Thủ tướng Phạm Minh Chính
đến thăm và làm việc với Đại học Quốc gia Hà Nội cơ sở Hoà Lạc và Trường Đại
học FPT tại huyện Thạch Thất, Hà Nội về đào tạo và phát triển nguồn nhân lực
chất lượng cao. (Ảnh: Dương Giang; nguồn: vnanet.vn)
Đặt vấn đề
Cách mạng công
nghiệp lần thứ tư đã và đang tác động mạnh mẽ đến nền kinh tế của mỗi quốc gia.
Hiện nay, tỷ lệ lao động cơ bắp ngày một giảm, lao động trí tuệ ngày một tăng,
lợi thế so sánh đang chuyển dần về phía những quốc gia có nguồn nhân lực chất
lượng cao. Do đó, chất lượng nguồn nhân lực đang trở thành yếu tố quyết định
đối với việc gia tăng lợi thế cạnh tranh cũng như sự phát triển nhanh và bền
vững của mỗi quốc gia. Chất lượng nguồn nhân lực phụ thuộc chủ yếu vào chính
sách giáo dục & đào tạo.
1. Vai trò của giáo dục và đào tạo đối với việc
phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao
Giáo dục và đào tạo là hoạt động xã hội đặc
biệt; là bộ phận của kiến trúc thượng tầng, giữ vai trò nền tảng, động lực
quyết định sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Giáo dục và đào tạo là
con đường hiệu quả nhất để con người tiếp cận kịp thời với những thông tin mới
nhất, cập nhật, làm giàu thêm nguồn tri thức và năng lực sáng tạo của mình, chỉ
có thông qua giáo dục và đào tạo mới phát triển và phát huy hiệu quả mọi nguồn
lực trong xã hội. Chính vì thế, từ xưa tới nay, mọi quốc gia, mọi dân tộc trong
quá trình phát triển đều đề cao vai trò quan trọng của giáo dục và đào
tạo.
- Quan điểm của C.Mác về
lao động đã qua giáo dục và đào tạo:
C.Mác là người đánh giá rất cao vai trò của lao động đã qua giáo dục và đào tạo
mà Mác gọi là lao động phức tạp. Theo C.Mác: “Lao động phức tạp chỉ là lao động
giản đơn được nâng
lên lũy thừa, hay nói cho đúng hơn, là lao động giản đơn được nhân lên”[9,tr.75]. Lao động
phức tạp là lao động phải qua học tập, đào tạo, rèn luyện, tích lũy kinh
nghiệm... mới có được. Trong cùng một thời gian thì lao động phức tạp tạo ra
nhiều giá trị hơn so với lao động giản đơn.
- Quan điểm của Chủ tịch Hồ
Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam về giáo dục và đào tạo nguồn nhân lực chất
lượng cao: Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã khẳng định: “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”[11,tr.7], Người cũng
chỉ rõ mục tiêu, sứ mệnh của giáo dục và đào tạo là: “Học để làm việc, làm
người, làm cán bộ. Học để phụng sự đoàn thể, giai cấp và nhân dân, Tổ quốc và
nhân loại”[11,tr.208].
Thấm nhuần tư tưởng đó, trong quá trình lãnh
đạo cách mạng, Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn coi “Giáo dục là quốc sách
hàng đầu, là nhân tố quyết định để thực hiện thành công sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc, là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân”[11,tr.208], giáo dục và đào tạo có sứ mệnh
nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, góp phần quan
trọng phát triển đất nước, xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam[5,tr.77].
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI khẳng
định: “Phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao,
tập trung vào việc đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục quốc dân; gắn kết
chặt chẽ phát triển nguồn nhân lực với phát triển và ứng dụng khoa học, công
nghệ”[4,tr.106].
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của
Đảng (2021) chủ
trương: “Phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao; ưu
tiên phát triển nguồn nhân lực cho công tác lãnh đạo, quản lý và các lĩnh vực
then chốt”[5, tr.203-204],
chú trọng phát triển đội ngũ chuyên gia, nhà khoa học đầu ngành; chú trọng đội
ngũ nhân lực kỹ thuật, nhân lực số, nhân lực quản trị công nghệ, nhân lực quản
lý, quản trị doanh nghiệp; nhân lực quản lý xã hội và tổ chức cuộc sống, chăm
sóc con người”[5, tr.231]
và khẳng định đây là một khâu đột phá chiến lược, là điểm mới, điểm nhấn rất
quan trọng trong thời kỳ xây dựng nền kinh tế tri thức và hội nhập quốc tế sâu
rộng.
Nguồn nhân lực là tổng thể các yếu tố thể
lực, trí lực, kỹ năng lao động, thái độ và phong cách làm việc, kinh nghiệm
sống, đạo đức, lý tưởng, văn hóa, năng lực chuyên môn, tính năng động trong
công việc của bản thân con người và xã hội có thể huy động vào cuộc sống lao
động sáng tạo vì sự phát triển tiến bộ của xã hội. Giáo dục, đào tạo đóng vai
trò quan trọng đối với sự phát triển nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất
lượng cao vì đối tượng hướng đến của giáo dục là con người và mục tiêu là trang
bị kiến thức, trình độ chuyên môn, trình độ tư duy và năng lực cần thiết cho
con người tham gia vào đời sống xã hội, đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước
trong kỷ nguyên số. Bên cạnh đó, giáo dục và đào tạo còn giúp con người phát
triển và hoàn thiện nhân cách, đạo đức nghề nghiệp, nâng cao thể chất. Giáo dục
và đào tạo còn giúp con người có được phương pháp làm việc khoa học, khả năng
thích ứng nhanh với biến đổi của môi trường làm việc. Thông qua giáo dục và đào
tạo, phương pháp làm việc khoa học của con người cũng được hình thành và từng
bước nâng cao. Đặc biệt, giáo dục và đào tạo còn là “phương thức” để giữ gìn,
phổ biến, giao lưu, phát triển văn hóa, khoa học và tạo ra nguồn nhân lực chất
lượng cao phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Trên
thực tế, nhờ có quá trình giáo dục và đào tạo đã tạo ra được nguồn nhân lực
chất lượng cao có tri thức, đạo đức, trình độ chuyên môn, trình độ tư duy khoa
học, kỹ năng, kỹ xảo phần nào đáp ứng được yêu cầu của doanh nghiệp và thị
trường, đáp ứng được yêu cầu phát triển đất nước, đặc biệt là trong thời đại có
sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế tri thức và cuộc Cách mạng công nghiệp lần
thứ tư.
2. Thực trạng giáo dục và đào tạo trong phát triển
nguồn nhân lực chất lượng cao ở Việt Nam hiện nay
Trong suốt quá trình chuyển mình từ một nền
kinh tế lạc hậu, bao cấp sang nền kinh tế thị trường hiện đại định hướng xã hội
chủ nghĩa, Đảng và Nhà nước luôn quan tâm đến việc đào tạo, bồi dưỡng nguồn
nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao. Nhờ đó, mặt bằng dân trí cũng như
trình độ học vấn và tay nghề của người lao động Việt Nam năm 2022 lao động đã
qua đào tạo từ trình độ sơ cấp trở lên là 13,5 triệu người, chiếm 26,2%, tăng
0,1% so với năm 2021[12].
Trong số hơn 13 triệu nhân lực có trình độ từ đào tạo nghề sơ cấp trở lên, nhân
lực có trình độ từ đại học trở lên có khoảng hơn 5 triệu người, chiếm 44%[7]. Trình độ học
vấn, chuyên môn kỹ thuật của nguồn nhân lực Việt Nam ngày càng được nâng lên.
Tỷ lệ dân số có chuyên môn kỹ thuật đã tăng từ 17,7% năm 2007 tăng lên 26,2%
năm 2022[10].
Theo Ngân hàng thế giới (WB, 2020), chỉ số vốn nhân lực (HCI) của Việt Nam năm
2020 là 0, 6779 lên 0,6903 năm 2022, Việt Nam xếp thứ 7/11 quốc gia ở khu vực
Đông Nam Á. Chỉ số phát triển con người (HDI) năm 2022 là 115/189 quốc gia và
vùng lãnh thổ, tăng hai bậc so với năm 2020 [3]. Theo báo cáo của Diễn đàn Kinh tế thế
giới (WEF) công bố tháng 6 -2023, Việt Nam tăng 12 bậc về năng lực cạnh tranh
toàn cầu (GCI) và đang giữ vị trí thứ 56/141 quốc gia [2]. Nhìn chung, giáo dục và đào tạo đã tạo
ra nguồn nhân lực có kỹ năng, nghiệp vụ trong nhiều ngành nghề của nền kinh tế,
bao gồm những ngành, nghề mới xuất hiện, đồng thời, góp phần nâng cao năng suất
lao động của Việt Nam.
Bên cạnh những thành tựu đạt được, giáo dục
và đào tạo ở Việt Nam vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập như:
Một là, có sự mất cân đối lớn về cơ cấu ngành nghề,
chuyên môn nghiệp vụ
Hiện nay, cơ cấu lao động qua đào tạo ở Việt Nam đang chuyển dịch theo hướng bất hợp lý,
hiện tượng “thừa thầy thiếu thợ” đang rất phổ biến. Tỷ lệ lao động giữa các
ngành nghề kinh tế đang mất cân đối khá lớn. Năm 2022, tỷ trọng lao động làm
việc trong ngành nông nghiệp giảm còn 27,6%, các ngành công nghiệp, dịch vụ là
39,1%. Tỷ trọng lao động trong lĩnh vực công nghiệp - xây dựng có sự dao động
nhẹ và đạt mức 33,3% năm 2022[8].
Hai là, trình độ, chuyên môn, nghề nghiệp của đội
ngũ nguồn nhân lực chưa cao
Mặc dù Việt Nam đang có tỷ lệ phổ cập giáo
dục cao đạt khoảng 88%, nhưng số người lao động có trình độ tay nghề, chuyên
môn chỉ chiếm khoảng 11,67% và gần như không thay đổi nhiều so với ba năm
trước. Đặc biệt, năm 2022, tỷ lệ lao động Việt Nam có đủ trình độ tiếng Anh để
làm việc chỉ chiếm 5% lực lượng lao động[6]. Nhìn chung, lao động Việt Nam có trình
độ chuyên môn, tay nghề và kỹ năng chưa đáp ứng được yêu cầu của doanh nghiệp
và của thị trường lao động.
Ba là, kỷ luật lao động và đạo đức nghề nghiệp của
người lao động chưa cao
Trên thực tế, tinh thần trách nhiệm trong
công việc, đạo đức nghề nghiệp, văn hóa doanh nghiệp, ý thức tuân thủ lao động
của người lao động Việt Nam chưa đáp ứng yêu cầu đặt ra trong quá trình sản
xuất công nghiệp. Điều này đã tác động xấu đến chất lượng sản phẩm và khả năng
cạnh tranh hàng hóa trên thị trường. Theo báo cáo của Diễn đàn Kinh tế thế giới
(WEF), hầu hết các chỉ tiêu về nguồn nhân lực của Việt Nam đang ở mức xếp hạng
thấp. Việt Nam xếp thứ 70/100 về chỉ số nguồn nhân lực. Về chỉ số lao động có
chuyên môn cao, Việt Nam đứng thứ 81/100. Chỉ số về chất lượng đào tạo nghề cũng
đang ở mức thấp (80/100)[1].
Nguyên nhân của những hạn chế trên là do nhà
nước chưa có chiến lược phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao toàn diện,
mang tầm quốc gia trong dài hạn Hệ thống giáo dục đào tạo, nhất là đào tạo đại
học còn bộc lộ nhiều hạn chế; Công tác dự báo nhu cầu thị trường lao động còn
yếu...
3. Giải pháp thúc đẩy giáo dục và đào tạo nguồn
nhân lực chất lượng cao ở Việt Nam đáp ứng yêu cầu trong kỷ nguyên số
Thứ nhất, nâng cao nhận
thức về vị trí, vai trò của nhân lực chất lượng cao trong sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước
Trước hết, toàn xã hội và hệ thống chính trị
cần nhìn nhận, đánh giá đúng vai trò “đầu tàu” của nguồn nhân lực chất lượng
cao góp phần bảo đảm sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước. Đặc biệt coi
trọng phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, then chốt là đội ngũ cán bộ
lãnh đạo quản lý giỏi, đội ngũ chuyên gia và cán bộ khoa học, công nghệ đầu
ngành. Tiếp tục đổi mới tư duy trong tuyển dụng, đánh giá và đãi ngộ nguồn nhân
lực dựa trên cơ sở năng lực và hiệu quả công việc. Đẩy mạnh công tác giáo dục,
tuyên truyền góp phần giúp mọi người dân hiểu rõ và những chính sách phát triển
nguồn nhân lực chất lượng cao.
Thứ hai, hoàn
thiện chiến lược tổng thể về phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao trong
thời kỳ mới
Cần hiểu rõ xây dựng chiến lược tổng thể về
phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao là một chủ trương lớn, nhiệm vụ quan
trọng và phức tạp đòi hỏi phải nghiên cứu kỹ lưỡng, thận trọng với một tư duy
đột phá, tầm nhìn lâu dài với thực tiễn. Do đó, cần xác định rõ mục tiêu, quy
mô, lộ trình và những cơ chế, chính sách tổng thể nhằm khắc phục những mâu
thuẫn về phát triển số lượng, chất lượng và cơ cấu; xây dựng chính sách phát
triển nguồn nhân lực chất lượng cao toàn diện và đồng bộ.
Thứ ba, đổi mới và hoàn
thiện hệ thống cơ chế, chính sách về xây dựng, phát triển nguồn nhân lực chất
lượng cao
Tiếp tục điều chỉnh, bổ sung, hoàn thiện hệ
thống cơ chế, chính sách nhằm tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho việc phát
triển nguồn nhân lực chất lượng cao; Thực hiện đồng bộ cơ chế chính sách trên
nhiều phương diện như giáo dục, đào tạo, khoa học - công nghệ, việc làm, thu
nhập, an sinh xã hội… Đặc biệt, coi trọng cơ chế, chính sách thu hút, sử dụng
và đãi ngộ nguồn nhân lực chất lượng cao; đổi mới chính sách bố trí, tuyển dụng
theo hướng công khai, khách quan, chính xác dựa trên phẩm chất và năng lực thực
chất.
Thứ tư, đổi mới mạnh mẽ,
toàn diện giáo dục và đào tạo, từng bước đáp ứng nhu cầu nguồn nhân lực chất
lượng cao cho xã hội
Đổi mới một cách căn bản, toàn diện nền giáo
dục quốc dân, làm cho giáo dục và đào tạo thực sự trở thành “phương tiện đắc
lực” để phát triển trí tuệ, nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân tài xây dựng và
phát triển đất nước; chú trọng đào tạo gắn với nhu cầu xã hội, tiếp tục nâng
cao chất lượng đào tạo, từng bước hoàn thiện cơ chế cộng tác xã hội hóa giáo
dục, đẩy mạnh hướng nghiệp từ bậc phổ thông đến bậc đại học nhằm bảo đảm cho
người học định hướng đúng đắn về ngành, nghề, xác định rõ mục đích, động cơ,
thái độ học tập.
Thứ năm, đẩy mạnh công tác
dự báo nhu cầu thị trường nhân lực
Dự báo chính xác, kịp
thời nhu cầu nguồn nhân lực chất lượng cao của các ngành nghề trong tương lai
là vấn đề mang tính quyết định trong việc đào tạo và phân bố nguồn nhân lực cho
sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, tránh tình trạng thừa và thiếu
nguồn nhân lực. Đây là nội dung cần đặc biệt quan tâm bởi cuộc Cách mạng công
nghiệp 4.0 đang ảnh hưởng lớn tới cơ cấu nền kinh tế, khả năng suy giảm và mất
đi của nhiều ngành nghề cũ và sự xuất hiện của các ngành nghề mới có thể xảy
ra, điều này tác động không nhỏ đến cơ cấu lao động và việc làm ở nước ta trong
những năm tới.
Kết luận
Giáo dục và đào tạo là sự nghiệp của toàn
Đảng, toàn dân, là nhân tố quyết định chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu
của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế. Trong
những năm qua, nhận thức rõ vai trò quan trọng của giáo dục và đào tạo nguồn
nhân lực chất lượng cao, Đảng và Nhà nước đã đưa ra nhiều chủ trương, chính
sách về đổi mới giáo dục và đào tạo; từng bước xây dựng lộ trình và hoàn thiện
chiến lược tổng thể về phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao trong thời kỳ đổi
mới góp phần hoàn thành mục tiêu đưa Việt Nam trở thành nước công nghiệp vào
năm 2030 và nằm trong nhóm nước phát triển thu nhập trung bình cao vào năm 2045.
Tài liệu tham khảo:
[1] Hồng Ánh
(2022), Hình thành nguồn nhân lực chất lượng
cao sẵn sàng đáp ứng chuyển đổi số, Tạp chí Kinh tế và Dự báo,
https://kinhtevadubao.vn/
[2] Cổng thông
tin ASEAN Việt Nam (2023), Việt Nam tăng 12
bậc về năng lực cạnh tranh toàn cầu,
http://trucotkt.asean.vietnam.vn.
[3] Cục Chuyển
đổi số quốc gia (2022), Đánh giá của Liên
hợp Quốc về Nguồn nhân lực trong phát triển Chính phủ điện tử/Chính phủ số của
các nước trên thế giới và của Việt Nam, https://aita.gov.vn.
[4] Đảng Cộng sản
Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
[5] Đảng Cộng sản
Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ XIII, tập I, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà
Nội.
[6] Mai Hoa
(2022), Lao động có tay nghề, chuyên môn cao
chỉ chiếm 11,67%, Báo Hà Nội mới, http://www.hanoimoi.com.vn/
[7] Phạm Thị Kiên
(2022), Thúc đẩy quản trị nguồn nhân lực số
trong doanh nghiệp Việt, Tạp chí tài chính,
https://tapchitaichinh.vn/
[8] Vũ Thị Loan
(2022), Một số vấn đề đặt ra đối với thị
trường lao động và giải pháp trọng tâm nhằm phát triển thị trường lao động linh
hoạt, hiện đại và bền vững, Kỷ yếu hội thảo khoa học quốc gia “Lao
động, việc làm và hoạt động đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao trong kỷ
nguyên số”, Nxb Lao động, Hà Nội.
[9] Các Mác và
Ph.Ăng - Ghen (1993), Toàn tập, tập
23, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
[10] Thanh Mai
(2023), Phát huy lợi thế của thời kỳ cơ cấu
dân số vàng, Báo Nhân dân, https://nhandan.vn/, ngày 23-4-2023.
[11] Hồ Chí Minh
(2011), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia -
Sự thật, Hà Nội.
[12] Tổng cục thống
kê (2023), Thông cáo báo chí tình hình lao
động việc làm quý IV và năm 2022, https://www.gso.gov.vn