Thứ Bảy, ngày 30/09/2023, 07:47

Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về an ninh mạng quốc gia và bảo vệ an ninh mạng quốc gia thời kỳ mới

Nguyễn Văn Nghĩa
Học viện Chính trị khu vực I

(GDLL) - Bảo vệ chủ quyền, lợi ích và an ninh quốc gia trên không gian mạng trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra mạnh mẽ là nhiệm vụ rất quan trọng, có tầm chiến lược. Phòng, chống tấn công mạng, tội phạm mạng và ứng phó với những nguy cơ mới đến từ không gian mạng đã trở thành vấn đề toàn cầu, trong đó có Việt Nam. Bài viết đi sâu khái quát quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về an ninh mạng quốc gia và đề xuất một số giải pháp chủ yếu thực hiện có hiệu quả quan điểm của Đảng về an ninh mạng và bảo vệ an ninh mạng quốc gia thời kỳ mới.

Nguyễn Văn Nghĩa
Học viện Chính trị khu vực I


ASEAN chung tay ứng phó xử lý tin sai sự thật trên không gian mạng (nguồn: vnanet.vn)

Đặt vấn đề

Trên cơ sở tổng kết thực tiễn thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc (BVTQ) Việt Nam xã hội chủ nghĩa (XHCN) thời kỳ đổi mới vừa qua, chúng ta thấy: Tại Việt Nam đã xuất hiện nhiều cuộc tấn công mạng với quy mô ngày càng lớn, cường độ cao, đe dọa trực tiếp đến an ninh quốc gia (ANQG) và trật tự an toàn xã hội. Hoạt động tội phạm mạng và những hành vi vi phạm pháp luật trên không gian mạng (KGM) ngày càng gia tăng về số vụ, thủ đoạn và tính chất, mức độ nguy hiểm, gây thiệt hại nghiêm trọng trên các lĩnh vực đời sống xã hội. Các thế lực thù địch, phản động đang triệt để lợi dung KGM để tiến hành các hoạt động xâm phạm ANQG, tuyên truyền chống phá chế độ, kích động biểu tình, bạo loạn đối với Việt Nam.

Thời gian qua, công tác bảo đảm an ninh mạng (ANM) đã được quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt, góp phần giữ vững ANQG, trật tự, an toàn xã hội, phục vụ nhiệm vụ xây dựng và BVTQ. Tuy nhiên, nếu đánh giá khách quan công tác bảo đảm ANM vẫn còn những hạn chế, bất cập cần khắc phục trong thời gian tới, đó là: Tiềm lực bảo đảm ANM chưa đủ mạnh; năng lực phòng, chống tấn công mạng và tội phạm mạng chưa đáp ứng kịp thời đòi hỏi của tình hình; quản lý nhà nước trên lĩnh vực viễn thông, Internet để bảo đảm ANM, phòng, chống tội phạm mạng còn nhiều bất cập. Nhận thức của các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân về bảo vệ ANM còn hạn chế…Chính vì vậy, trong thời kỳ mới hiện nay đặt vấn đề nghiên cứu sâu sắc, thực hiện có hiệu quả quan điểm của Đảng về ANM quốc gia và bảo vệ ANM quốc gia là có tính cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn nhằm thực hiện tốt chiến lược xây dựng và BVTQ Việt Nam XHCN.

1. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về an ninh mạng quốc gia

Từ tình hình thực tiễn và nhằm nâng cao năng lực bảo vệ ANM, tăng cường khả năng sáng tạo và làm chủ công nghệ, bảo đảm vững chắc ANQG trong thời kỳ mới, Đảng ta đã đề ra quan điểm về ANM quốc gia và bảo vệ ANM quốc gia nhằm góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu BVTQ theo tinh thần Đại hội XIII của Đảng. Dưới đây là các quan điểm cụ thể:

Thứ nhất, ANM có vị trí đặc biệt quan trọng, là nhiệm vụ trọng yếu thường xuyên, vừa cấp bách, vừa lâu dài của hệ thống chính trị, của toàn dân, của các cấp, các ngành dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý thống nhất của Nhà nước, trong đó lực lượng Công an nhân dân, Quân đội nhân dân giữ vai trò nòng cốt.

Thứ hai, huy động và phát huy sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị và của toàn xã hội trong công tác bảo đảm ANM. Kết hợp chặt chẽ giữa nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, khoa học-công nghệ, đối ngoại với nhiệm vụ bảo đảm ANQG, trật tự, an toàn xã hội trên KGM. Chú trọng công tác tuyên truyền, vận động nâng cao nhận thức và kiến thức về bảo vệ ANM cho toàn xã hội, từng bước xây dựng thế trận an ninh nhân dân gắn với thế trận quốc phòng toàn dân vững chắc trên KGM.

Thứ ba, tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về ANM; quản lý chặt chẽ hoạt động cung cấp, sử dụng dịch vụ viễn thông, Internet tại Việt Nam; nâng cao hiệu quả phối hợp giữa các ngành chức năng trong quản lý nhà nước về ANM; đề cao trách nhiệm người đứng đầu các cơ quan, tổ chức, đơn vị trong công tác bảo vệ ANM trên phạm vi địa bàn, lĩnh vực được phụ trách. Không để bị động, bất ngờ trong mọi tình huống.

Thứ tư, đầu tư cho bảo vệ ANM là đầu tư cho phát triển và bảo vệ đất nước, ưu tiên đầu tư cho ANM, đầu tư cho ứng dụng công nghệ thông tin trong các lĩnh vực phải gắn với đầu tư cho bảo vệ ANM, bảo đảm theo kịp sự phát triển của khoa học-công nghệ của thời đại. Lấy con người, trí tuệ con người làm trung tâm, là nhân tố quyết định, đồng thời, tranh thủ tối đa những thành tựu khoa học-công nghệ; không để bị tụt hậu về con người và công nghệ.

Thứ năm, xây dựng lực lượng chuyên trách bảo vệ ANM chính quy, tinh nhuệ, hiện đại ngang tầm khu vực và quốc tế, nắm chắc tình hình, chủ động phòng ngừa, đấu tranh, xử lý kịp thời, hiệu quả các thách thức, nguy cơ đe dọa và tình huống nguy hiểm về ANM; bảo vệ vững chắc chủ quyền, lợi ích, ANQG trên KGM.

Thứ sáu, huy động, phát huy hiệu quả các nguồn lực trong nước đi đôi với tăng cường, mở rộng hợp tác quốc tế trong bảo đảm an ninh thông tin và ANM; phát huy mạnh mẽ sức sáng tạo, tinh thần yêu nước, tự hào dân tộc, độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường xây dựng và phát triển công nghiệp ANM.

Đại hội XIII của Đảng (2021) tiếp tục khẳng định: “Triển khai thực hiện toàn diện, đồng bộ Chiến lược bảo vệ Tổ quốc Chiến lược quốc phòng, Chiến lược quân sự, Chiến lược bảo vệ an ninh quốc gia, Chiến lược bảo vệ biên giới quốc gia, Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng, Chiến lược an ninh mạng quốc gia và các chiến lược quốc phòng, an ninh chuyên ngành khác”[5, tr.100], đồng thời: “Thiết lập thế trận an ninh liên hoàn bên trong với bên ngoài biên giới quốc gia và trên không gian mạng; đặc biệt coi trọng an ninh mạng”[5, tr.280]. Để nhằm: “Bảo đảm an ninh kinh tế, an ninh thông tin tuyên truyền, an ninh mạng và an ninh xã hội. Xử lý hài hòa các vấn đề dân tộc, tôn giáo, bức xúc xã hội, không để xảy ra các điểm nóng”[5, tr.281].

Các quan điểm trên của Đảng về ANM quốc gia và bảo vệ ANM quốc gia thể hiện rõ tư duy mới, nhận thức mới về mục tiêu, nhiệm vụ, nội dung BVTQ, nhất là về ANQG, ANM quốc gia và bảo vệ ANM quốc gia góp phần bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN thời kỳ mới.

2. Một số giải pháp chủ yếu thực hiện có hiệu quả quan điểm của Đảng về an ninh mạng và bảo vệ an ninh mạng quốc gia thời kỳ mới

Một là, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, nâng cao nhận thức của cả hệ thống chính trị về nhiệm vụ bảo vệ an ninh mạng quốc gia, xây dựng thế trận an ninh nhân dân trên không gian mạng

Tổ chức phổ biến, quán triệt trong các cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, đoàn thể, cơ quan, doanh nghiệp, trường học và toàn xã hội về vị trí, tầm quan trọng của ANM trong sự nghiệp xây dựng và BVTQ; về âm mưu, thủ đoạn, hoạt động chống phá và tội phạm trên KGM; về vai trò, trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân trong bảo vệ ANM và xây dựng KGM an toàn, lành mạnh. Người đứng đầu cấp ủy, chính quyền các cấp, các cơ quan, tổ chức, đơn vị phải trực tiếp chỉ đạo và chịu trách nhiệm về hoạt động bảo vệ ANM đối với hệ thống thông tin trong phạm vi được giao phụ trách.

Xây dựng cơ chế thông tin, tuyên truyền, đào tạo, bồi dưỡng nâng cao nhận thức và kỹ năng bảo vệ ANM, phòng, chống tội phạm mạng cho các tầng lớp nhân dân, nhất là thế hệ trẻ. Từng cơ quan, doanh nghiệp, tổ chức và cá nhân có trách nhiệm xây dựng, duy trì và bảo vệ hệ thống thông tin trên nền tảng ứng dụng các thành tựu khoa học-công nghệ mới, tạo dựng KGM an toàn, lành mạnh.

Xây dựng và hình thành thế trận an ninh nhân dân trên KGM. Phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, toàn quân và toàn dân, trong đó các lực lượng chức năng giữ vai trò tham mưu, nòng cốt trong đấu tranh phản bác các thông tin, quan điểm sai trái, thù địch, phản động; tích cực tham gia phòng, chống tội phạm và bảo vệ ANM.

Hai là, xây dựng, bổ sung hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật về an ninh mạng; nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về an ninh mạng

Tổ chức hiệu quả Luật ANM (năm 2018), tiếp tục rà soát, sửa đổi, bổ sung, ban hành các văn bản quy phạm pháp luật, cơ chế và chính sách về ANM, phòng, chống tội phạm, đáp ứng yêu cầu của tình hình mới.

Xây dựng bộ quy tắc ứng xử trên KGM; cơ chế trao đổi, chia sẻ thông tin giữa các cơ quan, đơn vị chủ quản hệ thống thông tin với các ban, ngành chức năng, doanh nghiệp ANM và quan hệ hợp tác giữa Việt nam với các nước trên lĩnh vực này.

Ba là, kiện toàn tổ chức và tăng cường quan hệ phối hợp giữa các lực lượng chức năng trong bảo vệ an ninh mạng

Kiện toàn lực lượng chuyên trách bảo vệ ANM thuộc Bộ Công an, Bộ Quốc phòng. Tập trung đầu tư nâng cao năng lực cho lực lượng thực hiện chức năng tham mưu, quản lý nhà nước về ANM và lực lượng trực tiếp đấu tranh chống các thế lực thù địch, các đối tượng phản động, tội phạm trên KGM. Tiếp tục kiện toàn tổ chức bộ máy thực hiện chức năng quản lý nhà nước về an toàn thông tin mạng.

Xây dựng, phát triển và quản lý chặt chẽ, hiệu quả lực lượng cộng tác viên phục vụ các hoạt động bảo vệ ANQG, trật tự, an toàn xã hội trên KGM.

Tăng cường phối hợp chặt chẽ giữa các lực lượng Công an, Quân đội, Thông tin và Truyền thông, Tuyên giáo, Cơ yếu và các lực lượng khác trong bảo vệ ANM.

Bốn là, bảo đảm các nguồn lực đáp ứng yêu cầu bảo vệ an ninh mạng

 Ban hành chính sách, chế độ đặc thù đối với lực lượng chuyên trách bảo vệ ANM. Xây dựng cơ chế, chính sách thu hút, phát triển đội ngũ chuyên gia công nghệ thông tin, bảo vệ ANM từ các nhà trường và trong các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội, doanh nghiệp. Tổ chức đào tạo theo cơ chế đặc thù để hình thành đội ngũ chuyên gia bảo vệ ANM bổ sung cho lực lượng chuyên trách bảo vệ ANM đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ. Xây dựng các chương trình đào tạo chuyên sâu về ANM cho cán bộ chuyên trách tại các cơ quan, tổ chức quản lý, vận hành hệ thống thông tin quan trọng về ANQG.

Xây dựng và phát triển công nghiệp ANM tự chủ, sáng tạo. Có cơ chế khuyến khích, hỗ trợ và huy động các tổ chức, cá nhân khởi nghiệp về công nghệ ANM, các doanh nghiệp công nghệ thông tin, cung cấp dịch vụ viễn thông, Internet trong nước làm chủ thị trường; hình thành các doanh nghiệp có năng lực tự sản xuất, cung cấp dịch vụ, các trang thiết bị, giải pháp gắn với bảo vệ ANM, tăng tỷ lệ nội địa hóa các sản phẩm công nghệ thông tin.

Ưu tiên bố trí kinh phí cho công tác bảo vệ ANM. Tăng kinh phí cho các cơ quan chuyên trách bảo đảm an toàn thông tin mạng của Bộ Thông tin và Truyền thông, Ban Tuyên giáo Trung ương và các bộ, ngành, địa phương.

Năm là, triển khai các chương trình và biện pháp kỹ thuật bảo vệ an ninh mạng đối với các hệ thống thông tin quan trọng về an ninh quốc gia

Thẩm định phương án và triển khai biện pháp bảo vệ ANM đối với hệ thống thông tin quan trọng về ANQG, theo hướng: Hệ thống thông tin quan trọng về ANQG phải được thường xuyên kiểm tra, đánh giá, bảo vệ từ giai đoạn thiết kế, xây dựng, phát triển, vận hành và sử dụng; các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, đề án, dự án ứng dựng, phát triển công nghệ thông tin liên quan đến hệ thống thông tin quan trọng về ANQG phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền thẩm định trước khi triển khai; cơ quan chủ quản vận hành hệ thống thông tin quan trọng về ANQG chịu trách nhiệm triển khai các phương án, biện pháp bảo vệ ANM đối với hệ thống thông tin được giao phụ trách.

Xây dựng các hệ thống thu thập, xử lý, giám sát tập trung, đồng bộ, liên tục và cảnh báo sớm hoạt động tấn công mạng đối với hệ thống thông tin quan trọng về ANQG. Thu thập thông tin và cảnh báo sớm hoạt động tấn công mạng tại các luồng lưu lượng của các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ viễn thông, Internet, hệ thống thông tin quan trọng về ANQG và các khu vực công cộng trên KGM quốc gia. Kiểm định ANM đối với hệ thống thông tin quan trọng về ANQG.

Sáu là, tăng cường năng lực, nâng cao hiệu quả đấu tranh bảo vệ an ninh mạng, phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật trên không gian mạng

Tăng cường năng lực điều tra, triển khai các biện pháp kỹ thuật chuyên biệt vô hiệu hóa nguồn phát động tấn công mạng, chiến dịch tấn công mạng, hoạt động sử dụng KGM xâm phạm ANQG, trọng tâm là hoạt động chống phá Đảng, Nhà nước, kích động biểu tình, bạo loạn, phá hoại, khủng bố, gây rối an ninh, trật tự.

Xây dựng và triển khai hệ thống tường lửa quốc gia có khả năng giám sát, chặn, lọc đối với giao thức, dịch vụ phổ biến trên KGM, bảo đảm các cổng kết nối mạng quốc tế phải kết nối với hệ thống tường lửa quốc gia; các trung tâm dữ liệu lớn, dữ liệu nhanh, trí tuệ nhân tạo tích hợp để thu thập, lưu trữ, truy xuất, phân tích, xử lý các nguồn dữ liệu phục vụ công tác bảo vệ ANM. Nâng cấp các hệ thống có chức năng làm lành mạnh thông tin, tăng cường truyền tải thông tin đúng đắn, chính thống về đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước trên KGM.

Nâng cấp trung tâm huấn luyện đấu tranh bảo vệ ANM; xây dựng các cơ sở nghiên cứu, thực nghiệm, đào tạo nâng cao năng lực phân tích, dự báo và đề ra các giải pháp ứng phó với các thách thức, nguy cơ mới đến từ các hình thái phát triển của KGM.

Xây dựng và triển khai các hệ thống phát hiện, phân tích, điều tra, ngăn chặn, vô hiệu hóa hoạt động sử dụng KGM phá hoại tư tưởng, phá hoại nội bộ, hoạt động gián điệp mạng, khủng bố mạng và các hành vi khác xâm phạm ANQG, trật tự, an toàn xã hội, giải pháp nghiệp vụ kỹ thuật chuyên biệt thực hiện công tác tình báo mạng.

Bảy là, tăng cường, mở rộng quan hệ và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế về bảo vệ an ninh mạng

Mở rộng, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế trong bảo vệ ANM quốc gia. Chủ động tham gia các điều ước quốc tế về ANM, phòng, chống tội phạm mạng. Thiết lập quan hệ hợp tác quốc tế chặt chẽ, thường xuyên về ANM với các quốc gia, tổ chức, tập đoàn nước ngoài có tiềm lực mạnh.

Tăng cường, mở rộng hợp tác quốc tế với các quốc gia, tổ chức quốc tế, các tập đoàn đa quốc gia có trình độ phát triển cao về công nghệ thông tin để đào tạo nguồn nhân lực, tiếp thu công nghệ mới và kinh nghiệm bảo vệ ANM quốc gia.

Kết luận

Trong bối cảnh mới hiện nay, đặt vấn đề nghiên cứu, quán triệt sâu sắc, thực hiện tốt quan điểm của Đảng về ANM quốc gia và bảo vệ ANM quốc gia là rất có ý nghĩa nhằm góp phần thiết thực đưa nghị quyết Đại hội XIII của Đảng vào cuộc sống. Để thực hiện có hiệu quả quan điểm của Đảng về ANM quốc gia và bảo vệ ANM quốc gia cần thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp từ Trung ương đến cơ sở nhằm nhận thức đầy đủ, đúng đắn về vai trò quan trọng của ANM và các thách thức, mối đe dọa từ KGM đối với đất nước ta, từ đó quyết tâm mạnh mẽ trong nhận thức và hoạt động bảo vệ vững chắc ANM quốc gia, góp phần bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, ANQG và phát triển nhanh, bền vững đất nước, không để bị động, bất ngờ trong mọi tình huống, nhất là các tình huống trên KGM quốc gia.

Tài liệu tham khảo:

[1] Ban Chấp hành Trung ương (2013), Nghị quyết số 28-NQ/TW ngày 25/10/2013 của BCHTW khóa XI về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

[2] Bộ Chính trị (1998), Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 17/12/1998 của Bộ Chính trị về Chiến lược an ninh quốc gia.

[3] Bộ Chính trị (2019), Nghị quyết số 51-NQ/TW ngày 05/9/2019 của Bộ Chính trị về Chiến lược bảo vệ an ninh quốc gia.

[4] Bộ Chính trị (2022), Nghị quyết số 12-NQ/TW ngày 16/3/2022 của Bộ Chính trị về Đẩy mạnh xây dựng lực lượng Công an nhân dân thật sự trong sạch, vững mạnh, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới.

[5] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội

[6] Tô Lâm (Chủ biên), (2021), Những điểm mới về an ninh quốc gia trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.

[7] Quốc hội (2013), Hiến pháp năm 2013, Nxb. Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội.

[8] Quốc hội (2004), Luật An ninh quốc gia, Luật số 32/2004/QH11.

Đọc thêm

Nâng cao khả năng thích ứng của nguồn nhân lực Việt Nam trước yêu cầu Cách mạng công nghiệp lần thứ tư

Tác giả: Nguyễn Mai Phương

(GDLL) - Thế giới đã và đang chứng kiến những thay đổi to lớn về mặt khoa học, công nghệ do cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư mang lại. Bài viết nghiên cứu về Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và những yêu cầu đặt ra đối với nguồn nhân lực ở Việt Nam hiện nay; Trên cơ sở đó, đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao khả năng thích ứng của nguồn nhân lực Việt Nam trước yêu cầu của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.

Kiểm soát tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn trong công tác đấu tranh phòng chống tham nhũng, tiêu cực ở Việt Nam hiện nay

Tác giả: Nguyễn Thúy Hoa

(GDLL) - Trong những năm qua, với quyết tâm, nỗ lực của toàn Đảng, toàn dân hoạt động kiểm soát tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn ở nước ta đã có những chuyển biến cả về nhận thức, hành động, đóng vai trò tích cực trong công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực. Bài viết tập trung khái quát quá trình hình thành, phát triển quan điểm của Đảng, chính sách pháp luật nhà nước về kiểm soát tài sản, thu nhập; làm rõ quá trình tổ chức thực hiện kiểm soát tài sản, thu nhập trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp nhằm kiểm soát tốt tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn góp phần nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực ở Việt Nam hiện nay.

TĂNG CƯỜNG ĐỐI NGOẠI NHÂN DÂN THỰC HIỆN THẮNG LỢI NGHỊ QUYẾT ĐẠI HỘI XIII CỦA ĐẢNG

Tác giả: Nguyễn Thị Thúy Hà

(GDLL) - Đối ngoại nhân dân góp phần củng cố, tăng cường mối quan hệ giữa các quốc gia, dân tộc, thúc đẩy đất nước phát triển. Bài viết khái quát một số kết quả đạt được trong đối ngoại nhân dân thời gian qua, từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường đối ngoại nhân dân thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng.

Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng thông qua nêu gương về đạo đức cách mạng

Tác giả: TS Lại Xuân Môn

(TG)-Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) của Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định, một trong những phương thức lãnh đạo trọng yếu của Đảng là nêu gương. Từ đó, để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới, Đảng cần không ngừng đổi mới phương thức lãnh đạo thông qua xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên gương mẫu, tiên phong, có đạo đức cách mạng, nhằm nâng cao hiệu quả lãnh đạo, thực hiện thắng lợi các mục tiêu đã đề ra.

Quan điểm của Đảng về khuyến khích và bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo vì lợi ích chung - một số khuyến nghị

Tác giả: Vũ Quỳnh Mai

(GDLL) - Thể chế hoá quan điểm, đường lối của Đảng thành luật pháp là đòi hỏi tất yếu nhằm giải quyết tốt mối quan hệ trong nguyên tắc Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và Nhân dân làm chủ. Những quan điểm của Đảng về khuyến khích và bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo vì lợi ích chung đã được thể hiện trong Văn kiện của Đảng những năm gần đây song chưa được thể chế hoá thành pháp luật, tạo cơ sở pháp lý hiện thực hoá các quan điểm này. Bài viết tập trung hệ thống hóa các quan điểm của Đảng, sự cần thiết phải thể chế hoá và đề xuất một số kiến nghị nhằm thể chế hoá kịp thời, đúng đắn quan điểm của Đảng về khuyến khích và bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo vì lợi ích chung.