Đoàn
Luật sư tỉnh Quảng Ninh góp ý kiến cho Dự thảo Luật Đất đai (nguồn:
vnanet.vn)
Đặt vấn đề
Thể chế, pháp luật về tổ chức và hoạt động của luật sư thời gian qua đã
từng bước được hoàn thiện, tạo hành lang pháp lý cho luật sư và tổ chức hành
nghề luật sư phát triển cả về số lượng và chất lượng, trong đó có đội ngũ luật
sư phục vụ hội nhập quốc tế, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Tuy
nhiên, hiện nay một số quy định pháp luật chưa được hướng dẫn cụ thể hoặc không
còn phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội, thực tiễn phát triển
nghề luật sư ở Việt Nam. Do vậy, phát triển nghề luật sư chú trọng về chất
lượng dịch vụ, giỏi về chuyên môn, nghiệp vụ, ngoại ngữ, vững vàng bản lĩnh
chính trị, trong sáng về đạo đức nghề nghiệp, phục vụ đắc lực cho cải cách tư
pháp và hội nhập quốc tế là yêu cầu cấp thiết hiện nay.
1. Khái quát pháp luật về luật sư và thực tiễn thi
hành
1.1. Về đội ngũ luật sư và hoạt động hành nghề luật sư
Ngay sau khi Luật
Luật sư được ban hành, các văn bản quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật
cũng được ban hành kịp thời, bảo đảm hiệu quả, đúng thời hạn, đúng định hướng,
lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, tính hợp hiến, hợp pháp, khả thi, đưa các quy định
của pháp luật về luật sư vào cuộc sống, phù hợp với nhu cầu của tổ chức và hoạt
động luật sư, điều kiện phát triển kinh tế - xã hội, tiếp cận với thông lệ hành
nghề luật sư quốc tế, đáp ứng yêu cầu thực tiễn.
Trong thời gian
qua, số lượng luật sư phát triển nhanh, chất lượng đội ngũ luật sư đã từng bước
được nâng cao, đáp ứng tốt hơn yêu cầu cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế.
Luật Luật sư quy định rõ về tiêu chuẩn để trở thành luật sư cùng với quy trình,
thủ tục hành chính được đơn giản hóa đã tạo bước phát triển đột phá về số lượng
cũng như chất lượng đội ngũ luật sư [3]. Từ thời điểm triển khai Luật Luật sư
2006 đến nay, đội ngũ luật sư cả nước đã tăng từ 2.871 lên hơn 17.000 luật sư.
Các luật sư đều có trình độ cử nhân luật, trong đó hơn 700 luật sư có trình độ
trên đại học (chiếm trên 5% tổng số luật sư của cả nước); hơn 1.000 luật sư
chuyên sâu trong lĩnh vực thương mại quốc tế [1]. Chất lượng đội ngũ luật sư được nâng
lên thông qua việc quy định chặt chẽ về tiêu chuẩn luật sư. Bên cạnh tiêu chuẩn
về bằng cử nhân luật thì thời gian đào tạo nghề luật sư tăng từ 06 tháng lên 12
tháng; quy định về tập sự hành nghề luật sư cũng chặt chẽ hơn, giao quyền giám
sát cho các Đoàn Luật sư; quy định về nghĩa vụ tham gia bồi dưỡng bắt buộc hằng
năm đối với luật sư. Đồng thời, để thu hút các luật sư có trình độ chuyên môn,
ngoại ngữ, Luật Luật sư quy định công nhận việc đào tạo nghề luật sư ở nước
ngoài, dẫn đến số lượng đội ngũ luật sư này ngày càng tăng. Có hơn 100 luật sư
Việt Nam đã qua khoá đào tạo nghề luật sư ở nước ngoài (Anh, Hoa Kỳ, Úc, Pháp,
Nhật Bản, Hàn Quốc...) và khoảng 20 luật sư Việt Nam được công nhận là luật sư
nước ngoài[1].
Pháp luật đã quy
định rõ phạm vi hành nghề luật sư gồm tham gia tố tụng, thực hiện tư vấn pháp
luật, đại diện ngoài tố tụng và dịch vụ pháp lý khác. Đồng thời, cụ thể hoá
quyền, nghĩa vụ của luật sư, quy định rõ hơn cơ chế pháp lý bảo đảm cho luật sư
thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ, đề cao trách nhiệm pháp lý, trách nhiệm
nghề nghiệp của luật sư trong quá trình hành nghề; mở rộng hơn phạm vi hành
nghề của luật sư; đơn giản hóa thủ tục đăng ký tham gia tố tụng của luật sư...
Các quy định này đã tạo hành lang pháp lý cho luật sư hành nghề.
Đội ngũ luật sư đã tham
gia nhiều vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh thương mại...
Các luật sư đã tích cực, chủ động tham gia vào việc giải quyết các tranh chấp
quốc tế, hỗ trợ có hiệu quả cho Chính phủ, doanh nghiệp trong các vụ, việc liên quan đến phòng vệ
thương mại, tham gia giải quyết tranh chấp theo cơ chế giải quyết tranh chấp
của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), trợ giúp cho các hãng luật nước ngoài
trong quá trình giải quyết vụ việc (ví dụ: Vụ Saigon Metropolitan, vụ kiện Dialasie, vụ kiện South Fork, các vụ kiện tôm, cá
ba sa...) [5].
1.2. Về
tổ chức hành nghề luật sư
Luật Luật sư quy định đa dạng hơn mô hình tổ
chức hành nghề luật sư, bao gồm Văn phòng luật sư, Công ty luật trách nhiệm hữu
hạn một thành viên hoặc hai thành viên trở lên, Công ty luật hợp danh... Quy
định về trình tự, thủ tục thành lập tổ chức hành nghề luật sư theo hướng đơn
giản hóa, tạo điều kiện thuận lợi trong quá trình hoạt động, chuyển đổi hình
thức tổ chức hành nghề, nhờ đó số lượng tổ chức hành nghề luật sư ngày càng
tăng, trong đó có các tỉnh có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn khu vực miền
núi phía Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ.
Từ thời điểm triển khai Luật Luật sư 2006 đến
nay, số lượng tổ chức hành nghề luật sư tăng từ 1.300 tổ chức lên hơn 5.000 tổ
chức hành nghề luật sư.
Việc thành lập nhiều tổ chức hành nghề luật
sư đã tạo điều kiện cho cá nhân, tổ chức thuận lợi hơn trong việc tiếp cận với
dịch vụ của luật sư. Một số tổ chức hành nghề luật sư bước đầu phát huy được
thế mạnh, xây dựng được thương hiệu của mình, tạo được sự tín nhiệm trên
thị trường dịch vụ pháp lý trong khu vực và quốc tế, trở thành “đối tác”
cạnh tranh với các tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài và được các tạp chí uy
tín trong khu vực xếp hạng đang ngày một gia tăng.
Tổ chức và hoạt động của luật sư nước ngoài
tại Việt Nam đã có bước phát triển (Tính đến tháng 8/2022, có 55 Công ty luật
nước ngoài và 36 Chi nhánh của tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài và hơn 300
luật sư nước ngoài đang hành nghề tại Việt Nam), đóng góp tích cực trong việc
tạo môi trường pháp lý thuận lợi, thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, hỗ
trợ tích cực cho các hoạt động kinh doanh, đầu tư, thương mại, giúp các luật sư
Việt Nam có thêm cơ hội tiếp nhận, nâng cao kiến thức và kỹ năng hành nghề tư
vấn pháp luật về đầu tư, thương mại quốc tế. [5]
1.3. Về tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư
Từ khi Liên đoàn Luật sư
được thành lập, vị trí, vai trò của tổ chức xã hội - nghề nghiệp cũng đã từng
bước được nâng lên. Bên cạnh đó, Luật Luật sư cũng đã chuyển giao nhiều nhiệm
vụ thuộc phạm vi quản lý nhà nước cho tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư
như cho ý kiến về đề án tổ chức Đại hội, phương án nhân sự và chỉ đạo Đại hội
Đoàn Luật sư; thực hiện kiểm tra kết quả tập sự hành nghề luật sư; bồi dưỡng
bắt buộc hàng năm cho luật sư; giải quyết khiếu nại tố cáo; tổ chức cho luật sư
thực hiện trợ giúp pháp lý... [5]
Luật Luật sư cũng tạo hành lang pháp lý thông
thoáng để tổ chức xã hội - nghề nghiệp có thể phát huy tối đa tính tự quản, tự
chịu trách nhiệm của mình. Luật Luật sư quy định quản lý luật sư và hành nghề
luật sư được thực hiện theo nguyên tắc kết hợp quản lý nhà nước với chế độ tự
quản của tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư, tổ chức hành nghề luật sư.
Nhà nước thực hiện chức năng định hướng, điều tiết và hỗ trợ phát triển nghề
luật sư, không can thiệp vào hoạt động nghề nghiệp của luật sư. Cơ quan quản lý
nhà nước tập trung vào việc xây dựng và hoạch định chính sách phát triển nghề
luật sư, hoàn thiện thể chế, đào tạo nghề luật sư, kiểm tra, thanh tra và tranh
thủ mọi nguồn lực nhằm hỗ trợ phát triển nghề luật sư.
2. Một số hạn chế trong hoạt động hành nghề luật
sư và nguyên nhân
2.1. Về
hạn chế
Trong quá trình triển khai thực hiện pháp
luật về luật sư đã phát sinh một số bất cập, hạn chế như sau:
(i) Còn một số chủ trương, chính sách phát triển
nghề luật sư chưa được thể chế hóa hoặc chưa được triển khai thực hiện đầy đủ
tại một số bộ, ngành, địa phương (ví dụ: chính sách hỗ trợ, phát triển đội ngũ
luật sư phục vụ hội nhập quốc tế; chính sách sử dụng luật sư trong các dự án
công...).
(ii) Còn tình trạng một số luật sư có hành vi
tiêu cực trong hành nghề, trong các hoạt động chính trị, xã hội khác hoặc lợi
dụng quyền hành nghề luật sư để thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật, tác
động, lôi kéo người dân thực hiện khiếu nại, khiếu kiện, tụ tập đông người trái
pháp luật, gây mất trật tự, an toàn xã hội.
(iii) Đa số các tổ chức hành nghề luật sư có quy
mô nhỏ; công tác quản trị, điều hành, tính chuyên nghiệp của một số tổ chức
hành nghề chưa cao, chưa thực sự tạo được niềm tin đối với khách hàng, cơ quan,
tổ chức.
(iv) Vai trò tự quản của tổ chức xã hội - nghề
nghiệp của luật sư có điểm còn chưa tương xứng với yêu cầu. Một số nhiệm vụ
pháp luật giao cho các tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư thực hiện đã
được triển khai nhưng chưa thực sự hiệu quả.
(v) Việc đăng ký kinh doanh hoạt động đại diện,
tư vấn pháp luật còn có cách hiểu chưa thống nhất dẫn đến tình trạng cho phép
những người không đủ tiêu chuẩn về chuyên môn,
nghiệp vụ, đạo đức nghề nghiệp luật sư được cung cấp dịch vụ như luật sư, ảnh
hưởng tới chất lượng dịch vụ pháp lý của luật sư.
(vi) Chất lượng dịch vụ của luật sư chưa đồng
đều, chưa tương xứng với yêu cầu, đòi hỏi của thực tiễn và tạo lập được niềm
tin với người dân, doanh nghiệp và Nhà nước. Việc phát triển đội ngũ luật sư có
trình độ ngoại ngữ, hoạt động chuyên sâu trong lĩnh vực thương mại quốc tế còn
chưa tương xứng với yêu cầu của thực tiễn.
2.2.
Nguyên nhân
a) Nguyên nhân khách quan
- Một số quy định cụ thể của pháp luật về
luật sư và hành nghề luật sư chưa theo kịp sự phát triển của nghề luật sư, tính
dự báo chưa cao, chưa phù hợp với thực tiễn hoạt động luật sư. Một số nhiệm vụ
trước đây thuộc về quản lý nhà nước được chuyển giao cho tổ chức xã hội - nghề
nghiệp của luật sư đã và đang bộc lộ những hạn chế, bất cập, cần có sự đánh
giá, nghiên cứu điều chỉnh trong thời gian tới.
- Quy định đầu vào của luật sư chưa chặt chẽ,
tiêu chuẩn trở thành luật sư theo quy định của Luật Luật sư chưa tương thích
với pháp luật về các nghề bổ trợ tư pháp khác (công chứng viên, đấu giá
viên...).
- Nguyên tắc kết hợp song song giữa quản lý
của nhà nước và chế độ tự quản của tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư còn
bất cập, đôi khi có sự chồng lấn, làm giảm hiệu lực, hiệu quả quản lý.
- Cơ quan quản lý nhà nước hiện nay còn thiếu
công cụ pháp lý để thực hiện có hiệu quả một số nhiệm vụ quản lý nhà nước đối
với tổ chức và hoạt động luật sư; thiếu cơ chế hữu hiệu để đảm bảo hiệu quả
quản lý nhà nước với hoạt động tự quản của luật sư.
b) Nguyên nhân chủ quan
- Nhận thức về tư tưởng, chính trị, ý thức
tuân thủ pháp luật, tuân theo Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp của một số
luật sư chưa được bảo đảm.
- Trách nhiệm, vai trò quản lý, sự quan tâm
của một số cơ quan quản lý nhà nước, nhận thức của cán bộ quản lý trong lĩnh
vực luật sư ở địa phương còn hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu quản lý trong tình
hình hiện nay dẫn đến hiệu quả triển khai thi hành các văn bản pháp luật còn
thấp; công tác quản lý nhà nước và cơ chế phối hợp giữa các sở, ngành về luật
sư có lúc, có nơi còn lúng túng, hiệu lực, hiệu quả chưa cao.
- Tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư có
lúc, có nơi chưa hiểu đúng về vai trò quản lý nhà nước, còn quá đề cao vai trò
tự quản nên có tình trạng chưa nghiêm túc, kịp thời thực hiện yêu cầu của cơ
quan có thẩm quyền, quy định của pháp luật về tổ chức và hoạt động của luật sư,
có nơi thậm chí muốn tách khỏi sự quản lý của Nhà nước.
3. Một số kiến nghị nâng cao chất lượng hành nghề
luật sư ở Việt Nam hiện nay
Một là, xây dựng chương trình, kế hoạch thực hiện
có hiệu quả các chủ trương của Đảng, pháp luật, quy định của Nhà nước về hoạt
động của Liên đoàn Luật sư Việt Nam; các cơ quan, tổ chức có liên quan tham mưu
xây dựng quy chế phối hợp với các tỉnh ủy, thành ủy nâng cao năng lực lãnh đạo,
hiệu quả hoạt động của Đảng đoàn Liên đoàn Luật sư Việt Nam, nâng cao hiệu quả
tự quản của tổ chức xã hội nghề nghiệp của Luật sư.
Hai là, hoàn thiện thể chế, pháp luật về luật sư và
hành nghề luật sư, bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ, khả thi của hệ thống pháp
luật liên quan đến luật sư và hành
nghề luật sư, đáp ứng yêu cầu cải cách tư
pháp, góp phần “Hoàn thiện đồng bộ hệ thống
pháp luật, cơ chế, chính sách nhằm phát huy mạnh mẽ dân chủ xã hội chủ nghĩa,
quyền làm chủ của nhân dân” [2, tr.115]. Cần quy định rõ tính chất pháp
lý của nghề Luật sư, nghề Luật sư là nghề đặc thù, hoạt động theo Luật chuyên
ngành là Luật Luật sư, từ đó có cơ sở để định hướng quản lý, pháp triển nghề
Luật sư. Sửa đổi, bổ sung quy định chặt chẽ hơn về tiêu chuẩn, điều kiện
hành nghề luật sư, phạm vi hành nghề của luật sư, quy định chặt chẽ hơn các
trường hợp được miễn đào tạo nghề, miễn giảm thời gian tập sự hành nghề luật
sư, tương thích với pháp luật về các nghề bổ trợ tư pháp khác (công chứng viên,
đấu giá viên...).
Ba là, phát triển đội ngũ
luật sư giỏi về chuyên môn, nghiệp vụ, ngoại ngữ, có đạo đức, bản lĩnh vững
vàng; nâng cao tiêu chuẩn luật sư, chuẩn hóa điều kiện hành nghề, phạm vi hành
nghề của luật sư, góp phần bảo đảm quyền làm chủ của Nhân dân, thượng tôn Hiến
pháp và pháp luật, tôn trọng, bảo đảm và bảo vệ quyền con người, quyền công dân
[4].
Bốn
là,
tăng cường trách nhiệm pháp lý và trách nhiệm nghề nghiệp của luật sư, nhất là
trong việc tuân thủ pháp luật, giữ gìn đạo đức nghề nghiệp, kỷ luật hành nghề,
góp phần nâng cao vị trí, vai trò của luật sư trong xã hội. Xây dựng, ban hành
Bộ tiêu chí đánh giá phân loại Luật sư, tổ chức hành nghề Luật sư hàng
năm.
Năm là, phát triển tổ chức hành nghề luật sư chuyên
nghiệp hơn, có uy tín, năng lực cạnh tranh trong khu vực và quốc tế. Rà soát,
điều chỉnh các quy định đối với luật sư nước ngoài, tổ chức hành nghề luật sư
nước ngoài tương thích với các quy định đối với luật sư và tổ chức hành nghề
luật sư trong nước.
Sáu là, nâng cao trách nhiệm tự quản của tổ chức xã
hội - nghề nghiệp của luật sư nhất là trong việc giám sát luật sư, người tập sự
hành nghề luật sư trong việc tuân thủ pháp luật, đạo đức và ứng xử nghề nghiệp
của luật sư, giải quyết khiếu nại, tố cáo, xử lý kỷ luật đối với luật sư. Liên
đoàn Luật sư Việt Nam tiếp tục nâng cao công tác bồi dưỡng, giáo dục chính trị,
tư tưởng, đạo đức nghề nghiệp, chuyên môn nghiệp vụ, nhất là kỹ năng tranh tụng
và tư vấn pháp luật của Luật sư. Quy định cụ thể một số quyền của Đoàn Luật sư
đối với Luật sư thành viên và tổ chức hành nghề để đảm bảo sự hoạt động thống
nhất, hiệu quả trong việc tổ chức thực hiện nhiệm vụ của Đoàn Luật sư.
Kết luận
Luật sư và hành nghề luật sư có vai trò quan
trọng trong việc bảo vệ công lý, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức trong quá trình xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa. Để nâng cao chất lượng đội ngũ luật sư và chất lượng
hành nghề luật sư ở Việt Nam hiện nay cần tiếp tục hoàn thiện pháp luật về luật
sư, hành nghề luật sư và đồng thời nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước
về luật sư.
Tài liệu tham khảo:
[1] Báo cáo của
Bộ Tư pháp về công tác quản lý nhà nước về luật sư.
[2] Đảng Cộng sản
Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ XIII, tập I, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà
Nội.
[3] Luật Luật sư
năm 2006 (sửa đổi, bổ sung năm 2012).
[4] Nghị quyết số
27-NQ/TW ngày 9/11/2022 Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa
XIII Về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới.
[5] https://liendoanluatsu.org.vn