1. Sau
35 năm đổi mới toàn diện đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN), tại
Hội nghị Văn hóa toàn quốc, tháng 11/2021, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã
khẳng định về những thành tựu nổi bật trong lĩnh vực văn hóa, đó là: “Nhận thức
về văn hoá ngày càng toàn diện và sâu sắc hơn trên các lĩnh vực, các loại hình;
các sản phẩm văn hoá ngày càng đa dạng, phong phú, đáp ứng yêu cầu mới, nhiều
mặt của xã hội. Nhiều giá trị văn hoá truyền thống và di sản văn hoá của dân
tộc được kế thừa, bảo tồn và phát triển. Văn hoá trong chính trị và trong kinh
tế bước đầu được coi trọng và phát huy hiệu quả, tích cực. Công nghiệp văn hoá
và thị trường văn hoá có bước khởi sắc. Hoạt động giao lưu, hợp tác và hội nhập
quốc tế có bước phát triển mới. Xây dựng con người Việt Nam đang từng bước trở
thành trung tâm của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Việc đấu tranh, phê
phán, đẩy lùi cái xấu, cái ác, cái lạc hậu, chống các quan điểm, hành vi sai
trái gây tác hại đến văn hoá, lối sống được chú trọng. Nhiều tấm gương sáng
trong phong trào thi đua yêu nước, phong trào "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời
sống văn hoá" đã
được biểu dương, lan toả vào đời sống xã hội, củng cố niềm tin của nhân dân đối
với sự nghiệp xây dựng nền văn hoá nói riêng, xây dựng và phát triển đất nước
nói chung...”(1).
Bên
cạnh những thành tựu đạt được, Tổng Bí thư cũng chỉ rõ: “Hạn chế, yếu kém nổi
bật được nhắc lại nhiều lần lâu nay là văn hoá chưa được các cấp, các ngành
nhận thức một cách sâu sắc và chưa được quan tâm một cách đầy đủ tương xứng với
kinh tế và chính trị; chưa thật sự trở thành nguồn lực, động lực nội sinh của
sự phát triển bền vững đất nước. Vai trò của văn hoá trong xây dựng con người
chưa được xác định đúng tầm, còn có chiều hướng nặng về chức năng giải trí...”; “Môi trường văn hoá vẫn
bị ô nhiễm bởi các tệ nạn xã hội, tham nhũng, tiêu cực. Sự chênh lệch về hưởng
thụ văn hoá giữa các vùng, các miền còn lớn...”; “Nhiều di sản văn hoá quý báu
của dân tộc có nguy cơ bị xuống cấp, mai một, thậm chí bị tiêu vong. Công tác
lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý văn hoá còn lúng túng, chậm trễ...”; “Đầu tư cho văn
hoá chưa đúng mức, còn dàn trải, hiệu quả chưa cao… Chất lượng và số lượng đội
ngũ cán bộ trực tiếp làm công tác văn hoá chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển
văn hoá trong thời kỳ mới...”; “chưa coi trọng đúng mức và có biện pháp tích
cực để giữ gìn, bảo vệ và phát huy những giá trị văn hoá tốt đẹp, đặc sắc của
dân tộc; nhiều khi bắt chước nước ngoài một cách nhố nhăng, phản cảm, không có
chọn lọc..”(2).
Theo
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, “những yếu kém, bất cập nêu trên chậm được giải
quyết mặc dù đã được nhắc đi, nhắc lại trong nhiều văn kiện, nghị quyết của
Đảng...”; “có cả nguyên nhân khách quan và chủ quan, trong đó nguyên nhân chủ
quan vẫn là chính”(3).
2. Từ
những đánh giá của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cho thấy, một trong những
nguyên nhân chủ quan lớn nhất của những yếu kém, bất cập trong lĩnh vực văn hóa
là xuất phát từ công tác tư tưởng và công tác tổ chức, cán bộ. Trong đó, có
việc thiếu gắn kết chặt chẽ giữa các lĩnh vực công tác này để tạo nên sự thống
nhất cao về tư tưởng và hành động trong quá trình thực hiện các nhiệm vụ, giải
pháp phát triển văn hóa con người Việt Nam trong thời kỳ mới. Điều này dẫn đến
một số biểu hiện cụ thể sau:
Một
là,
việc tăng cường nguồn lực và đầu tư cho văn hóa chưa đúng mức, còn dàn trải,
hiệu quả thấp. Số lượng, chất lượng đội ngũ cán bộ trực tiếp làm công tác văn
hóa chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển văn hóa trong thời kỳ mới. Về tổng
thể, mức đầu tư cho văn hóa mới chỉ đạt 50% mức chi tiêu đặt ra cả ở cấp Trung
ương và địa phương. Ngân sách cho hoạt động văn hóa từ đầu tư phát triển và chi
thường xuyên ngày càng trở nên mất cân đối theo hướng tăng cho chi thường
xuyên...
Hai
là,
việc thực hiện xã hội hóa các hoạt động văn hóa - văn nghệ còn nhiều hạn chế,
yếu kém. Hạn chế lớn nhất là tốc độ xã hội hóa ở nhiều ngành, nhiều lĩnh vực
còn rất chậm so với tiềm năng và chỉ tiêu định hướng mà Chính phủ đã nêu trong
Nghị quyết 05/2005/NQ-CP. Bên cạnh đó, mức độ xã hội hóa không đồng đều giữa
các vùng, miền và giữa các địa phương có điều kiện kinh tế - xã hội gần như
nhau...
Ba
là,
công tác quản lý xã hội hóa còn bất cập cả trong định hướng phát triển và trong
xây dựng quy hoạch, kế hoạch, dự án, dẫn đến việc triển khai thực hiện còn
nhiều lúng túng và chậm. Quản lý nhà nước có biểu hiện vừa gò bó, vừa buông
lỏng, không ít cơ chế chính sách đã ban hành nhưng lại thiếu cụ thể rõ ràng,
thiếu đồng bộ và thậm chí không phù hợp với cơ chế thị trường định hướng XHCN.
Bốn
là,
nhận thức về vai trò của văn hóa và việc cụ thể hóa những quan điểm, chủ trương
của Đảng ở không ít nơi còn nhiều bất cập; còn đùn đẩy trách nhiệm hoặc chồng
chéo nhiệm vụ giữa cấp ủy và chính quyền, giữa các cơ quan chức năng... Đây
cũng là nguyên nhân chủ yếu làm gia tăng, kéo dài, chậm khắc phục những hạn
chế, bất cập, yếu kém. Chẳng hạn như, vì nhận thức chưa đầy đủ về chủ trương xã
hội hóa dẫn đến những “khập khiễng” trong công tác tuyên truyền về mục đích,
quan niệm và các hình thức xã hội hóa; hiểu “lơ mơ” và triển khai thực hiện
không đúng về cơ chế, chính sách cho xã hội hóa.
Năm
là,
năng lực tổ chức thực hiện của một bộ phận không nhỏ cán bộ quản lý văn hóa
chưa đáp ứng được yêu cầu đề ra. Nguồn nhân lực cho phát triển văn hóa (cán bộ
lãnh đạo, quản lý; giảng viên đào tạo, bồi dưỡng; văn nghệ sĩ..) ở tất cả các
cấp, các lĩnh vực còn hạn chế hoặc chưa đồng đều cả về số lượng và chất lượng;
chưa đáp ứng được yêu cầu làm cho văn hóa thực sự trở thành nguồn lực, động lực
nội sinh của sự phát triển bền vững đất nước.
3. Để chấn hưng, phát triển văn
hóa, con người Việt Nam trong thời kỳ mới, trên cơ sở tiếp tục đẩy mạnh thực
hiện đồng bộ, hiệu quả các chủ trương, giải pháp đã có, đặc biệt là những giải
pháp được xác định tại Nghị quyết số 33-NQ/TW khóa XI về “Xây dựng và phát triển văn hóa, con
người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước” và 4 giải pháp mà Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã chỉ đạo
tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc năm 2021; một trong những nhiệm vụ trước mắt là
phải gắn kết chặt chẽ công tác tư tưởng
với công tác tổ chức, cán bộ để khơi thông mọi nguồn lực. Trong đó, hơn lúc nào
hết, phải tập trung thực hiện một cách quyết liệt giải pháp tăng
cường mạnh mẽ mọi nguồn lực cho phát triển văn hóa,
con người, đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh, bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ
quốc.
Cần
thống nhất cách hiểu nguồn
lực cũng
đồng thời là động
lực khi
cùng nhấn mạnh đến một số đặc điểm như “tạo ra”, “thúc đẩy”, “tất cả/tổng thể”
và “phát triển”. Từ đó có thể xác định nguồn lực là tổng thể các yếu tố vật thể và phi vật thể tạo nên sức
mạnh thúc đẩy sự phát triển. Vì vừa mang yếu tố vật chất, vừa mang yếu tố tinh
thần nên cần xác định rõ từng loại nguồn lực cho phát triển văn hóa, như:
1) Nguồn
nhân lực,
bao gồm đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý văn hóa; đội ngũ các nhà văn hóa, văn
nghệ sĩ; 2)
Nguồn vật lực - tài lực,
bao gồm vốn - tài chính - tiền tệ, bất động sản, nguyên vật liệu phục vụ các
ngành công nghiệp văn hóa, phục vụ cho quá trình sáng tạo, quảng bá các sản
phẩm, tác phẩm văn hóa; các công trình văn hóa, các tác phẩm văn học - nghệ
thuật; hệ thống các di sản văn hóa vật thể và phi vật thể; 3) Nguồn ngoại lực thông qua các hoạt động
hội nhập, giao lưu, hợp tác quốc tế về văn hóa, trong đó, yếu tố quan trọng
nhất là đội ngũ các nhà văn hóa, văn nghệ sĩ Việt Nam đang định cư ở nước
ngoài.
Chấn
hưng và phát triển nền văn hóa Việt Nam trong thời kỳ mới là sứ mệnh vô cùng vẻ
vang nhưng rất khó khăn, phức tạp, đòi hỏi phải “Tiếp tục đổi mới phương thức
lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước nhằm đảm bảo sự thống nhất về tư
tưởng và hành động trong xây dựng và phát triển văn hóa từ Trung ương tới cơ
sở. Cấp ủy Đảng và chính quyền các cấp phải nhận thức sâu sắc và quán triệt đầy
đủ các quan điểm, tư tưởng chỉ đạo của Đảng về văn hóa và trên cơ sở đó xây
dựng các chương trình kế hoạch thực hiện. Huy động tối đa các nguồn lực để phát
triển văn hóa”(4).
Chỉ
có gắn kết chặt chẽ công tác tư tưởng với công tác tổ chức, cán bộ và cơ chế
chính sách mới tạo nên sự thống nhất cao về tư tưởng và hành động nhằm thực
hiện thành công 6 nhiệm vụ trọng tâm và và 4 giải pháp chủ yếu, trong đó có
giải pháp tăng mức đầu tư và khơi thông mọi
nguồn lực cho phát triển văn hóa.
Tiếp
nối thành công từ Hội nghị văn hóa toàn quốc (tháng 11/2021), theo chúng tôi,
Trung ương nên nghiên cứu, thành lập Ban Chỉ đạo Trung ương chấn hưng và phát triển văn hóa và
con người Việt Nam đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2045 (Ban Chỉ đạo). Trong đó, đồng
chí Ủy viên Bộ chính trị, Thường trực Ban Bí thư làm Trưởng Ban Chỉ đạo; các
đồng chí Phó Thủ tướng, Phó Chủ tịch Quốc hội, Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương
là Phó Trưởng Ban chỉ đạo; Ban Tuyên giáo Trung ương là cơ quan Thường trực;
Thành viên Ban Chỉ đạo gồm lãnh đạo các bộ, ngành: Văn hóa, Thể thao và Du
lịch, Giáo dục và Đào tạo, Khoa học và Công nghệ, Kế hoạch và Đầu tư, Tài
chính, Tư pháp, Y tế, Nội vụ, Ủy ban Văn hóa - Giáo dục của Quốc Hội, Viện Hàn
lâm Khoa học xã hội, Liên hiệp các Hội văn học nghệ thuật...
Theo
đó, Ban Chỉ đạo sẽ tập trung chỉ đạo xây dựng Chương trình quốc gia có mục tiêu
chấn hưng và phát triển văn hóa và con người Việt Nam đến năm 2030 tầm nhìn đến
năm 2045. Trong đó có các chương trình bộ phận:
Chương
trình xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện. Chỉ rõ trách nhiệm, nhiệm vụ
và các giải pháp xây dựng con người Việt Nam của các gia đình; của hệ thống
giáo dục - đào tạo; của hệ thống các trường chính trị; của hệ thống các tổ chức
chính trị - xã hội, nhất là của các tổ chức Đảng, cơ quan Nhà nước...
Chương
trình xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh. Xác định rõ những biện pháp, cơ chế, chính sách để xây dựng văn
hóa trong Đảng; văn hóa trong công vụ; văn hóa doanh nghiệp; văn hóa trong các
đơn vị quân đội và công an; văn hóa trong các trường học; văn hóa trong chính
trị và kinh tế. Xây dựng môi trường văn hóa số phù hợp với nền kinh tế số, xã
hội số và công dân số. Làm cho văn hóa thích nghi, điều tiết sự phát triển bền
vững đất nước.
Chương
trình nâng cao chất lượng, hiệu quả các hoạt động văn hóa chủ yếu. Bao gồm: Huy động sức mạnh
toàn xã hội để bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống, khích lệ
sáng tạo các giá trị văn hóa mới; Bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa vật
thể và phi vật thể, nhất là các di sản văn hóa được UNESCO công nhận; Phát
triển đi đôi với giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt, khắc phục tình trạng lạm
dụng tiếng nước ngoài, giữ gìn và phát huy di sản văn hóa các dân tộc thiểu số
- nhất là tiếng nói, chữ viết, trang phục, lễ hội truyền thống...
Chương
trình phát triển đời sống văn học - nghệ thuật trên cả 3 lĩnh vực: sáng
tác, quảng bá, lý luận phê bình. Tiếp tục quán triệt sâu sắc 3 mục tiêu, 3 quan
điểm chỉ đạo của Nghị quyết số 23-NQ/TW, ngày 16/6/2008 của Bộ Chính trị về
“Tiếp tục xây dựng và phát triển văn học, nghệ thuật trong thời kỳ mới” để
triển khai đồng bộ các giải pháp liên quan đến: tạo mọi điều kiện cho sự tìm
tòi sáng tạo của đội ngũ văn nghệ sĩ để có nhiều tác phẩm có giá trị tư tưởng
và nghệ thuật, thấm nhuần tinh thần nhân văn, dân tộc, dân chủ, tiến bộ; đẩy
mạnh sáng tác, quảng bá các tác phẩm về đề tài cách mạng, kháng chiến, lịch sử
dân tộc và công cuộc đổi mới đất nước; đẩy mạnh hoạt động sáng tác và quảng bá
các tác phẩm lý luận phê bình để đồng hành, thẩm định, định hướng cho sáng tác
và tiếp nhận các tác phẩm văn học - nghệ thuật, đấu tranh phản bác các quan
điểm sai trái trong văn học - nghệ thuật; tập trung hoàn thiện đồng bộ các cơ
chế, chính sách phát triển văn học - nghệ thuật...
Chương
trình sắp xếp lại hệ thống báo chí đáp ứng yêu cầu phát triển, đảm bảo thiết thực, hiệu quả.
Tăng cường các giải pháp tư tưởng và tổ chức để quản lý có hiệu quả các loại
hình thông tin trên mạng internet nhằm định hướng tư tưởng thẩm mỹ cho nhân
dân, nhất là thanh thiếu niên. Coi trọng đổi mới phương thức hoạt động và cơ
chế đầu tư theo hướng ưu tiên cho các cơ quan báo chí truyền thông chủ lực. Đảm
bảo các cơ quan truyền thông phải thực hiện đúng tôn chỉ mục đích đối tượng
phục vụ chủ yếu. Nâng cao tính tư tưởng nhân văn, khoa học của các tác phẩm báo
chí - truyền thông, góp phần xây dựng văn hóa, con người Việt Nam trong thời ký
mới.
Ngoài
ra còn có thể bàn tới các chương trình bộ phận như: Chương trình phát triển công nghiệp văn hóa và
hoàn thiện thị trường văn hóa; Chương trình hội nhập quốc tế về văn hóa và tiếp thu tinh hoa văn hóa
nhân loại...
Cùng
với những nhiệm vụ trên, theo chúng tôi, Ban Chỉ đạo cần xác định đúng để tập
trung chỉ đạo một số khâu đột phá nhằm tạo động lực mạnh mẽ cho sự nghiệp chấn
hưng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam trong thời kỳ mới. Theo đó, xin
được tham góp gợi mở một số khâu đột phá như sau:
Thứ
nhất,
đột phá xây dựng một số môi trường văn hóa trên cơ sở sớm hình thành hệ giá trị
văn hóa quốc gia và hệ giá trị chuẩn mực con người Việt Nam. Chỉ đạo đột phá
vào khâu xây dựng văn
hóa trong Đảng,
trong các cơ quan Nhà nước và hệ thống chính trị; đột phá xây dựng môi trường văn hóa học đường để môi trường này thực sự là
“địa chỉ tin cậy” nhất về giáo dục, rèn luyện con người về lý tưởng, phẩm chất,
nhân cách, lối sống; đột phá xây dựng môi trường văn hóa trong các doanh nghiệp, để văn hóa doanh nghiệp, văn
hóa doanh nhân thực sự là sức mạnh nội sinh cho các doanh nghiệp Việt và nền
kinh tế Việt Nam phát triển bền vững.
Thứ
hai,
trong nhiệm kỳ này cơ bản hoàn thành việc thể chế hóa Nghị quyết Đại hội XIII
về văn hóa, giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ, từ đó, tạo hành lang pháp
lý và loại bỏ được các rào cản nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển
nguồn nhân lực chất lượng cao. Trong quá trình thể chế hóa cần coi trọng ban
hành luật về tự do sáng tạo trong khoa học và văn hóa, văn học - nghệ thuật;
hoàn thiện đồng bộ cơ chế, chính sách có hiệu quả trong phát hiện, đào tạo,
phát huy tài năng văn hóa, văn học - nghệ thuật.
Biểu diễn Quan họ trên
dòng sông di sản Tràng An, tỉnh Ninh Bình.
(Ảnh minh họa: Lương Văn Lâm/nhiepanhdoisong.vn)
Thứ
ba,
tập trung lãnh đạo để công nghiệp văn hóa Việt Nam có bước phát triển đột phá
gắn với phát triển và hoàn thiện thị trường văn hóa. Trên cơ sở đó khai thác và
phát huy mạnh mẽ những tiềm năng và giá trị đặc sắc của văn hóa Việt Nam gắn
với công nghệ hiện đại, hình thành nên các sản phẩm văn hóa có chất lượng cao,
thông qua thị trường văn hóa mở rộng đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hóa của toàn
dân; mở rộng quảng bá văn hóa Việt Nam ra thế giới và đóng góp đáng kể vào tăng
trưởng kinh tế của đất nước.
Thứ
tư,
đột phá xây dựng đồng bộ cơ chế, chính sách để huy động tối đa mọi nguồn lực
cho thực hiện thành công sự nghiệp chấn hưng và phát triển văn hóa,
con người Việt Nam trong thời kỳ mới. Trong đó, tăng mức đầu tư từ ngân sách
nhà nước và các địa phương vào dòng chủ lưu của văn hóa cách mạng; tập trung
hoàn thiện hệ thống cơ chế, chính sách để đẩy mạnh xã hội hóa các hoạt động
trong lĩnh vực văn hóa, văn học - nghệ thuật và xây dựng thị trường văn hóa
lành mạnh./.
Phát triển văn hóa là một trong những vấn đề trọng tâm, một nội
dung nổi bật trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng. Đây là lần đầu tiên trong
Văn kiện Đại hội Đảng, Đảng ta đã để cập một cách toàn diện, sâu sắc đến lĩnh
vực văn hóa từ chủ đề của Đại hội đến các quan điểm mục tiêu, định hướng lớn,
nhiệm vụ trọng tâm, đột phá chiến lược.
(theo
tuyengiao.vn)
(1) (2) (3) (4) Bài phát biểu chỉ đạo của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị Văn hóa toàn
quốc triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng về lĩnh vực
văn hóa,
ngày 24/11/2021.