Giới thiệu cuốn sách của Tổng Bí
thư về xây dựng và phát triển nền đối ngoại, ngoại giao Việt Nam
(ảnh minh họa từ Thông tấn xã
Việt Nam news.vnanet.vn)
Đặt
vấn đề
Hiện nay, bối cảnh thế giới vẫn đang diễn biến phức tạp, nhanh chóng và
nhiều biến động. Xu hướng hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn của
thế giới. Trật tự thế giới mới tiếp tục biến đổi phức tạp, quá trình và dịch
chuyển quyền lực tiếp tục diễn ra mạnh mẽ trong cả kinh tế, chính trị và an
ninh toàn cầu. Cạnh tranh giữa các nước lớn tiếp tục trở thành yếu tố bao trùm
trong quan hệ quốc tế, tạo ra những biến đổi sâu sắc chưa từng có tiền lệ. Do
đó, nền đối ngoại, ngoại giao Việt Nam cần định hình một bản sắc riêng để thực
hiện vai trò “đi đầu trong kiến tạo hòa bình, bảo vệ Tổ quốc và thu hút nguồn
lực cho phát triển đất nước”[10].
1. Cơ sở nền tảng cho nền đối ngoại, ngoại giao “Cây tre Việt
Nam”
Tính độc đáo của nền đối ngoại, ngoại giao “Cây tre Việt
Nam” xuất phát từ những cơ sở nền tảng sau đây:
Một là, triết lý và truyền thống ngoại
giao của dân tộc.
Ngay
từ khi bắt đầu đặt nền móng xây dựng một quốc gia độc lập, ông cha ta đã sớm ý
thức về mối quan hệ bang giao đối với các nước láng giềng. Trải qua hàng nghìn
năm dựng nước và giữ nước, những bài học phải trải bằng xương máu của nhiều thế
hệ đã để lại những triết lý sâu sắc trong đường lối ứng xử với ngoại bang: mềm mỏng,
hòa hiếu, nhân nghĩa, khoan dung đầy tính nhân văn. Triết lý, tinh thần đó nằm
ngay trong giá trị, chuẩn mực của văn hóa truyền thống như: “đánh kẻ chạy đi
chứ không đánh người chạy lại”, “một điều nhịn, chín điều lành”, “lạt mềm buộc
chặt”, “một lần bất tín, vạn lần mất tin”, “có đi có lại mới toại lòng nhau”,
“bán anh em xa mua láng giềng gần”; lấy lẽ phải, công lý và chính nghĩa để
thuyết phục lòng người. Những giá trị đó đã hòa vào kế sách dựng nước và giữ
nước, thể hiện sâu sắc nghệ thuật ngoại giao “công tâm”, “bền bỉ, kiên trì”,
“biết người, biết ta”, “biết thời, biết thế”, “cương nhu kết hợp”, “tiến lúc
mạnh, thoái lúc yếu”, “khoan hòa, linh hoạt” mềm mỏng nhưng cũng rất quyết liệt
để bảo vệ giang sơn xã tắc, độc lập tự chủ. Trần Hưng Đạo đã viết trong tác
phẩm Binh thư yếu lược: “Hòa mục là đạo rất hay trong việc trị nước hành binh.
Hòa ở trong nước thì ít phải dùng binh, hòa ở ngoài biên thì không sợ báo động”
[5, tr.42-43],
Nguyễn Trãi cũng dạy trong Bình Ngô đại cáo: “Bắt tướng giặc mang về, nó đã vẫy
đuôi phục tôi; thể lòng trời bất sát, ta cũng mở đường hiếu sinh; nó đã sợ chết
cầu hòa, ngỏ lòng thú phục; ta muốn toàn quân là cốt, cả nước nghỉ ngơi”. “Nghĩ
vì kế lâu dài của nhà nước; tha kẻ hàng mười vạn sĩ binh; sửa hòa hiếu cho hai
nước; tắt muôn đời chiến tranh”[4,
tr.160]. Đó là tư tưởng, triết lý ngoại giao
"lấy đại nghĩa thắng hung tàn, đem chí nhân để thay cường bạo" Trước
khi ra lệnh xuất quân ra Bắc, đại phá quân Thanh, vua Quang Trung cũng đã nhận
thức: “Quân Thanh sau khi thua, tất lấy làm xấu hổ, quyết không muốn hòa hiếu.
Nhưng, hai nước đánh nhau, cũng không phải là phúc cho dân. Nên nay, chỉ có
người nào khéo về giấy tờ (giỏi thương lượng, đàm phán), mới có thể ngăn được
họa binh đao.”[1].
Kiên
quyết, khôn khéo, mềm dẻo, biết người biết ta, thể hiện tinh thần hòa hiếu, giữ
hòa khí hữu nghị với các nước lân bang, thân thiện với các nước láng giềng là
một trong những bản sắc truyền thống nổi bật của ngoại giao Việt Nam.
Hai là, tư duy biện chứng,
phát triển của chủ
nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh.
Nhận
định về xu hướng phát triển xu thế phát triển của chủ nghĩa tư bản (CNTB), C.Mác
khẳng định, quốc tế hóa là xu thế khách quan, gắn liền với quá trình phát triển
của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa; cách mạng cộng sản chủ nghĩa là cuộc cách
mạng có tính chất toàn thế giới, đoàn kết quốc tế của giai cấp vô sản là tất
yếu. Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản đưa ra khẩu hiệu: “Vô sản tất cả các nước
đoàn kết lại”.
V.I.Lênin chỉ rõ: “Khẩu hiệu của chúng ta: trước đây và
bây giờ là chung sống hòa bình với các chính phủ khác... Bản thân cuộc sống đã
khiến chúng ta và các nước khác phải xây dựng mối quan hệ lâu dài giữa chính
phủ công nông với chính phủ của giai cấp tư sản”[6].
Chủ
tịch Hồ Chí Minh là người đã đặt nền móng, trực tiếp chỉ đạo và dẫn dắt sự phát
triển của nền ngoại giao cách mạng của nước Việt
Nam hiện đại. Tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh được hình thành và kết
tinh từ thực tiễn hoạt động cách mạng của Người và truyền thống ngoại giao của
cha ông, đồng thời nâng những giá trị đó lên tầm cao mới trong dòng chảy thời
đại, vừa kiên quyết, vừa khôn khéo, thể hiện phong cách và nghệ thuật ngoại
giao độc đáo, riêng biệt. Người đưa ra nguyên tắc: “dĩ bất biến, ứng vạn biến”,
“hòa để tiến”, “phân hóa kẻ thù” “tự lực cánh sinh”..., tất cả đều phục vụ cho
lợi ích cao nhất của quốc gia, dân tộc, nhân dân.
Theo
Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Nước ta là một bộ phận của thế giới. Tình hình của nước
ta có ảnh hưởng đến thế giới, mà tình hình thế giới cũng có quan hệ đến nước
ta”, trong đó nội lực đóng vai trò quyết định, phải giữ vững độc lập, tự chủ;
trên cơ sở nội lực, phải khôn khéo, có những biện pháp để phát huy ngoại lực,
“muốn người ta giúp cho, thì trước mình phải tự giúp lấy mình đã”. Người quan
niệm đối ngoại là một mặt trận, “Muốn làm cách mạng thắng lợi thì phải phân
biệt rõ ai là bạn, ai là thù, phải thực hiện thêm bầu bạn, bớt kẻ thù”[5, tr.346].
Những
tư tưởng, phương châm và phong cách ngoại giao Hồ Chí Minh góp phần định hình
nên trường phái ngoại giao Việt Nam. Đó là nét độc đáo thấm đậm truyền thống
dân tộc, bản sắc ngoại giao riêng biệt, mang hơi thở của thời đại và tinh thần
bất khuất của nhân dân ta.
Ba là, từ thực tiễn đấu tranh cách mạng, từ quá trình đấu
tranh giành độc lập đến những bài học của thời kỳ mở cửa, hội nhập toàn diện
với thế giới.
Trong
gần 80 năm qua, thực tiễn cách mạng Việt Nam đã trải qua nhiều giai đoạn phát
triển, gắn với sự biến động của thời cuộc và tình hình hình thế giới. Thắng lợi
của cuộc đấu tranh giành độc lập, thống nhất đất nước đã khẳng định đường lối
đối ngoại đúng đắn của Đảng trên mặt trận đối ngoại, ngoại giao.
Bước vào thời kỳ đổi mới, mục tiêu của nền đối ngoại Việt
Nam là phá thế bao vây cấm vận, đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng trong bối cảnh
tình hình thế giới và khu vực có nhiều biến động, các nước xã hội chủ nghĩa
(XNCH) ở Đông Âu và Liên Xô lần lượt tan rã và tình hình trong nước rất khó
khăn.
Trong
bối cảnh đó, tại Đại hội VI (12/1986), Đảng đã đánh giá chính xác cục diện thế
giới để xác định lại đường lối, chính sách đối ngoại trong tình hình mới. Chủ
trương đối ngoại thay đổi có tính chiến lược của Việt Nam được xác định tại Đại
hội VII (1991), theo đó Việt Nam muốn là bạn, là đối tác với các nước trên thế
giới và mở rộng, đa phương hóa quan hệ kinh tế đối ngoại. Nhận thức mới về thời
đại và cục diện thế giới đã mở đường, tạo điều kiện để Việt Nam phá thế bao vây
cô lập, phát triển rộng rãi quan hệ đối ngoại. Việt Nam đã lần lượt bình thường
hóa quan hệ với Trung Quốc năm 1991, với Mỹ năm 1995, gia nhập ASEAN năm 1995
và thúc đẩy quan hệ với các nước láng giềng, khu vực và các tổ chức đa phương
toàn cầu[7].
Trong
sự chuyển biến của thế giới và khu vực ngày càng nhanh, Đại hội VIII (1996) đã
khẳng định đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở, đa phương hoá và đa
dạng hoá các quan hệ đối ngoại. Nền đối ngoại, ngoại giao tiếp tục được đổi mới
với quan điểm mới về đối tác - đối tượng, về hợp tác và đấu tranh trong Nghị
quyết Trung ương 8 khóa IX (2003). Đây là cơ sở để Việt Nam hóa giải điểm bất
đồng, gia tăng điểm song trùng lợi ích trong trong quan hệ quốc tế. Một hướng
đột phá mới trong giai đoạn này là chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế tại Đại
hội VIII, Đại hội IX (2001) và Đại hội X (2006).
Đại hội XI (2011) đã nâng tầm từ hội nhập
kinh tế sang “chủ động và tích cực hội nhập quốc tế” một cách toàn diện. Tại
Đại hội XII (2016), Đảng có quyết sách chính trị quan trọng về tiếp tục mở rộng
phạm vi, lĩnh vực và mức độ hội nhập. Đại hội XIII (2021) đề ra chủ trương “xây
dựng nền ngoại giao toàn diện, hiện đại với ba trụ cột là đối ngoại đảng, ngoại
giao nhà nước và đối ngoại nhân dân”; xác định rõ vị trí, vai trò tiên phong
của đối ngoại trong "tạo lập và giữ vững môi trường hoà bình, ổn định, huy
động các nguồn lực bên ngoài để phát triển đất nước, nâng cao vị thế và uy tín của
đất nước"[9].
Đến nay, chúng ta đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 193
nước, ký kết và nâng cấp quan hệ với 30 quốc gia, trong đó đối tác chiến lược
toàn diện có các nước lớn như Trung Quốc, Nga, Ấn Độ, Hàn Quốc, Mỹ, Nhật Bản.
Việt Nam cũng là đối tác chiến lược và đối tác toàn diện với 17/20 thành viên
G-20, hầu hết các nước ASEAN. Việt Nam chủ động đàm phán nhiều FTA, trong đó có
2 FTA thế thệ mới là Hiệp định CPTPP, Hiệp định EVFTA và ký Hiệp định RCEP[9].
2. Nét độc đáo của ngoại giao “Cây tre Việt
Nam”
Tại Hội nghị đối ngoại toàn quốc triển khai thực hiện Nghị
quyết Đại hội XIII của Đảng, ngày 14-12-2021, Tổng Bí thư Nguyễn
Phú Trọng đã khái quát biểu tượng của nền đối ngoại, ngoại giao mang đậm bản
sắc dân tộc như “Cây tre Việt Nam”, là sự kết hợp hài hòa giữa gốc vững, thân
chắc, cành uyển chuyển. Gốc vững là lợi ích của nhân dân, thân chắc là sự lãnh
đạo sáng suốt của Đảng, cành uyển chuyển là nghệ thuật ngoại giao đúng đắn,
hiệu quả, kịp thời.
Tính
độc đáo của nền đối ngoại Việt Nam được thể hiện ở một số nội dung cơ bản:
Thứ nhất, cây tre là hình tượng cho
sự mềm dẻo linh hoạt như nghệ thuật ngoại giao. Thực tế cho thấy,
nền đối ngoại Việt Nam ngay từ khi ra đời, mà Bác Hồ là ngoại trưởng đầu tiên,
đã phải đứng trước bao nhiêu thử thách. Nếu không có sự mềm dẻo, linh hoạt thì
không thể đối với phó với thù trong giặc ngoài. Ngay trong những ngày đầu của
nhà nước Việt Nam non trẻ 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã rất khôn khéo chèo lái
cách mạng Việt Nam bằng nghệ thuật đấu tranh quân sự kết hợp với đấu tranh
ngoại giao, khéo léo đuổi quân Tưởng Giới Thạch về nước, tìm kế hòa hoãn cuộc
chiến tranh không thể tránh khỏi với Pháp bằng Hiệp định sơ bộ 6/3/1946, Tạm
ước 14/9/1946, cứu vãn Hội nghị Fontainebleau và kéo dài thêm một khoảng thời
gian hòa bình quý giá cho Việt Nam tiếp tục xây dựng, củng cố lực lượng cho tới
ngày Toàn quốc kháng chiến 19/12/1946. Với Hiệp định Geneve và Hiệp định Paris,
ta đã tìm cách chấm dứt sự có mặt của Pháp, Mỹ tại Việt Nam, tiến tới thống
nhất đất nước.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Việt Nam đã khéo
léo hóa giải những mâu thuẫn trong nội bộ khối các nước XHCN, đặc biệt là mâu
thuẫn giữa Liên Xô và Trung Quốc để tranh thủ sự ủng hộ của cả hai nước bạn.
Tình hình càng khó khăn hơn sau khi Việt Nam đưa quân tình nguyện, chuyên gia
sang giúp Campuchia và căng thẳng biên giới với Trung Quốc hơn 10 năm. Chính sự
mềm dẻo và thay đổi chiến lược trong chính sách quan hệ quốc tế và Việt Nam đã
từng bước gỡ bỏ được thế bao vây, cấm vận của Mỹ và nước nước phương Tây, bình
thường hóa quan hệ với Trung Quốc năm 1991, đặt quan hệ đối ngoại với Hàn Quốc
năm 1992, bình thường hóa quan hệ với Mỹ năm 1995, trở thành thành viên các
nước ASEAN năm 1995, củng cố mới mối quan hệ tốt đẹp với các nước khối XHCN ở
Đông Âu. Từ năm 2011, Đảng xác định Việt Nam mong muốn là bạn, là đối tác tin
cậy, là thành viên có trách nhiệm trong quan hệ quốc tế. Trên cơ sở đó, ta chấp
nhận và tôn trọng sự khác biệt giữa tất cả các nước về chế độ chính trị, dân
tộc, tôn giáo. Việt Nam mong muốn gác lại quá khứ, hướng tới tương lai trên cơ
sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công
việc nội bộ của nhau, lấy lợi ích quốc gia dân tộc làm căn cốt.
Thứ hai, hình tượng cây tre là biểu tượng của tinh thần đoàn
kết.
Cây
tre Việt Nam gắn bó với đời sống nhân dân bằng biểu tượng của lũy tre, khóm
tre, rừng tre. Cây tre không đứng một mình đơn lẻ mà luôn gắn kết với nhau, đó
là biểu tượng của sức mạnh đoàn kết của nhân dân Việt Nam.
Tinh
thần đoàn kết vồn là truyền thống quý báu của dân tộc ta. Những bài học trong
quá trình dựng nước và giữ nước đã để lại nhiều kinh nghiệm quý báu để chúng ta
vận dụng và phát huy truyền thống này.
Trong
bối cảnh thế giới hiện nay, nền ngoại giao phải tận dụng những thế mạnh của
Việt Nam để mở rộng hợp tác với tất cả các nước. Đại hội XIII của Đảng đưa ra
định hướng hoạt động đối ngoại, đó là: “Đẩy mạnh đối ngoại song phương và nâng
tầm đối ngoại đa phương... Coi trọng phát triển quan hệ hợp tác, hữu nghị,
truyền thống với các nước láng giềng... Đoàn kết, đẩy mạnh và làm sâu sắc hơn
quan hệ hợp tác song phương với các đối tác, đặc biệt là các đối tác chiến
lược, đối tác toàn diện và đối tác quan trọng khác”[8].
Đảng đã đề ra chủ trương xây dựng nền ngoại giao toàn
diện, hiện đại với ba trụ cột là đối ngoại Đảng, ngoại giao nhà nước và đối
ngoại nhân dân. Trong đó, dưới sự lãnh đạo của Đảng, ngoại giao nhà nước là lực
lượng chủ công, với sự phối hợp nhịp nhàng giữa các binh chủng làm đối ngoại là
ngoại giao, quốc phòng, an ninh, kinh tế đối ngoại và các lĩnh vực khác. Chính
sự đoàn kết chặt chẽ những trụ cột và binh chủng này đã, đang và sẽ “nên lũy,
nên thành”, tạo nên sức mạnh tổng hợp của mặt trận đối ngoại để bảo vệ, xây
dựng và phát triển đất nước. Sự thay đổi nhận thức,
coi hội nhập là "sự nghiệp của toàn dân
và của cả hệ thống chính trị" đã trở thành "định hướng chiến lược
lớn" làm thay đổi về hành động, từ hội nhập kinh tế quốc tế là chủ yếu
sang hội nhập quốc tế chủ động, toàn diện, sâu rộng trên tất cả các lĩnh vực.
Thứ ba, hình tượng cây tre tiêu biểu cho
lợi ích cao nhất của quốc gia dân tộc, đó là nền độc lập tự chủ, tinh thần bất
khuất của dân tộc Việt Nam.
Cây
tre mềm mại luôn gắn với hình ảnh ngả nghiêng trong gió bão, nhưng lại rất kiên
cường, bất khuất. Hình tượng cây tre gắn với tinh thần chống giặc ngoại xâm của
Phù Đổng Thiên vương, gắn với những chiến lũy, cung tên, giáo mác thô sơ mà anh
dũng.
Trong
bối cảnh phức tạp của tình hình thế giới hiện nay, tinh thần độc lập, tự chủ
của dân tộc Việt Nam vẫn không hề mất đi và nền đồi ngoại, ngoại giao Việt Nam
cũng luôn thể hiện tinh thần đó, dù các thế lực cường quyền, chủ nghĩa dân tộc
cực đoan, dân túy, và cực hữu nổi lên thách thức nền an ninh toàn cầu và kinh
tế thế giới. Trước tình hình đó, cách tiếp cận và hướng giải quyết trong đối
ngoại mối quan hệ “bạn- thù”, “đối tác - đối tượng”[3] của Việt Nam vừa uyển chuyển linh hoạt
vừa trên cơ sở kiên định những nguyên tắc, lợi ích cốt lõi của quốc gia - dân
tộc.
Phương châm đối ngoại của Việt Nam trong mọi hoàn cảnh,
với mọi vấn đề, giữa Việt Nam và các đối tác là “Dĩ bất biến ứng vạn biến”,
chuyển hóa linh hoạt giữa đối tác và đối tượng. Thời thế cho chúng ta nhận thức
rõ hơn, rằng: “không có kẻ thù vĩnh cửu”, bạn - thù đều có giai đoạn, thời thế
lúc thịnh lúc suy, thời cơ và nguy cơ cùng song hành. Do đó, cần biết tranh thủ
những mặt xung đột của các “đối tượng” để có lợi cho ta. Bài học lịch sử cho
thấy không ai có thể buộc Việt Nam phải “chọn phe”. Chúng ta sẽ chọn lợi ích
của quốc gia - dân tộc, chọn lẽ phải, chọn chính nghĩa, chọn công lý để ứng xử
trong quan hệ quốc tế, đồng thời làm tất cả để bảo đảm ổn định chế độ chính
trị, an ninh quốc gia, khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Việt Nam ý thức được
rằng, chỉ có sức mạnh nội sinh mới tạo dựng cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín
trên trường quốc tế. Chỉ có độc lập, tự chủ về chính trị - kinh tế - văn hóa,
chúng ta mới có thể tự tin đứng vững trước những biến động của thế giới hiện
nay.
3. Phát huy mạnh mẽ bản sắc ngoại giao “Cây tre
Việt Nam” trong tình hình mới
Nền
đối ngoại, ngoại giao mang đậm bản sắc “Cây tre Việt Nam”, dù đã đạt được những
thành tựu hết sức quan trọng, nhưng trong tình hình Việt Nam ngày càng hội nhập
sâu rộng, cần phải tiếp tục phát huy những thuận lợi, khắc phục khó khăn để tạo
điều kiện cho phát huy sức mạnh nội sinh của quốc gia.
Trước hết, nền đối ngoại,
ngoại giao phải đảm bảo giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, thuận lợi cho
phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc. Đặc thù của đối ngoại là sử dụng các
phương thức, biện pháp hòa bình để ngăn ngừa, hóa giải và đẩy lùi nguy cơ chiến
tranh, xung đột từ sớm, từ xa, qua đó góp phần bảo vệ vững chắc độc lập, chủ
quyền quốc gia.
Hai là, tăng cường công tác nghiên cứu, dự báo, tham mưu chiến
lược về đối ngoại, không để bị động, bất ngờ. Nhiệm vụ này đòi hỏi tính nhanh
nhạy, nắm bắt và phân tích thông tin, tình huống, chủ động nhận diện thời cơ và
thách thức, phát hiện các vấn đề mới, tham mưu chiến lược, tìm đối tác và hướng
đi thuận lợi cho phát triển đất nước.
Ba là, tìm kiếm, huy động cao nhất sự ủng hộ, các nguồn lực bên
ngoài cho phát triển đất nước. Bên cạnh nhiệm vụ phát hiện các vấn đề về an
ninh quốc gia, đối ngoại cần tiếp tục hỗ trợ trong nước để phát triên kinh tế -
thương mại, tranh thủ hiệu quả các yếu tố quốc tế thuận lợi, các hiệp đinh
thương mại tự do đã ký và các cam kết, thỏa thuận quốc tế nhằm mở rộng thị
trường, thu hút tri thức, công nghệ và đầu tư phục vụ đổi mới mô hình tăng
trưởng, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, góp phần tăng cường năng
lực tự chủ của nền kinh tế và sức mạnh tổng hợp quốc gia. Đối ngoại cũng tranh
thủ các mối quan hệ chính trị tốt đẹp để xử lý các vấn đề phức tạp trong hợp
tác, hội nhập kinh tế quốc tế.
Bốn là, dẫn dắt mở đường,
đồng hành, phục vụ lợi ích của người dân, địa phương và doanh nghiệp trong hội
nhập quốc tế. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2021-2030 đề ra định hướng
“xây dựng nền ngoại giao kinh tế phục vụ phát triển, lấy người dân, địa phương
và doanh nghiệp làm trung tâm”. Đây là sự vận dụng sáng tạo tư tưởng “lấy dân
là gốc” trong đối ngoại, bởi việc thực hiện các nhiệm vụ đối ngoại xét đến cùng
là nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Năm là, nâng cao vị thế
và uy tín đất nước thông qua phát huy vai trò tiên phong, nòng cốt, dẫn dắt,
hòa giải, đảm nhận tốt các trọng trách quốc tế, đóng góp tích cực và có trách
nhiệm vào quan tâm chung của thế giới.
Kết luận
Hình
tượng cây tre Việt Nam là hình tượng tiêu biểu cho nền đối ngoại, ngoại giao
trong thời kỳ đổi mới, cho truyền thống, cốt cách, tinh thần, sức sống của dân
tộc Việt Nam. Hình tượng đó cũng tiêu biểu cho khát vọng vươn lên sánh vai với
các cường quốc, cho vị thế vững vàng, cho mùa Xuân tràn đầy mầm xanh tương lai,
hy vọng phát triển của đất nước Việt Nam.
Tài liệu tham khảo:
[1] Trần Ngọc Ánh
(2009), “Ngoại giao Tây Sơn - Những tư tưởng đặc sắc và bài học lịch sử”, Tạp chí Khoa học và Công nghệ, Đại học Đà Nẵng,
số 1/2009.
[2] Đảng Cộng sản
Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ XIII, tập I, II, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật,
Hà Nội.
[3] Phạm Quang
Minh-Nguyễn Hồng Hải (2021), Vấn đề đối tác
và đối tượng trong văn kiện Đại hội XIII của Đảng từ nhận thức đến thực tế,
https://www.tapchicongsan.org.vn
[7] Phạm Bình
Minh (2021), Những dấu ấn của công tác đối
ngoại trong 35 năm đổi mới: Đồng hành cùng dân tộc, phụng sự Tổ quốc và phục vụ
nhân dân, https://baoquocte.vn
[4] Hoàng Khôi
(2001), Nguyễn Trãi toàn tập,
Nxb. Văn hóa thông tin,
Hà Nội.
[5] Lưu Văn Lợi (2000), Ngoại giao Đại Việt,
Nxb. Công an Nhân dân, Hà Nội.
[6] Thái Văn Long (2021), Vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin và một số lý thuyết
quan hệ quốc tế trong xây dựng đường lối đối ngoại,
http://lyluanchinhtri.vn
[8] Bùi Thanh Sơn (2021), Đường lối đối ngoại Đại hội Đảng XIII kế thừa, phát
triển và hoàn thiện đường lối đối ngoại thời kỳ đổi mới,
https://dangcongsan.vn
[9] Thành tựu của đối ngoại Việt Nam trong thời kỳ hội
nhập quốc tế, https://www.tapchicongsan.org.vn
[10] Tổng Bí thư Nguyễn Phú
Trọng phát biểu tại Hội nghị Ngoại giao lần thứ 28, năm 2013,
https://tapchiqptd.vn
[11] Nguyễn Phú Trọng (2021), “Xây dựng và phát triển nền đối ngoại,
ngoại giao Việt Nam hiện đại và mang đậm bản sắc dân tộc”, Tạp
chí Cộng sản, số 980, tháng 12-2021.