Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh tổ chức Hội
thảo khoa học cấp Bộ “70 năm tác phẩm “Thường thức chính trị" của Chủ tịch
Hồ Chi Minh - Giá trị lý luận và thực tiễn" (Ảnh: Văn Điệp, nguồn:
vnanet.vn)
Đặt vấn đề
Tác phẩm “Thường thức chính trị” của Chủ tịch Hồ Chí Minh bao gồm 50 bài
viết, ký bút danh Đ.X đăng trên báo Cứu quốc năm 1953. Trong đó, vấn đề về
giai cấp được xác định là cơ sở nền tảng, là nội dung cốt lõi, chủ đạo để xác
lập các vấn đề về Nhà nước; Đảng Cộng sản; tính tất yếu của chế độ xã hội Cộng
sản chủ nghĩa. Các chỉ dẫn của Người về vấn đề giai cấp vẫn nguyên giá trị thời
đại và có ý nghĩa to lớn đối với cách mạng Việt Nam hiện nay, nhất là trong
việc xây dựng, phát triển giai cấp công nhân hiện đại cũng như củng cố liên
minh giai cấp trong bối cảnh mới của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội(CNXH)
ở Việt Nam hiện nay.
1. Tư tưởng
Hồ Chí Minh trong tác phẩm "Thường thức chính trị" về vấn đề giai cấp
1.1. Về nội
hàm khái niệm giai cấp
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trung thành với quan điểm của các nhà sáng lập Chủ
nghĩa Mác- Lênin, đồng thời căn cứ vào bối cảnh của thời đại và của Việt Nam để
đưa ra dấu hiệu nội hàm khái niệm giai cấp một cách cô đọng, phù hợp với tình
hình của Việt Nam đương thời.
Phát triển quan
điểm của C.Mác, Ph.Ăngghen về giai cấp trong điều kiện mới, năm 1919 trong tác
phẩm Sáng kiến vĩ đại, V.I.Lênin đã có định nghĩa về giai cấp: “ Giai cấp là
những tập đoàn người, mà tập đoàn người này có thể chiếm đoạt lao động của tập
đoàn khác, do chỗ các tập đoàn đó có địa vị khác nhau trong một chế độ kinh tế
xã hội nhất định”[7,
tr.17-18].
Trung thành và
vận dụng một cách sáng tạo quan điểm của các nhà sáng lập của chủ nghĩa Mác-
Lênin. Trước hết, Hồ Chí Minh nêu lên khái niệm giai cấp bóc lột và bị bóc lột một
cách cô đọng, dễ hiểu dựa trên định nghĩa giai cấp của V.I.Lênin. Người viết:
“Những người chiếm tư liệu sản xuất không làm mà hưởng, là giai cấp bóc lột.
Những người lao động mà không được hưởng là giai cấp bị bóc lột”[8, tr.247].
1.2. Về kết
cấu giai cấp của xã hội Việt Nam trước Cách mạng Tháng Tám theo Tư tưởng Hồ Chí
Minh
Căn cứ vào dấu
hiệu “chiếm hữu tư liệu sản xuất” và “chiếm đoạt thành quả lao động”, Hồ Chí
Minh làm rõ kết cấu giai cấp trong xã hội Việt Nam trước Cách mạng Tháng Tám
(1945), bao gồm: giai cấp phong kiến, giai cấp địa chủ, nông dân, tư bản mại
bản, tư sản dân tộc, công nhân, tiểu tư sản.
“Giai cấp phong
kiến Việt Nam (vua, quan, đại địa chủ) thì hủ bại, đê hèn, chỉ biết bán nước,
không dám chống giặc... Giai cấp phong kiến thì dựa vào thế lực đế quốc mà sống
còn”[8, tr.250-251].
Giai cấp địa chủ là giai cấp chiếm tư liệu sản xuất (ruộng đất, nông cụ), không
lao động, “không làm lụng” nhưng “bao nhiêu của cải do nông nghiệp làm ra, đều
lọt vào tay giai cấp địa chủ”[8,
tr.251]. Tóm lại, phong kiến, địa chủ là giai cấp chiếm đoạt
ruộng đất, áp bức bóc lột dân cày để “ngồi mát ăn bát vàng”.
Giai cấp tư bản mại bản là “tư bản Việt Nam dựa vào đế quốc mà làm
giàu... Họ giúp đế quốc bóc lột nhân dân ta, do đó mà phát tài... những doanh
nghiệp ấy, tiếng là của người Việt Nam, kỳ thực vẫn là thế lực của đế quốc, nó
nhờ vào đế quốc mà sống, nó làm theo mệnh lệnh của đế quốc. Vì vậy, nó cũng là
tay sai của đế quốc, chống lại lợi ích của Nhân dân”[8, tr.252].
Giai cấp tư sản
dân tộc cũng là giai cấp tư sản, chiếm các tư liệu sản xuất làm của riêng, họ
không lao động, mà thuê nhân công sản xuất để bóc lột công nhân. Nhưng “Là giai
cấp tư sản không dính líu với đế quốc, hoặc dính líu rất ít. Một mặt thì họ bị
đế quốc và phong kiến ngăn trở, cho nên họ cũng muốn chống đế quốc và phong
kiến”[8, tr.259].
Giai cấp công
nhân là những người “phải bán sức lao động mới có ăn. Ngoài sức lao động, họ
không có máy móc và nguyên liệu gì cả. Cho nên công nhân là giai cấp vô sản”[8, tr.249]. Dựa trên
đặc trưng “không có tư liệu sản xuất, phải bán sức lao động”, Chủ tịch Hồ Chí
Minh xem cố nông, những người không có ruộng đất, không có công cụ sản xuất,
phải đi làm thuê cho địa chủ, cũng thuộc về giai cấp công nhân.
Về giai cấp nông
dân, Người quan tâm đặc biệt và phân tích rất thấu đáo mọi khía cạnh của sự áp
bức, bóc lột mà họ chịu đựng. “Chế độ phong kiến tức là chế độ địa chủ bóc lột
nông dân. Địa chủ chiếm tư liệu sản xuất, tức là ruộng đất, nông cụ, vân vân,
làm của riêng, nhưng họ không cày cấy. Nông dân buộc phải mướn ruộng đất của
địa chủ, phải nộp tô cho địa chủ, lại còn phải hầu hạ và lễ lạt địa chủ. Nông
dân không khác gì nô lệ. Nông dân quanh năm tay lấm chân bùn, đầu tắt mặt tối,
nhưng vẫn nghèo khổ. Địa chủ thì không nhắc chân động tay, mà lại cửa cao nhà
rộng, phú quý phong lưu. Đó là một chế độ cực kỳ không công bằng”[8, tr.248]. Giai cấp
nông dân, gồm bần nông và trung nông. Bần nông là những người chỉ sở hữu ít
ruộng đất, phải thuê mướn trâu bò, nông cụ sản xuất, phải đi canh tác thêm trên
ruộng đất của địa chủ. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, bần nông là “lớp người đông
nhất và nghèo khổ nhất” ở nông thôn Việt Nam, là giai cấp bị địa chủ phong kiến
bóc lột tàn tệ. Trung nông là “lớp người mình cày ruộng của mình, không bóc lột
ai, cũng không phải làm thuê cho ai”. Dù cuộc sống có khá hơn bần nông, nhưng
họ cũng bị “bọn địa chủ, bọn cho vay nặng lãi, và bọn đế quốc áp bức bóc lột”[8, tr.257]. Nước ta
có đất đai rất rộng, nông dân ta rất siêng năng chịu khó, nhưng phần lớn đất
ruộng đều tập trung trong tay bọn thực dân và địa chủ phong kiến. Nông dân thì
thiếu ruộng hoặc không có ruộng, thiếu cả trâu bò. Vì vậy nông thôn ngày càng
sa sút. Do đó kinh tế Việt Nam thành lạc hậu và phụ thuộc vào kinh tế của đế
quốc Pháp. Tình hình ấy khiến số rất đông Nhân dân, tức là công nhân và nông
dân, cực khổ, khó khăn.
Giai cấp tiểu tư
sản: bao gồm “phần tử trí thức, các nhà công nghệ và thương nghiệp nhỏ, thủ
công nghệ, những người làm nghề tự do (thầy thuốc, luật sư...), công chức”[8, tr.258]. Theo
Người, đại đa số trí thức và học sinh cũng thuộc về giai cấp tiểu tư sản. Họ
cũng “cũng bị đế quốc và phong kiến áp bức, thường bị thất nghiệp, thất học”[8, tr.258].
So với công nhân,
nông dân, thì giai cấp tiểu tư sản sướng hơn nhưng sinh hoạt của họ cũng không
chắc chắn: Người có tiệm buôn, người có xưởng thủ công hoặc xưởng công nghệ nhỏ
thì bị hàng ngoại hóa đè lên, không phát triển được. Lại bị thuế khóa nặng nề
và tiền lãi cắt họng uy hiếp. Người làm thầy giáo, thầy thuốc, văn nghệ, vân
vân, cũng không thể sung sướng trong lúc cả nước bần cùng. Những nhà tư sản dân
tộc cũng bị đế quốc và phong kiến đè nén ngăn trở, không có đường ra, doanh
nghiệp của họ rất bấp bênh và thường dễ phá sản. Vì lẽ đó, muốn giải phóng thì
nhân dân, tức là công, nông, tiểu tư sản và tư sản dân tộc, phải đoàn kết để
đánh đổ đế quốc, đánh đổ phong kiến và tư sản mại bản”[8, tr.252-253].
Như vậy, trong xã
hội Việt Nam trước Cách mạng Tháng Tám, qua sự phân tích của Chủ tịch Hồ Chí Minh dưới chế độ thực dân phong
kiến, thành phần giai cấp bao gồm: giai cấp bóc lột (bọn thực dân đế quốc, giai
cấp phong kiến, địa chủ, tư bản mại bản), giai cấp bị bóc lột (nông dân, công
nhân), giai cấp bị áp bức (tiểu tư sản) và giai cấp vừa là giai cấp bóc lột,
vừa bị ngăn trở (tư sản dân tộc).
1.3. Vai trò
của các giai cấp trong tiến trình Cách mạng Việt Nam
Thứ nhất, Hồ Chí Minh
khẳng định, giai cấp công nhân là giai cấp lãnh đạo cách mạng; đồng thời giải
thích một cách thuyết phục về vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân và phản
bác những ý kiến không đồng tình với vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân.
Theo Hồ Chí Minh, giai cấp công nhân xứng đáng là giai cấp lãnh đạo, chèo lái
“con thuyền cách mạng”, tập hợp các giai cấp có chung lợi ích là do địa vị kinh
tế - xã hội và đặc tính cách mạng của giai cấp này quy định. Người chỉ ra, giai
cấp công nhân có phẩm chất: “kiên quyết, triệt để, tập thể, có tổ chức, có kỷ
luật”, “thấm nhuần một tư tưởng cách mạng nhất, tức là chủ nghĩa Mác-Lênin”, có
“Đảng theo chủ nghĩa Mác-Lênin là Đảng Lao động Việt Nam”[8, tr.256-257] có đường lối đúng đắn để
tập hợp mọi lực lượng và có phương pháp lãnh đạo cách mạng giành thắng lợi.
Người chỉ rõ: “vì là giai cấp tiền tiến nhất trong sức sản xuất, gánh trách
nhiệm đánh đổ chế độ tư bản và đế quốc, để xây dựng một xã hội mới, giai cấp
công nhân có thể thấm nhuần một tư tưởng cách mạng nhất, tức là chủ nghĩa Mác -
Lênin. Đồng thời, tinh thần đấu tranh của họ ảnh hưởng và giáo dục các tầng lớp
khác. Vì vậy, về mặt chính trị, tư tưởng, tổ chức và hành động, giai cấp công
nhân đều giữ vai trò lãnh đạo... Lãnh đạo được hay không, là do đặc tính cách
mạng, chứ không phải do số người nhiều ít của giai cấp. Giai cấp công nhân có
chủ nghĩa Mác - Lênin. Trên nền tảng đấu tranh, họ xây dựng nên Đảng theo chủ
nghĩa Mác - Lênin là Đảng Lao động Việt Nam. Đảng đề ra chủ trương, đường lối,
khẩu hiệu cách mạng, lôi cuốn giai cấp nông dân và tiểu tư sản vào đấu tranh,
bồi dưỡng họ thành những phần tử tiên tiến. Lại có những phần tử trí thức tham
gia cách mạng và vô sản hóa. Thành thử đội ngũ chính trị của giai cấp công nhân
ngày càng phát triển”[8,
tr.256-257].
Thứ hai, với tính chất của cách mạng Việt Nam, theo
Người, động lực cách mạng là những giai cấp ủng hộ và tham gia cách mạng. Những
giai cấp ấy gồm: công nhân, nông dân, tiểu tư sản và thậm chí tùy từng thời kỳ
thì giai cấp tư sản dân tộc cũng là động lực cách mạng. “Bốn giai cấp ấy do
giai cấp công nhân lãnh đạo, lấy công nông liên minh làm nền tảng, đoàn kết các
giai cấp dân chủ và các dân tộc trong nước, để thực hành dân chủ chuyên chính”[8, tr.262]. Hồ Chí Minh sớm nhận rõ
mâu thuẫn chủ yếu trong xã hội Việt Nam thuộc địa, nửa phong kiến là mâu thuẫn
giữa toàn thể dân tộc Việt Nam bị áp bức, bóc lột với thực dân Pháp và bọn bán
nước, phản bội quyền lợi dân tộc. Người viết: “Tính chất thuộc địa và phong
kiến của xã hội cũ Việt Nam khiến cách mạng Việt Nam phải chia làm hai bước.
Bước thứ nhất là đánh đổ đế quốc, đánh đổ phong kiến, thực hiện “người cày có
ruộng”, xây dựng chính trị và kinh tế dân chủ mới. Trong giai đoạn này, phải
bảo vệ tư sản dân tộc, vì họ cũng chống đế quốc, chống phong kiến và họ là một
lực lượng để phát triển công nghệ, nông nghiệp và thương nghiệp. Bước thứ hai
là tiến lên chủ nghĩa xã hội, tức là giai đoạn đầu của chủ nghĩa cộng sản”[8, tr.254]. Từ đó,
Người kiên định với mục tiêu đã xác định để tập trung lực lượng giải quyết vấn
đề dân tộc.
Hồ Chí Minh cũng
đã chỉ ra: “địa vị của mỗi giai cấp khác nhau, cho nên đặc tính của mỗi giai
cấp cũng khác nhau. Đặc tính khác nhau cho nên vai trò cách mạng cũng khác
nhau”[8, tr.255].
Để cách mạng đi tới thắng lợi, Người cũng chỉ ra nhược điểm cần khắc phục, cải
tạo của từng giai cấp trong tiến trình cách mạng: “vì hoàn cảnh kinh tế lạc hậu,
mà nông dân thường có tính thủ cựu, rời rạc, tư hữu. Cho nên giai cấp công nhân
phải đoàn kết họ, giúp tổ chức họ và lãnh đạo họ, thì họ là một lực lượng rất
to lớn vững chắc. Thế là công nông liên minh”[8, tr.258]. Giai cấp tiểu tư sản thường
mắc những nhược điểm rất lớn như: lý luận không đi đôi với thực hành, xem khinh
lao động, tư tưởng mơ hồ, lập trường không vững vàng, khi hành động thường hay
lung lay, tự tư, tự lợi, dời dạc, kém kiên quyết. Vì vậy, giai cấp công nhân
cần phải tuyên truyền tổ chức giúp đỡ họ để phát huy ưu điểm, sửa chữa nhược
điểm. Cần phải khôn khéo lãnh đạo họ để làm cho họ quyết tâm phụng sự nhân dân,
cải tạo tư tưởng, cùng với công nông kết thành một khối, thì họ mới trở nên có
tác dụng to lớn trong công cuộc kháng chiến, cách mạng[Xem:8, tr.258-259]. Giai cấp tư sản dân
tộc họ sợ giai cấp bóc lột nổi lên đấu tranh lật đổ họ, cho nên trong cách mạng
họ còn do dự, có tư tưởng thỏa hiệp. Vì vậy, giai cấp công nhân phải vừa đoàn
kết họ, phải vừa đấu tranh với họ để bảo vệ quyền lợi của công nhân, góp sức
cho cách mạng[Xem:8,
tr.258-259].
2. Vận dụng
của Đảng Cộng sản Việt Nam trong việc củng cố liên minh giai cấp công nhân - nông
dân và đội ngũ trí thức trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay
Thấm nhuần lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng
Cộng sản Việt Nam xác định, liên minh giai cấp có tầm quan trọng đặc biệt trong
cách mạng xã hội chủ nghĩa, là vấn đề chiến lược có ý nghĩa quyết định đến sự
thành bại của cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp công nhân trong giành và giữ
chính quyền; trong cải tạo xã hội cũ xây dựng xã hội mới, liên minh là điều
kiện căn bản để giữ vững, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản đối với
toàn xã hội; là cơ sở chính trị xã hội vững chắc của nhà nước xã hội chủ nghĩa;
là lực lượng bảo đảm thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ
nghĩa.
Quan điểm, đường
lối của Đảng ta về tính tất yếu của liên minh công – nông – trí thức đã được
thể hiện từ văn kiện Đại hội II của Đảng Lao động Việt Nam (1951): “Chính quyền
của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa là chính quyền dân chủ của Nhân dân... Lấy
liên minh công nhân, nông dân và lao động trí thức làm nền tảng do giai cấp
công nhân lãnh đạo”[2, tr.437]. Đến Đại hội X (2006) Đảng Cộng sản Việt Nam
khẳng định: “Đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công
nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng là
đường lối chiến lược nhất quán của cách mạng Việt Nam; là nguồn sức mạnh, động
lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững của
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”[3, tr.116].
Trong suốt quá
trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã thực hiện nhất quán, kiên
trì đường lối đại đoàn kết dân tộc, tập hợp được mọi lực lượng của toàn dân tộc
thành một khối thống nhất, đấu tranh cho mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội. Nền tảng, hạt nhân của khối đại đoàn kết dân tộc là liên minh giữa giai
cấp công nhân, giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh
đạo. Liên minh công - nông - trí thức là thành tố cơ bản, chủ yếu nhất để tạo
thành cốt lõi, linh hồn của khối đại đoàn kết dân tộc. Trên cơ sở khối liên
minh, các giai cấp, tầng lớp được phát triển và củng cố, góp phần làm cho khối
đại đoàn kết dân tộc ngày càng mở rộng và phát triển vững chắc. Văn kiện Đại
hội lần thứ XIII của Đảng tiếp tục khẳng định: “Khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu
nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng
phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa,
sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và của nền văn hóa, con người Việt
Nam”[5, tr.110].
Trong những năm qua, liên minh giai cấp ở Việt Nam được thực hiện trên tất
cả các lĩnh vực của đời sổng xã hộỉ, từ kinh tế, chính trị đến văn hóa, tư
tưởng và đang tạo ra những chuyển biến sâu sắc trong sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội. Một là, sự liên minh trên lĩnh vực chính trị giữa các giai cấp,
tầng lớp thể hiện trước hết ở việc thiết lập Nhà nước dân chủ kiểu mới, đó là
Nhà nước mang bản chất giai cấp công nhân, đại diện cho ý chí, nguyện vọng của
các tầng lớp nhân dân. Nhà nước là công cụ chủ yếu để thực hiện chúc năng cải
tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới theo con đường xã hội chủ nghĩa. Sự liên
minh chặt chẽ giữa công - nông - trí thức góp phần thay đổi bộ mặt chính trị -
xã hội của đất nước, nâng cao năng lực, trình độ tồ chức, quản lý; xây dựng hệ
thống pháp luật phát triển đồng bộ, sát với thực tiễn, góp phần thúc đẩy kinh
tế tăng trưởng, giữ vững an ninh chính trị, trật tự xã hội. Hai là, sự liên
minh trên lĩnh vực kinh tế giữa các giai cấp, tầng lớp được thực hiện chủ yếu
trong giai đoạn xây dựng đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Đó là nội dung nổi
bật trong thời kỳ hiện nay, là nền tảng vật chất của liên minh, tạo dựng cơ sở
vật chất cho chủ nghĩa xã hội. Nội dung kinh tế của liên minh công - nông - trí
thức thực chất là sự liên kết, hợp tác của công nhân, nông dân, trí thức để xây
dựng nền kinh tế mới xã hội chủ nghĩa, mà ở thời kỳ quá độ là nền kinh tế nhiều
thành phần theo định hướng xã hộỉ chủ nghĩa. Thực chất của liên minh giai cấp
về kinh tế là sự kết hợp các lợi ích kinh tế nhằm thỏa mãn các nhu cầu kinh tế
của các giai cấp, tầng lớp xã hội. Do đó, liên minh giai cấp về mặt kinh tế là
phát hiện và giải quyết các nhu cầu kinh tế nảy sinh của các giai cấp và của
toàn xã hội trong tùng bước đi của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Ba là,
nội dung văn hóa - xã hội của liên minh công - nông - trí thức, trong thực tế
là sự đoàn kết, hợp lực,.. của công nhân, nông dân, trí thức để xây dựng nền
văn hóa mới, con người mới và xã hội văn minh. Nội dung văn hóa - xã hội này
của liên minh thực chất là giữ gìn những giá trị văn hóa truyền thống và hiện
đại, qua đó góp phần xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc;
đảm bảo sự sáng tạo và thụ hưởng các giá trị văn hóa tinh thần của toàn thể
nhân dân.
Kết luận
Như vậy, vấn đề giai cấp được Hồ Chí Minh đề
cập trong tác phẩm “Thường thức chính trị”vẫn giữ nguyên giá trị lý luận và
thực tiễn sâu sắc đối với công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện
nay. Gần 40 năm thực hiện công cuộc Đổi mới, giá trị soi đường của những quan
điểm trên của Người vẫn hiện diện đậm nét, ngày càng đầy đủ, sống động trong
đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước Việt Nam về
giai cấp, dân tộc về củng cố liên minh giai cấp, phát huy sức mạnh đại đoàn kết
toàn dân tộc trong công cuộc xây dựng xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa Việt
Nam hiện nay.
Tài
liệu tham khảo:
[1] C.Mác,
Ph.Ăngghen (2004), Toàn tập, tập 28,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
[2] Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 12, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà
Nội.
[3] Đảng Cộng sản
Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
[4] Đảng Cộng sản
Việt Nam (2008), Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành
Trung ương khóa X, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.
[5] Đảng Cộng sản
Việt Nam (2021)Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XIII, tập I, Nxb.Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.
[6] V.I.Lênin (2005),
Toàn tập, tập 33, Nxb. Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
[7] V.I.Lênin
(2005), Toàn tập, tập 39, Nxb. Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
[8] Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập
(Xuất bản lần thứ ba), tập 8, Nxb. Chính trị quốc gia- Sự thật, Hà
Nội.