Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh tổ chức Hội
thảo khoa học: “Thành tựu thúc đẩy và bảo vệ quyền con người trong thời kỳ đổi
mới ở Việt Nam” nhân kỷ niệm 75 năm Tuyên ngôn phổ quát về quyền con người 1948
và 30 năm Tuyên bố và Chương trình hành động Viên 1993 (Ảnh: Văn Điệp, nguồn: vnanet.vn)
Đặt vấn đề
Tổ chức thực hiện
tốt pháp luật về quyền con người, là thực thi “tinh thần thượng tôn pháp luật”
của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong giai đoạn mới. Tuy nhiên, theo Văn
kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII “chỉ đạo và tổ chức thực
hiện vẫn là khâu yếu, chậm được khắc phục; năng lực cụ thể hóa, thể chế hóa
chủ trương, nghị quyết còn hạn chế, năng lực tổ chức thực hiện của cán bộ
chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ, làm cho pháp luật, nghị quyết chậm được
thực hiện và hiệu quả thấp”[1; 90]. Hạn chế trong tổ chức thực hiện
pháp luật về quyền con người là một trong những nguyên nhân dẫn đến việc quyền
con người không được tôn trọng, bảo vệ và thúc đẩy đầy đủ trong thực tiễn.
Trong khi, bảo vệ và thúc đẩy quyền con người là một trong những đặc trưng quan
trọng của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Tổ chức thực hiện pháp luật về
quyền con người thuộc trách nhiệm của nhiều chủ thể, nhưng trực tiếp và thường
xuyên là chính quyền địa phương. Việc nâng cao hiệu quả tổ chức thực hiện pháp
luật về quyền con người của chính quyền địa phương ở Việt Nam hiện nay là đòi
hỏi cấp thiết, nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp quyền
XHCN Việt Nam.
1. Khái
quát chung về tổ chức thực hiện pháp luật về quyền con người của chính quyền địa
phương
Pháp luật là
phương tiện để nhà nước quản lý đời sống xã hội, nhưng trong điều kiện xây dựng
Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam hiện nay, pháp luật cũng là phương tiện ghi
nhận và bảo đảm quyền con người.
Nội dung tổ chức
thực hiện pháp luật về quyền con người, bao gồm:
1) Hướng dẫn thực
hiện văn bản quy phạm pháp luật về quyền con người; 2) Phổ biến, giáo dục pháp
luật về quyền con người; 3) Tạo điều kiện cần thiết để các chủ thể liên quan tự
mình thực hiện các quy định pháp luật về quyền con người; 4) Thanh tra, kiểm
tra, xử lý vi phạm pháp luật quyền con người.
Như vậy, tổ chức
thực hiện pháp luật về quyền con người của chính quyền địa phương là quá trình
bao gồm nhiều hoạt động do các cơ quan nhà nước của chính quyền địa phương thực
hiện theo thẩm quyền, nhằm bảo vệ và thúc đẩy quyền con người theo quy định của
pháp luật.
2. Thực
trạng tổ chức thực hiện pháp luật về quyền con người của chính quyền địa phương
ở Việt Nam hiện nay
2.1.
Những kết quả đạt được
Về hướng dẫn thực hiện văn bản quy phạm pháp luật về quyền con người, chính quyền địa phương sẽ ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo phạm
vi thẩm quyền hoặc khi được uỷ quyền quy định chi tiết vấn đề được giao trong
Luật hoặc các văn bản khác của cơ quan nhà nước ở Trung ương. Ngoài ra, chính
quyền địa phương còn ban hành văn bản hành chính thông thường dưới dạng các
thông báo, hướng dẫn,… hoặc trực tiếp hướng dẫn các cá nhân, tổ chức trong quá
trình thực hiện pháp luật về quyền con người. Nhìn chung, việc hướng dẫn thực
hiện pháp luật về quyền con người của chính quyền địa phương có nhiều thay đổi
về tính kịp thời, chất lượng văn bản hướng dẫn và cách thức thực hiện. Đến nay,
tình trạng văn bản trái pháp luật, không hợp hiến, hợp pháp đã được cải thiện
đáng kể. Các hình thức hướng dẫn thực hiện pháp luật về quyền con người ngày
càng chuyên nghiệp, dễ tiếp cận hơn. Chẳng hạn như việc xây dựng bộ thủ tục
hành chính, đang được sắp xếp theo các trường thông tin để các cá nhân tổ chức
dễ tiếp cận và thực hiện.
Về phổ biến, giáo dục pháp luật, nhìn
chung, các địa phương đều rất coi trọng công tác này, nhất là các địa bàn có
trình độ dân trí thấp, sinh hoạt không tập trung. Việc phổ biến, giáo dục pháp
luật, đang được thực hiện với nhiều phương pháp, nội dung tin bài đa dạng,...
phù hợp hơn với các đối tượng khác nhau.
Về tạo điều
kiện cần thiết các cá nhân, tổ chức có thể tự mình thực hiện các quy định pháp
luật, đây là công việc khó, cần sự chủ động, có liên quan đến nhiều cơ quan, tổ
chức khác nhau và cần có nguồn lực vềcon người, vật chất. Hiện nay, các điều
kiện về kinh tế - xã hội, hạ tầng về giao thông, điện, trường,...; sự phát
triển của khoa học, kỹ thuật, tính chuyên nghiệp trong quản lý nhà nước đã ngày
càng được cải thiện, là những thuận lợi cho việc tổ chức thực hiện pháp luật.
Chẳng hạn, bảo vệ và thúc đẩy quyền tự do đi lại cho công dân, các địa phương
đã có một hệ thống giao thông ngày càng hoàn thiện, kết nối đến từng hộ gia
đinh. Chất lượng đường giao thông cũng bảo đảm tính an toàn tốt hơn; các phương
tiện giao thông cũng không ngừng phát triển với nhiều tiện ích đa dạng, giá
thành dễ tiếp cận. Trong các dịp lễ tết, để phục vụ nhu cầu đi lại của người
dân, các địa phương có nhiều biện pháp huy động xã hội chung tay để có chuyến
xe “không đồng” đưa công nhân về quê ăn tết,...
Về thanh
tra, kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật khi các điều kiện kinh
tế xã hội ngày càng phát triển thì các hành vi vi phạm pháp luật cũng ngày càng
đa dạng, phức tạp, khó kiểm soát. Các hoạt động thanh tra, kiểm tra của các cơ
quan nhà nước thời gian qua cũng có nhiều chuyển biến tích cực. Thủ tướng Chính
phủ đã ban hành Chỉ thị 20 - CT/TTG ngày 17/5/2017 về việc chấn chỉnh hoạt động
thanh tra, kiểm tra đối với doanh nghiệp. Theo đó, một mặt, các cơ quan nhà
nước thực hiện tốt công tác phối hợp trong thanh tra, kiểm tra để tránh chồng
chéo, và các đối tượng thanh tra, kiểm tra không mất quá nhiều thời gian, nhân
lực phục vụ công tác thanh tra, kiểm tra. Luật Thanh tra năm 2022 đã có quy
định về việc các cơ quan thanh tra, kiểm toán có thể sử dụng kết quả của nhau,
tránh việc trùng lặp nội dung thanh tra, kiểm toán giữa các cơ quan gây khó cho
doanh nghiệp. Các cơ chế kiểm soát, phối hợp xây dựng kế hoạch thanh tra, kiểm
tra, kiểm toán đã được các cơ quan, chính quyền tích cực triển khai. Thông qua
đó, bảo vệ và thúc đẩy có hiệu quả các quyền con người trong thực tiễn
2.2.
Hạn chế và nguyên nhân
Về hướng dẫn thực hiện pháp luật về quyền con người, bên cạnh những kết quả đã đạt được, việc hướng dẫn thực hiện pháp luật về
quyền con người của chính quyền địa phương vẫn còn bộc lộ những bất cập như:
các văn bản pháp luật về quyền con người do chính quyền địa phương ban hành, nhằm
chi tiết hóa vấn đề được giao hoặc quy định những vấn đề được phân cấp theo
thẩm quyền, vẫn còn những văn bản chưa phù hợp, khả thi, tính hiệu lực và hiệu
quả chưa cao.
Thực tiễn, nhiều
quy định pháp luật, hướng dẫn còn phức tạp, làm cho người dân gặp khó khăn khi
thực hiện quyền của mình. “Theo phản ánh của người dân, doanh nghiệp ở một số
cơ quan, đơn vị, địa phương nhất là ở cơ sở vẫn còn tình trạng nhũng nhiễu phát
sinh thêm thủ tục hành chính, hồ sơ, giấy tờ không đúng quy định; một số dịch
vụ công trực tuyến thực hiện còn phức tạp, không đơn giản, thuận lợi;...”[2].
Về phổ biến, giáo dục pháp luật về quyền con người, mặc dù công tác phổ biến giáo dục pháp luật luôn được các địa phương coi
trọng, nhưng hiệu quả của công tác phổ biến giáo dục pháp luật về quyền con
người còn hạn chế “do thiếu
hiểu biết pháp luật nên quyền lợi của người dân đôi khi bị xâm hại, nhiều
trường hợp cán bộ, công chức nhà nước thực thi công vụ không đúng pháp luật,
xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của người dân nhưng người dân vẫn không
biết và không biết sử dụng pháp luật để đòi hỏi, yêu cầu các cơ quan bảo vệ
pháp luật bảo vệ quyền lợi cho mình. Hạn chế nhận thức pháp luật khiến cho
nhiều người không biết đâu là đúng, đâu là sai, đòi hỏi, đưa ra những yêu cầu
không có căn cứ pháp lý, hoặc gây ra những tranh chấp, khiếu kiện không cần
thiết”[4]. Hạn chế trong công tác phổ biến
giáo dục pháp luật ảnh hưởng trực tiếp tới việc tổ chức thực hiện pháp luật về
quyền con người trong thực tiễn. Vì thiếu hiểu biết pháp luật nên trong nhiều
trường hợp người dân dễ bị lợi dụng, bị kích động, lôi kéo vào các hành vi bất
hợp pháp, thậm chí tự tập đông người ảnh hưởng đến an ninh chính trị, trật tự
an toàn xã hội. Do thiếu hiểu biết pháp luật về quyền con người nên người dân
cũng gặp khó khăn trong thực hiện quyền của mình và dễ bị các chủ thể có liên
quan xâm phạm.
Hạn chế trong việc tạo các điều kiện
bảo đảm để người dân thực hiện pháp luật về quyền con người. Nhìn chung, các cơ
quan thuộc chính quyền địa phương với chức năng, nhiệm vụ của mình, luôn quan
tâm đến việc tạo các điều kiện để người dân có thể thực hiện được các quyền của
mình theo pháp luật. Tuy nhiên, việc bảo đảm các điều kiện để người dân thực
hiện được pháp luật về quyền con người, hiện nay còn nhiều bất cập:
Thứ nhất, có những quyền đã được Hiến pháp
ghi nhận, nhưng lại thiếu cơ sở pháp lý để thực hiện, như quyền biểu tình,
quyền lập hội,...
Thứ hai, việc tổ chức thực hiện pháp luật
còn gây nhiều khó khăn cho các cá nhân, tổ chức khi thực hiện quyền của mình.
Theo khảo sát chỉ số PCI năm 2022, chưa tới ⅓ các doanh nghiệp được khảo sát
đồng ý rằng: Chi phí cấp phép kinh doanh có điều kiện không vượt quy định, thời gian làm
thủ tục không kéo dài… “việc phối hợp trong xử lý hồ sơ thủ tục hành chính còn chưa hiệu quả; chưa
kịp thời tiếp nhận, xử lý khó khăn, vướng mắc của người dân, doanh nghiệp,...”[5].
Đối với các quyền về kinh tế, xã hội và văn hóa, nhiều
người dân còn gặp khó khăn trong tiếp cận dịch vụ, như chi phí tiếp cận, khoảng
cách quá xa, đi lại khó khăn, chất lượng dịch vụ chưa bảo đảm, còn có sự chênh
lệch giữa các vùng, miền trong tiếp cận dịch vụ.
Hạn chế trong thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm
pháp luật, nhiều vi phạm pháp
luật về quyền con người chưa được phát hiện, xử lý kịp thời, làm ảnh hưởng đến
quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức. Nhiều tổ chức, cá nhân cung ứng
dịch vụ không đảm bảo chất lượng, an ninh, an toàn không được phát hiện, xử lý
kịp thời. Chẳng hạn, một số cơ sở thẩm mỹ, phòng khám tư nhân, cơ sở kinh doanh
ăn uống, dịch vụ khác,... vi phạm các quy định trong cung cấp dịch vụ, an ninh,
an toàn cho người sử dụng dịch vụ. Thậm chí có những cơ sở đã bị phát hiện, xử
lý vi phạm, nhưng lại không được xử lý triệt để, nên tiếp tục vi phạm, cũng xảy
ra không ít.
Những hạn chế trong tổ chức thực hiện
pháp luật về quyền con người của chính quyền địa phương, có thể được lý giải từ
nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan sau:
- Pháp luật về quyền con người còn nhiều bất cập, chồng
chéo, mâu thuẫn, không phù hợp,... gây khó khăn cho quá trình thực hiện. Chẳng
hạn, “việc xây dựng và ban hành hệ thống văn bản hướng dẫn thực hiện Chương
trình, các cơ quan trung ương đã mất nhiều thời gian để thực hiện. Kể từ khi
Quốc hội phê duyệt Nghị quyết số 120/2020/QH14 đến nay, hệ thống văn bản hướng
dẫn từng bước được ban hành và sửa đổi, song đến thời điểm hiện tại vẫn chưa
đầy đủ, nhiều văn bản còn thiếu rõ ràng, không phù hợp với thực tiễn. Do đó,
quá trình triển khai thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh
tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi gặp rất nhiều vướng mắc,
dẫn đến chậm tiến độ, tạo ra sức ép rất lớn cho địa phương, nhất là cấp cơ sở”[6].
- Quyết tâm chính trị trong tổ chức
thực hiện pháp luật về quyền con người ở địa phương có nơi, có lúc còn chưa
cao. Còn tình trạng, vì mục tiêu thu ngân sách địa phương hàng năm, mà chưa
quyết liệt trong kiểm soát an toàn thực phẩm, tiêu chuẩn môi trường trong sản
xuất, kinh doanh,...
- Một số cán bộ, công chức địa phương còn nhũng nhiễu,
gây khó khăn cho người dân trong thực hiện pháp luật về quyền con người; chưa
thực sự làm hết trách nhiệm của mình trong phát hiện và xử lý vi phạm.
- Nhận thức của cán bộ, công chức và
nhân dân về quyền con người và pháp luật về quyền con người còn hạn chế. Từ đó,
công dân chưa ý thức hết về nghĩa vụ, trách nhiệm công dân của mình, nên còn
thiếu tự giác trong thực hiện pháp luật. Đồng thời, cán bộ, công chức khi tổ
chức thực hiện pháp luật về quyền con người chưa thực sự xuất phát từ ý chí,
nguyện vọng của nhân dân, nên trong nhiều trường hợp xuất hiện xung đột giữa
nhân dân và chính quyền, gây mất lòng tin của nhân dân vào chính quyền, cán bộ,
công chức.
- Việc phòng chống tham nhũng, lãng phí, kiểm soát quyền
lực nhà nước ở địa phương còn chưa hiệu quả. Việc lạm quyền trong sử dụng quyền
lực nhà nước, xâm phạm đến quyền và lợi ích của nhân dân chưa được kiểm soát
hiệu quả; những quyết định hành chính chưa hợp lý, chưa hiệu quả chưa được phát
hiện và xử lý trách nhiệm kịp thời.
3. Giải
pháp nâng cao hiệu quả tổ chức thực hiện pháp luật của chính quyền địa phương ở
Việt Nam trong giai đoạn mới
3.1. Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện pháp luật về quyền con người
Sau hơn 10 năm thực hiện Hiến pháp năm 2013, hệ thống pháp luật đã có nhiều
thay đổi, nhất là các văn bản luật của Quốc hội, theo hướng hiệu lực, hiệu quả
hơn trong bảo đảm quyền con người; hạn chế những sự tùy tiện trong ban hành các
quy định pháp luật hạn chế quyền con người. Tuy nhiên, cùng với quá trình phát
triển của đất nước, yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong
giai đoạn mới. Hệ thống pháp luật đứng trước các yêu cầu mới “xây dựng hệ thống
pháp luật dân chủ, công bằng, nhân đạo, đầy đủ, kịp thời, đồng bộ, thống nhất,
công khai, minh bạch, ổn định, khả thi, dễ tiếp cận, đủ khả năng điều chỉnh các quan hệ xã hội, lấy quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của
người dân, tổ chức, doanh nghiệp làm trung tâm, thúc đẩy đổi mới sáng tạo”[3]. Việc xây dựng và
hoàn thiện hệ thống pháp luật, cần tiếp cận đầy đủ hơn từ góc độ, tạo lập cơ sở
pháp lý cho việc bảo vệ và thúc đẩy quyền con người cụ thể trên các lĩnh vực
của đời sống xã hội
3.2. Tăng
cường sự lãnh đạo của cấp ủy địa phương, quyền làm chủ của nhân dân trong tổ
chức thực hiện pháp luật về quyền con người
Hiến pháp năm 2013 và luật do Quốc hội ban hành hiện nay đã thể hiện khá rõ
nét tư duy, tiếp cận từ góc độ quyền con người và bảo đảm cho các quyền con
người được hiện thực hóa. Tuy nhiên, tư duy này cần phải được thống nhất trong
quá trình tổ chức thực hiện pháp luật, thì pháp luật về quyền con người mới
được thực hiện đầy đủ trong thực tiễn. Hiện nay, việc tổ chức thực hiện pháp
luật về quyền con người là trách nhiệm của chính quyền địa phương, nhưng hiệu
quả của việc tổ chức thực hiện pháp luật ở địa phương, còn phụ thuộc vào sự
lãnh đạo, chỉ đạo thống nhất của cấp ủy Đảng, sự vào cuộc của các tổ chức chính
trị, xã hội, các hội quần chúng và nhận thức về quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm
của công dân. Trong đó, sự chỉ đạo thống nhất của cấp ủy đảng đối với các chủ
thể trong quá trình tổ chức thực hiện pháp luật phải tiếp cận từ góc độ bảo đảm
cao nhất các quyền con người của nhân dân địa phương, trên cơ sở các quy định
pháp luật. Sự nhất quán này có ý nghĩa rất quan trọng trong nâng cao hiệu quả
tổ chức thực hiện pháp luật về quyền con người của chính quyền địa phương. Sự
lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy phải thể hiện được quyết tâm chính trị, đó là sự
nhất quán về đường lối lãnh đạo, công tác tuyên giáo, dân vận, kiểm tra, giám
sát, nêu gương,... của đảng viên và các tổ chức đảng đối với các thiết chế
trong hệ thống chính trị.
3.3. Nâng cao nhận thức của cán bộ, công chức và nhân dân về quyền con
người và pháp luật về quyền con người
Trong khi chúng ta đang xây dựng và tổ chức thực hiện là pháp luật về quyền
con người, thì phần lớn cán bộ, công chức lại không được tập huấn, bồi dưỡng về
quyền con người và pháp luật về quyền con người. Đây là một tồn tại rất lớn ảnh
hưởng trực tiếp đến hiệu quả thực hiện pháp luật về quyền con người. Vì vậy,
cần có quy định thống nhất về yêu cầu bắt buộc đối với cán bộ, công chức phải
được tập huấn, bồi dưỡng kiến thức cơ bản về quyền con người và pháp luật về
quyền con người. Ngoài ra, có thể có chương trình bồi dưỡng cập nhật kiến thức
lý luận và thực tiễn hàng năm.
Đồng thời, nâng cao nhận
thức của nhân dân về quyền con người là điều kiện quan trọng thúc đẩy việc thực
hiện pháp luật về quyền con người. Hiện nay, đề án đưa giáo dục nhân quyền vào chương
trình học phổ thông là một bước đi quan trọng, nhằm nâng cao nhận thức của nhân
dân về quyền con người. Ngoài ra, việc nâng cao nhận thức về quyền con người và
pháp luật về quyền con người, cần được thực hiện thông qua phổ biến, giáo dục
pháp luật.
3.4. Tăng
cường công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý nghiêm các hành vi vi phạm pháp luật
về quyền con người
Các cấp ủy địa phương
cần triển khai thực hiện nghiêm túc Quy định 131-QĐ/TW về kiểm soát quyền lực,
phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong công tác kiểm tra, giám sát, thi hành
kỷ luật đảng và trong hoạt động thanh tra, kiểm toán và Quy định 132 - QĐ/TW
kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong hoạt động điều
tra, truy tố, xét xử, thi hành án. Từ đó, nâng cao hiệu quả công tác thanh tra,
kiểm tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử, nhằm phát hiện và xử lý nghiêm
các hành vi vi phạm pháp luật về quyền con người của cán bộ, công chức, viên
chức trên địa bàn trong quá trình tổ chức thực thi pháp luật về quyền con
người. Đồng thời, phát hiện và xử lý nghiêm các hành vi vi phạm pháp luật về
quyền con người của tất cả các cá nhân, tổ chức trên địa bàn. Nâng cao hiệu quả
công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo, khiếu kiện hành chính, hoàn thiện cơ chế
bảo vệ người tố cáo. Thông qua đó, kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm túc những
vi phạm pháp luật về quyền con người.
Kết luận
Tổ chức thực hiện pháp
luật về quyền con người là một nội dung lớn và phức tạp. Việc nâng cao hiệu quả
trong tổ chức thực hiện pháp luật về quyền con người đã được triển khai thực
hiện trong thực tiễn. Quá trình này cần tiếp tục hoàn thiện nhằm bảo vệ và thúc
đẩy quyền con người trong thực tiễn.
Tài
liệu tham khảo:
[1] Đảng Cộng sản
Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đạị biểu toàn quốc lần thứ
XIII, tập I, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.
[2] Đảng Cộng sản Việt Nam (2023), Chỉ thị số 27 - CT/TTG ngày 27/10/2023 Về tiếp tục đẩy mạnh các giải
pháp cải cách và nâng cao hiệu quả giải quyết thủ tục hành chính, cung cấp dịch
vụ công phục vụ người dân, doanh nghiệp.
[3] Đảng Cộng sản
Việt Nam (2022), Nghị quyết số 27-NQ/TW về xây dựng và hoàn
thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn mới, Hà
Nội, ngày 9/11/2022.
[4] Đặng Văn Cường (2021), Nâng cao ý thức pháp luật của người dân: tuyên truyền, phổ biến, giáo
dục pháp luật đóng vai trò quan trọng, https://lsvn.vn.
[5] Liên đoàn thương mại và công
nghiệp Việt Nam (VCCI(2022)), chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh năm 2022,
https://pcivietnam.vn
[6] Quốc hội, Báo cáo kết quả giám sát
việc triển khai thực hiện các Nghị quyết của Quốc hội về các Chương trình mục
tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021-2025, giảm nghèo bền
vững giai đoạn 2021-2025, phát triển kinh tế-xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu
số và miền núi giai đoạn 2021-2030.