luận và thực tiễn.
1. Chủ quyền biển, đảo Việt Nam
Biển,
đảo Việt Nam là một bộ phận cấu thành chủ quyền quốc gia, là không gian sinh
tồn, cửa ngõ giao lưu quốc tế, gắn bó mật thiết với sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc. Đây cũng là địa bàn chiến lược về quốc phòng, an ninh, là tuyến
phòng thủ hướng đông của đất nước, tạo khoảng không gian cần thiết giúp kiểm
soát việc tiếp cận lãnh thổ trên đất liền.
Căn
cứ quy định của Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển (UNCLOS) năm 1982, Điều 3,
Luật Biển năm 2013 xác định “Vùng biển Việt Nam bao gồm nội thủy, lãnh hải,
vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa thuộc chủ
quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia của Việt Nam, được xác định
theo pháp luật Việt Nam, điều ước quốc tế về biên giới lãnh thổ mà nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên và phù hợp với Công ước của Liên
hiệp quốc về Luật Biển năm 1982”[5].
Như vậy, theo Công ước
của Liên hiệp quốc về Luật Biển năm 1982, Việt Nam có diện tích biển khoảng
trên 1 triệu km2, gấp 3 lần diện tích đất liền, chiếm gần 30% diện tích Biển
Đông (cả Biển Đông gần 3,5 triệu km). Với bờ biển dài trên 3.260 km trải dài từ
Bắc xuống Nam, có khoảng 3.000 hòn đảo lớn, nhỏ và 2 quần đảo xa bờ là Hoàng Sa
và Trường Sa, Việt Nam đứng thứ 27 trong số 157 quốc gia ven biển, các quốc đảo
và các lãnh thổ trên thế giới. Chỉ số chiều dài bờ biển trên diện tích đất liền
của nước ta là xấp xỉ 0,01 (nghĩa là cứ 100 km2 đất liền có 1 km bờ biển).
Trong 63 tỉnh, thành phố của cả nước thì 28 tỉnh, thành phố có biển và gần một
nửa dân số sinh sống tại các tỉnh, thành ven biển[4]. Việc bảo vệ chủ quyền quốc gia ở vùng
đặc quyền kinh tế và thềm lục địa là bảo vệ đặc quyền của quốc gia về bảo tồn,
quản lý, thăm dò, khai thác tài nguyên thiên nhiên của biển ở những nơi đó;
thực chất là bảo vệ lợi ích kinh tế ở vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa
của quốc gia. Đó là nhiệm vụ và trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân và toàn
quân ta, của cả hệ thống chính trị; phát huy sức mạnh tổng hợp của mọi lực
lượng; kết hợp chặt chẽ các biện pháp đấu tranh chính trị, kinh tế, pháp lý,
ngoại giao và trên thực địa.
Thế kỷ XXI được xem là “Thế kỷ của đại dương”, khai thác biển
đang trở thành vấn đề mang tính chiến lược đối với nhiều quốc gia, vấn đề tranh
chấp chủ quyền biển, đảo giữa các quốc gia cũng ngày càng nghiêm trọng, đe dọa
đến nền hòa bình của nhiều quốc gia trên thế giới. Do đó, nhiệm vụ bảo vệ chủ
quyền biển, đảo cũng đặt ra nhiều vấn đề cấp bách đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân và
toàn quân phải không ngừng củng cố, nâng cao ý thức, trách nhiệm và khơi dậy
khát vọng bảo vệ chủ quyền biển, đảo cho mọi người dân Việt Nam trong tình hình
mới.
2. Thực trạng ý thức, trách nhiệm và khát vọng bảo vệ chủ
quyền biển, đảo của người dân Việt Nam thời gian qua
Một là, tuyệt đại đa số người dân Việt Nam
đã ý thức được biển, đảo có vị trí chiến lược
hết sức quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến sự nghiệp bảo vệ nền độc lập dân
tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội, có liên quan trực tiếp đến sự phồn vinh của
đất nước, đến văn minh và hạnh phúc của nhân dân. Người dân Việt
Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng thực sự yên tâm và gắn bó với biển, đảo để khai
thác những tiềm năng tài nguyên phong phú, đa
dạng của biển, đảo trong phát triển kinh tế gắn với bảo vệ vững chắc chủ
quyền biển, đảo quốc gia. Hội nghị lần thứ tám,
Ban Chấp hành Trung ương khóa XII khẳng định: “nhận thức của toàn hệ thống
chính trị, nhân dân và đồng bào ta ở nước ngoài về vị trí, vai trò của biển,
đảo đối với phát triển kinh tế, bảo vệ chủ quyền quốc gia được nâng lên rõ rệt.
Chủ quyền, an ninh quốc gia trên biển được giữ vững…”[1].
Hai
là, đại đa số người dân Việt Nam tin tưởng, chấp hành sự lãnh đạo của Đảng,
quản lý của Nhà nước, pháp luật về quốc phòng, an ninh, về bảo vệ chủ quyền
biển, đảo Việt Nam. Bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn
lãnh thổ quốc gia trên biển đang đặt ra nhiều nhiệm vụ cấp bách, trong đó có
vấn đề “xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân trên biển”. Nhận thức được điều đó, người dân Việt
Nam cơ bản đều đã quán triệt tốt quan điểm của Đảng, Nhà nước đối với nhiệm vụ
bảo vệ chủ quyền biển, đảo và giải quyết những bất đồng trên biển, đảo: giữ
vững vai trò lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đối với sự nghiệp quốc
phòng, an ninh cũng như nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo Tổ quốc; phát huy
sức mạnh tổng hợp và đề cao trách nhiệm của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân, của
cả hệ thống chính trị vào thực hiện nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo.
Ba là, nhân dân ở trong nước và kiều bào ở
nước ngoài luôn tin tưởng vào chính sách quốc
phòng an ninh của Đảng và Nhà nước nói chung, bảo vệ chủ quyền biển, đảo nói
riêng. Đồng thời, chấp hành nghiêm chính sách, pháp luật liên quan đến biển,
đảo: Công ước của Liên hiệp quốc về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS 1982); Tuyên bố
về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC); Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam năm 2013; Luật Biên giới quốc gia số 06/2003/QH11; Luật Biển
Việt Nam số 18/2012/QH13 ngày 21 tháng 6 năm 2012; Luật Quốc phòng 2018 số
22/2018/QH14; Luật Dầu khí năm 1993; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật
Dầu khí số 19/2000/QH10 ngày 28/6/2000; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của
Luật Dầu khí số 10/2008/QH12 ngày 03/6/2008; Luật Thủy sản số 18/2017/QH14 ngày 21 tháng 11 năm 2017,
quy định về hoạt động thủy sản; quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân hoạt
động thủy sản hoặc có liên quan đến hoạt động thủy sản; quản lý nhà nước về
thủy sản; Bộ Luật Hàng hải Việt Nam số 95/2015/QH13 ngày 25 tháng 11 năm 2015…
Bốn là, đại đa số người dân Việt Nam luôn có
khát vọng bảo vệ chủ quyền biển, đảo: Tranh thủ các nguồn lực và sự ủng hộ từ
hợp tác quốc tế với các nước bạn bè cùng các tổ chức quốc tế trên mọi lĩnh vực;
tăng cường học tập, nghiên cứu, phổ biến giáo dục pháp luật về bảo vệ và phát
triển biển, đảo bền vững; tham gia tuyên truyền và nâng cao nhận thức cho cộng
đồng về sử dụng, khai thác bền vững nguồn tài nguyên và bảo vệ môi trường vùng
ven biển và hải đảo; quảng bá và xây dựng thương hiệu biển Việt Nam, góp phần
nâng cao nhận thức về vị thế quốc gia biển và hội nhập quốc tế trong quản lý,
phát triển và bảo vệ biển, đảo.
Người dân đã có trách nhiệm đối với lĩnh vực quốc phòng an ninh, lực lượng
thanh niên sẵn sàng thực hiện nghĩa vụ quân sự khi được gọi nhập ngũ, nhiều
thanh niên ưu tú có phẩm chất và năng lực chuyên môn cao đã tình nguyện nhập
ngũ phục vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo và phát triển kinh tế biển của đất nước;
tích cực, chủ động tham gia lực lượng Dân quân tự vệ, xây dựng nền quốc phòng
toàn dân; chấp hành biện pháp của Nhà nước và người có thẩm quyền trong thực
hiện nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo…
Ngư dân các địa phương ven biển, hải đảo luôn khắc phục
khó khăn, thực hiện vươn khơi, bám biển khẳng định chủ quyền biển, đảo của Tổ
quốc. Nhận thức được rằng, nghề đi biển không chỉ là sinh kế nuôi sống bản thân,
gia đình, mà còn có ý nghĩa chung tay bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc.
Chính vì vậy, ngoài chuẩn bị lương thực, ngư cụ đánh bắt, mỗi ngư dân còn
“trang bị” cho mình cả sự dũng cảm, gan dạ để ứng phó với những tình huống nguy
hiểm, đe dọa từ tàu nước ngoài xâm phạm vùng biển Việt Nam. Ngày càng có nhiều
chủ tàu cá xa bờ ở các tỉnh ven biển tự nguyện viết đơn xin gia nhập vào các tổ
tàu đoàn kết trên biển, thể hiện quyết tâm và khát vọng vươn khơi, bám biển của
người dân Việt Nam.
Tuy nhiên, bên cạnh đại bộ phận người dân có ý thức, trách nhiệm và khát
vọng bảo vệ chủ quyền biển, đảo thì vẫn còn một bộ phận nhỏ cán bộ và người dân
có biểu hiện về nhận thức chưa rõ ràng và sâu sắc đối với nhiệm vụ bảo vệ chủ
quyền biển, đảo. Nhất là sự hiểu biết về quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về
giải quyết các vấn đề liên quan đến chủ quyền biển, đảo trên biển Đông. Một bộ
phận người dân hiểu biết về các quy định của pháp luật Việt Nam và luật pháp
quốc tế về biển, đảo còn hạn chế nên còn những biểu hiện vi phạm như đánh bắt
thủy hải sản sai quy định; khai thác thủy hải sản ở các vùng biển của nước
ngoài, buôn lậu trên biển. Cá biệt, còn một bộ phận người dân không quan tâm
hoặc thờ ơ trước những diễn biến có liên quan đến vấn đề chủ quyền quốc gia
trên biển; niềm tin và thái độ, trách nhiệm đối với sự nghiệp bảo vệ chủ quyền
biển, đảo có chiều hướng suy giảm…
Nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên là do một bộ phận người dân chưa nhận
thức đúng về vị trí, tầm quan trọng của biển, đảo cũng như ý nghĩa của việc bảo
vệ chủ quyền biển, đảo đối với sự phát triển của đất nước. Công tác tuyên
truyền nâng cao ý thức, trách nhiệm và khát vọng bảo vệ chủ quyền biển, đảo của
người dân còn tồn tại những khó khăn, bất cập: Nội dung, hình thức chưa phong
phú; kinh phí dành cho công tác này còn rất hạn chế; đội ngũ tuyên truyền viên
còn kiêm nhiệm nhiều… Công tác nghiên cứu, dự báo còn chưa theo kịp với thực
tiễn; đời sống của một bộ phận ngư dân nhất là ở các vùng hải đảo còn nhiều khó
khăn.
3. Một số giải pháp nâng cao ý thức, trách
nhiệm và khát vọng bảo vệ chủ quyền biển, đảo cho các tầng lớp nhân dân ở Việt
Nam thời gian tới
Một là, giữ vững và
tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý, điều hành của Nhà nước đối với
nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo làm cơ sở nâng cao ý thức, trách nhiệm và
khát vọng bảo vệ chủ quyền biển, đảo cho người dân. Cần giữ vững nền tảng tư
tưởng của Đảng là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, giữ vững vai trò
chủ đạo và kiên trì chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong hoạch định
đường lối quốc phòng, anh ninh, bảo vệ Tổ quốc nói chung và bảo vệ chủ quyền
biển, đảo nói riêng.
Hai
là, đẩy mạnh công tác nghiên cứu thực tiễn, tổng kết lý luận về vấn đề biển,
đảo; xây dựng các lực lượng thực thi pháp luật biển. Đầu tư đúng mức cho nghiên
cứu tổng kết lý luận và thực tiễn thực hiện nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo
trong lịch sử, nhất là từ năm 1975 đến nay. Đồng thời tăng cường năng lực
nghiên cứu, dự báo, thực hiện nhiệm vụ của các cơ quan, các lực lượng thực hiện
và thực thi pháp luật trên biển. Đẩy mạnh công tác “xã hội hóa” bảo vệ môi trường biển, bảo đảm an ninh, trật
tự trên các vùng biển, đảo.
Ba là,
chăm lo lợi ích vật chất và tinh thần cho nhân dân, nhất là nhân dân vùng
biển, đảo; tạo sự thống nhất cao trong nội bộ, sự đồng thuận trong xã hội làm
cơ sở vững chắc để nâng cao ý thức, trách nhiệm và củng cố khát vọng bảo vệ chủ
quyền biển, đảo Tổ quốc cho nhân dân. Cần tiếp
tục nghiên cứu, xây dựng các chính sách xã hội sát đúng, phù hợp với mọi đối
tượng, nhất là đối với bà con ngư dân sinh sống và bám trụ cùng với biển, đảo;
chính sách hợp lý đối với các lực lượng chức năng tham gia trực tiếp thực hiện
nhiệm vụ quản lý, bảo vệ chủ quyền biển, đảo.
Bốn là, nâng cao ý
thức, trách nhiệm của người dân trong kiên quyết đấu tranh bảo vệ chủ quyền
biển, đảo Việt Nam
Tiếp
tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật của Việt Nam và
luật pháp quốc tế về biển, đảo cho các tầng lớp
nhân dân. Nâng cao hiệu quả, đa dạng hoá nội dung, hình thức, phương
pháp tuyên truyền. Hoạt động tuyên truyền cần
được tổ chức thường xuyên, liên tục ở các cấp, các ngành và các địa phương giúp
người dân củng cố tình cảm, niềm tin và nâng cao ý chí quyết tâm đối với sự
nghiệp bảo vệ chủ quyền biển, đảo Tổ quốc.
Nội dung tuyên truyền cần tập trung đó là: Lịch sử, cơ sở pháp lý đối với
các vùng biển, đảo Việt Nam; quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước về nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo, đặc biệt làNghị quyết Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương
khóa XII về “Chiến lược phát triển bền vững
kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045”; thông
tin các vấn đề liên quan đến tình hình Biển Đông để định hướng tư tưởng, dư
luận trong xã hội; làm rõ bản chất, âm mưu, thủ
đoạn của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề biển, đảo, hoạt động bảo vệ chủ
quyền biển, đảo của các lực lượng chức năng của Việt Nam để tuyên truyền xuyên
tạc, chống phá...
Phát
huy hiệu quả vai trò của các cơ quan báo chí, các phương tiện truyền thông đại
chúng trong công tác tuyên truyền biển, đảo và phổ biến pháp luật về biển, đảo
cho người dân. Biên soạn, xuất bản, phát hành các tài liệu, xuất bản phẩm về
biển, đảo nhằm tuyên truyền kết hợp với đấu tranh phòng, chống các quan điểm
sai trái, phản động liên quan tới vấn đề biên giới lãnh thổ quốc gia trên biển;
khai thác có hiệu quả các hình thức, phương tiện tuyên truyền thông qua sử dụng
mạng internet, mạng nội bộ, truyền thanh, bảng tin, bảng ảnh; tiếp tục phát huy
vai trò của đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên, cán bộ có uy tín ở cơ sở
các chức sắc, chức việc tôn giáo, người có uy tín trong cộng đồng hội viên các
đoàn thể chính trị - xã hội.
Kết luận
Bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo là trách nhiệm thiêng liêng cũng là
nghĩa vụ của mỗi công dân Việt Nam góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây
dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Trong thời gian
qua, nhân dân Việt Nam đã luôn có ý thức, trách nhiệm và thể hiện khát vọng bảo
vệ chủ quyền biển, đảo của mình bằng những việc làm, hành động cụ thể của bản
thân. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt ưu điểm, ý thức, trách nhiệm và khát vọng
bảo vệ chủ quyền biển, đảo của một bộ phận người dân còn có những hạn chế đòi
hỏi trong thời gian tới cần có những giải pháp nhằm nâng cao hơn nữa ý thức,
trách nhiệm và khát vọng bảo vệ chủ quyền biển, đảo của người dân.
Tài liệu tham khảo:
[1] Đảng Cộng sản Việt Nam (2018), Nghị
quyết số 36-NQ/TW ngày 22/10/2018, Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung
ương Đảng (khóa XII) về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam
đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, https://tulieuvankien.dangcongsan.vn
[2] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII,
tập I, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.
[3] Liên Hợp quốc (1982), Công ước về Luật Biển năm 1982 ký kết ngày 10 tháng 12 năm 1982,
https://thuvienphapluat.vn
[4] Nguyễn Thị Hồng Ngọc - Nguyễn Thị Thuý Vân (2021), Bảo vệ chủ quyền biển, đảo và trách nhiệm của thế hệ
trẻ, https://diendandoanhnghiep.vn
[5] Quốc hội, Luật
Biển Việt Nam, số 18/2012/QH13 ngày 21 tháng 6 năm 2012, https://thuvienphapluat.vn
[6] Ủy ban Biên giới quốc gia - Bộ Ngoại giao (2016), Tài liệu định hướng công tác tuyên truyền về biển,
đảo, Nxb. Dân
Trí, Hà Nội.