Thứ Hai, ngày 01/07/2024, 04:37

Phát triển con người Việt Nam toàn diện theo quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam trong tình hình mới

Nguyễn Thị Thanh Sâm
Trường Đại học Hàng hải Việt Nam.

(GDLL) - Việt Nam xác định đặt con người vào vị trí trung tâm của các chính sách phát triển, coi con người là vốn quý nhất, chăm lo cho con người là mục tiêu phấn đấu cao nhất. Trong công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, vấn đề phát triển con người đã được Đảng nhận thức, bổ sung và phát triển ngày càng đầy đủ, sâu sắc. Bài viết trình bày vấn đề phát triển con người Việt Nam theo quan điểm của Đảng; từ đó rút ra một số thành tựu, hạn chế và đề xuất một số giải pháp để phát triển con người Việt Nam toàn diện trong tình hình mới.

Đại sứ Đặng Hoàng Giang, Trưởng Phái đoàn thường trực Việt Nam tại Liên hợp quốc tham dự buổi Lễ công bố Báo cáo Phát triển con người năm 2023-2024 của Chương trình Phát triển Liên hợp quốc (UNDP) (báo cáo đã ghi nhậnViệt Nam thăng hạng vượt bậc về Chỉ số phát triển con người) (Ảnh: Quang Huy, nguồn: vnanet.vn)

 

Đặt vấn đề

Trong học thuyết về con người của chủ nghĩa Mác - Lênin, con người không những là chủ thể của các hoạt động sản xuất vật chất, đóng vai trò yếu tố cơ bản nhất của lực lượng sản xuất xã hội, mà hơn thế, còn là chủ thể sáng tạo nên lịch sử của xã hội, của con người. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng quan niệm: “Vô luận việc gì, đều do người làm ra, và từ nhỏ đến to, từ gần đến xa, đều thế cả” [9, tr.281]. Kế thừa quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về con người, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn đặt việc phát triển con người, chăm lo cho hạnh phúc của mỗi gia đình, mỗi người lên hàng đầu.Trong thời đại ngày nay, việc phát triển con người toàn diện còn là tạo tiền đề để xây dựng đất nước ngày càng phồn vinh, hạnh phúc.

1. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về phát triển con người

Trong thời kỳ đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam nhận thức sâu sắc vai trò đặc biệt quan trọng của nhân tố con người với tư cách là động lực của sự phát triển xã hội, của sự nghiệp xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa. Kế thừa quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của con người trong tiến trình xây dựng xã hội mới, Đảng đã khẳng định rằng: Nguồn lực quý báu nhất, có vai trò quyết định nhất là con người Việt Nam; nhân tố con người chính là nguồn sức mạnh nội sinh của dân tộc Việt Nam.

Đại hội VI của Đảng đã chú trọng đến quyền làm chủ của nhân dân lao động “thực chất là tôn trọng con người, phát huy sức sáng tạo của mọi tầng lớp nhân dân, hướng sự sáng tạo đó vào sự nghiệp xây dựng xã hội mới”[1, tr.9]. Theo đó, mọi chủ trương, chính sách của Đảng đều chú trọng đến việc chăm lo bồi dưỡng phát huy nhân tố con người.

Tiếp đó, vấn đề con người cũng được đề cập trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, thông qua tại Đại hội VII (năm 1991). Trong Cương lĩnh, Đảng khẳng định xã hội chủ nghĩa là một xã hội con người được giải phóng, nhân dân làm chủ, có nền kinh tế phát triển cao và nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện để phát triển cá nhân, công bằng xã hội và dân chủ được đảm bảo. Vì vậy, phương hướng, mục tiêu lớn của chính sách xã hội được đề cập trong Cương lĩnh là: “Phát huy nhân tố con người trên cơ sở đảm bảo công bằng, bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ công dân; kết hợp tốt tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội; giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần; giữa đáp ứng các nhu cầu trước mắt với chăm lo lợi ích lâu dài; giữa cá nhân với tập thể và cộng đồng xã hội”[2, tr.12-13]. Và cũng tại Đại hội VII, Đảng đã một lần nữa khẳng định: “Con người là vốn quý nhất, chăm lo hạnh phúc con người là mục tiêu phấn đấu cao nhất của chế độ ta... Chúng ta cần tìm hiểu sâu sắc những giá trị lớn lao và ý nghĩa quyết định của nhân tố con người, chủ thể của mọi sáng tạo, mọi nguồn gốc của cải vật chất và văn hóa, mọi nền văn minh của các quốc gia, phải xuất phát từ tinh thần nhân văn sâu sắc nhằm phát triển con người toàn diện, xây dựng một xã hội công bằng, nhân ái, thiết lập quan hệ thật sự tốt đẹp và tiến bộ giữa con người với con người trong sản xuất và trong đời sống”[3, tr.5].

Đến Đại hội VIII, Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn đặt việc phát triển con người lên hàng đầu, tư tưởng chủ đạo của chiến lược con người trong giai đoạn này được Đại hội chỉ rõ: “Chính sách xã hội đúng đắn vì hạnh phúc con người là động lực to lớn phát huy mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng CNXH”[4, tr.28]. Đến Đại hội IX, Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục nhất quán tư tưởng phát triển con người: “Xã hội ta là xã hội vì con người và con người luôn giữ vị trí trung tâm của sự phát triển kinh tế, xã hội”. Đảng cũng chỉ rõ: “Phát triển giáo dục và đào tạo là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, là điều kiện để phát huy nguồn lực con người, yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững”[5, tr.108-109].

Tiếp thu quan điểm của các kỳ đại hội trước, Đại hội X của Đảng tiếp tục làm rõ: Chiến lược con người phải nằm ở vị trí trung tâm của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Mọi chủ trương, chính sách nhằm phát huy nhân tố con người đều xuất phát từ quan điểm cho rằng nhân dân là người sáng tạo ra lịch sử, là chủ nhân thực sự của xã hội, là chủ thể của mọi hoạt động kinh tế, văn hóa, xã hội và mục tiêu của toàn bộ sự nghiệp cách mạng là phục vụ nhân dân. Có thể nói, Đại hội đã thể hiện tư duy đổi mới, khoa học của Đảng trong điều kiện lịch sử mới của đất nước, phù hợp với quy luật vận động, phát triển khách quan của xã hội, nguyện vọng chân chính của nhân dân cũng như bản chất nhân văn, tính ưu việt của chế độ xã hội mà Việt Nam phấn đấu xây dựng. 

Tại Đại hội XI, Đảng xác định để hoàn thành mục tiêu tổng quát cần “Phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao”; đồng thời, Đại hội cũng đưa ra quan điểm phát huy nhân tố con người trên cơ sở “Mở rộng dân chủ, phát huy tối đa nhân tố con người, coi con người là chủ thể, nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu của sự phát triển”[6, tr.100]. Có thể thấy, đây là sự kế thừa, tiếp nối tư tưởng của Đảng coi con người là chủ thể, là nguồn lực quan trọng nhất quyết định sự phát triển xã hội và là sự nghiệp của cách mạng Việt Nam. Mọi quá trình phát triển kinh tế - xã hội phải hướng tới mục tiêu cao cả là vì con người.

Có thể thấy rằng, trong suốt quá trình lãnh đạo, đặc biệt là từ khi Đổi mới, vấn đề con người luôn được Đảng chú trọng và tập trung phát triển; Đại hội XII, vấn đề “phát triển con người toàn diện” được Đảng xác định là một trong những nhiệm vụ tổng quát phát triển đất nước 5 năm 2016-2020: “Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa”[7, tr.78]. Đây là bước tiến trong nhận thức của Đảng sau 30 năm đổi mới, phù hợp với yêu cầu, đòi hỏi của thực tiễn đặt ra, điều đó cho thấy việc Đảng ngày càng nhấn mạnh vai trò đặc biệt quan trọng của việc xây dựng và phát triển con người toàn diện, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước thời kỳ hội nhập. Đại hội cũng nêu rõ: “Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện phải trở thành một mục tiêu của chiến lược phát triển”[7, tr.126].

Tại Đại hội lần thứ XIII, Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định: “Phát triển con người toàn diện và xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc để văn hóa, con người Việt Nam thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc”[8, tr.115-116], cùng với đó phải: “Xây dựng, phát triển, tạo môi trường và điều kiện xã hội thuận lợi nhất để khơi dậy… tài năng, trí tuệ, phẩm chất của con người Việt Nam là trung tâm, mục tiêu và động lực phát triển quan trọng nhất của đất nước”[8, tr.116].

Như vậy, trong công cuộc Đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn chú trọng về xây dựng và phát triển con người, trải qua mỗi kỳ Đại hội luôn có sự bổ sung, phát triển lý luận với tư duy mới, nội dung mới, cụ thể hơn về con người Việt Nam trong tình hình mới, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn.

2. Thực tiễn việc phát triển con người Việt Nam thời kỳ Đổi mới

Đảng Cộng sản Việt Nam coi con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển và tiến bộ xã hội. Mục tiêu về tiến bộ xã hội mà Đảng đề ra là xây dựng một xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, dân giàu, nước mạnh - một xã hội mà ở đó con người được giải phóng khỏi mọi sự áp bức bóc lột, được tự do và phát triển mọi khả năng sẵn có của mình - một xã hội mà các giá trị đạo đức và văn hoá truyền thống được mọi người trân trọng, giữ gìn, bồi đắp, khai thác và phát huy; nhờ đó, việc phát triển con người trong những năm qua đã đạt được một số kết quả sau:

2.1. Thành tựu

Thứ nhất, về chỉ số phát triển con người.

Chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam ngày càng tiến bộ. Điểm số HDI tăng từ 0,48 năm 1990 lên 0,71 năm 2020, Việt Nam được chuyển từ nhóm trung bình lên nhóm “các quốc gia phát triển con người cao”, đứng ở vị trí 117/189 quốc gia; Việt Nam cũng xếp thứ hạng cao về chỉ số vốn nhân lực (HCI), chỉ đứng sau Singapore trong khu vực Đông Nam Á[10].

Một thành tựu nổi bật trong phát triển con người ở Việt Nam là sự tăng nhanh của tuổi thọ và thu nhập bình quân đầu người. Năm 1990, tuổi thọ trung bình của người Việt Nam là 64,8 tuổi; năm 2003 là 68,6 tuổi; năm 2006 là 70,8 tuổi và đạt 75,4 tuổi vào năm 2019. Tính riêng năm 2019, tuổi thọ trung bình của người Việt Nam đứng thứ 77 thế giới; thứ tư trong ASEAN, chỉ xếp sau Singapore, Malaysia và Thái Lan[11]. Từ xuất phát điểm thấp, khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng, người dân nhiều nơi thiếu ăn, thiếu mặc, hơn 2/3 hộ dân là hộ nghèo, là một trong những quốc gia nghèo nhất trên thế giới với thu nhập bình quân đầu người khoảng 100 USD những năm 90, đến năm 2020, thu nhập bình quân đầu người đạt gần 3.700 USD, gấp 37 lần trong vòng hơn ba thập niên. Đời sống của nhân dân trên khắp các vùng, miền, mọi thành phần, dân tộc đều được nâng lên là tiền đề và điều kiện cơ bản để bảo đảm an sinh xã hội, an ninh con người và phát triển con người[10].

Thứ hai, về trình độ học vấn và dân trí.

Từ năm 2013 trở về trước, chỉ số học vấn của Việt Nam luôn ở mức thấp. Cụ thể, năm 2013, số năm đi học bình quân của người Việt Nam là 5,5 năm; số năm đi học bình quân kỳ vọng là 11,9 năm. Tuy nhiên, trong mấy năm gần đây, chỉ số học vấn của Việt Nam có sự tăng đột biến. Số năm đi học bình quân của người Việt Nam năm 2014 là 7,5 năm; năm 2015 là 8,0 năm và đạt 8,3 năm vào năm 2019. Tương tự, số năm đi học bình quân kỳ vọng cũng tăng lên và đạt 12,7 năm vào năm 2019, phổ cập giáo dục trung học cơ sở, hệ thống giáo dục các cấp phát triển [11].

Thứ ba, về an sinh xã hội.

Chính sách xoá đói giảm nghèo tiếp tục được thực hiện có hiệu quả, “tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn nghèo đa chiều của cả nước đã giảm từ 9,88 cuối năm 2015 xuống dưới 3% vào năm 2020, bình quân giai đoạn 2016 - 2020 giảm trên 1,4%” [8, tr.43]. Công tác y tế, bảo hiểm xã hội đã có sự cải thiện, diện bao phủ bảo hiểm xã hội ngày càng mở rộng, tỷ lệ lực lượng lao động trong độ tuổi tham gia bảo hiểm xã hội tăng đều hằng năm, đạt 36% năm 2021[10]

2.2. Hạn chế

Một là, tốc độ tăng của HDI giảm dần.

Giai đoạn 1990 - 2000 tốc độ tăng HDI của Việt Nam là 1,99%, giai đoạn 2001- 2010 còn 1,23% và chỉ đạt 0,85% giai đoạn 2011 - 2019. Thực trạng này đã làm cho HDI của Việt Nam tụt lại so với mức trung bình của khu vực Châu Á - Thái Bình Dương[11].

Hai là, chỉ số HDI của Việt Nam chưa có sự đồng đều về giá trị tuyệt đối và tốc độ tăng.

Mặc dù giá trị tuyệt đối của HDI đã tăng lên theo thời gian nhưng do tốc độ tăng HDI chậm và chưa có sự cải thiện rõ ràng, đồng đều. Điểm số HDI tăng từ 0,48 năm 1990 lên 0,71 năm 2020[10] nhưng tốc độ tăng HDI của Việt Nam lại giảm từ 1,99% giai đoạn 1990-2000 xuống còn 0,85% giai đoạn 2011 - 2019[11]. Thu nhập bình quân đầu người cũng vậy và điều đó đã tác động đến giá trị tuyệt đối của HDI và cũng ảnh hưởng đến các chỉ số giáo dục, tuổi thọ.

Ba là, chỉ số học vấn còn thua kém nhiều quốc gia trong khu vực.

Tuy chỉ số giáo dục đã tăng nhanh trong vài năm gần đây, song vẫn thấp hơn nhiều quốc gia trong ASEAN như Singapore, Malaysia, Philippines... và chỉ cao hơn Lào, Camphuchia và Myanmar. Theo nhận định của UNDP, chính sự tụt hậu về giáo dục đã làm cho HDI của Việt Nam chững lại và có xu hướng tụt hậu so với các quốc gia trong khu vực Châu Á - Thái Bình Dương[11]. Giáo dục Việt Nam trong những năm qua đã có nhiều cải cách nhưng việc "Đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế, xã hội"[8; tr.82-83].

Bốn là, một số vấn đề về an sinh xã hội còn bất cập.

Rất nhiều hoàn cảnh ở vùng sâu vùng xa, miền núi chưa tiếp cận được với các chính sách an sinh xã hội cũng như các cơ hội phát triển. Chính sách đào tạo nghề cho lao động nông thôn; chính sách hỗ trợ tạo việc làm từ Quỹ quốc gia về việc làm và các nguồn tín dụng khác; chính sách hỗ trợ phát triển tổ chức dịch vụ việc làm; các chính sách bảo hiểm xã hội tự nguyện; các chính sách về an toàn, vệ sinh lao động... đời sống còn gặp nhiều khó khăn, giá thuê nhà và sinh hoạt phí đắt đỏ kéo dài chưa thể tập trung phát triển con người toàn diện.

3. Giải pháp phát triển con người toàn diện trong tình hình mới

Thứ nhất, hoàn thiện cơ chế, chính sách xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện phù hợp với điều kiện hiện nay.

Trong giai đoạn mới, để tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách để phát triển con người Việt Nam toàn diện cần có sự đánh giá khách quan các nhân tố, trong đó có cả nhân tố tích cực và tiêu cực; cần nhanh chóng loại bỏ những chính sách không còn phù hợp, điều chỉnh kịp thời để bắt kịp xu thế. Điều này đòi hỏi sự tham gia tích cực, chủ động của toàn hệ thống chính trị trong thực hiện xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện.

Thứ hai, phát huy tinh thần tự giáo dục, rèn luyện của mỗi người Việt Nam.

Việc phát triển con người không chỉ là nhiệm vụ của Đảng, Nhà nước và các cơ quan chính trị - xã hội mà là trách nhiệm của toàn thể nhân dân. Mỗi người dân cần có nhận thức đầy đủ, đúng đắn để tiếp thu tốt chính sách của Đảng và Nhà nước, kết hợp với những giá trị truyền thống của dân tộc, phát huy những giá trị chuẩn mực, hướng con người vươn tới chân - thiện - mỹ.Chỉ khi nào con người tích cực, tự giác giáo dục, rèn luyện theo chuẩn giá trị thì mới có thể biến giá trị xã hội thành giá trị của cá nhân; từ đó lan tỏa trở thành giá trị của cộng đồng và giá trị chung của dân tộc để xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển nhanh, bền vững đất nước.

Thứ ba, chú trọng vấn đề an ninh con người.

Trong giai đoạn mới cần tích cực đấu tranh phê phán, đẩy lùi cái xấu, cái ác, thấp hèn, lạc hậu; chống các quan điểm, hành vi sai trái, tiêu cực ảnh hưởng xấu đến xây dựng nền văn hóa, làm tha hóa con người. Có giải pháp ngăn chặn và đẩy lùi sự xuống cấp về đạo đức xã hội, khắc phục những mặt hạn chế của con người Việt Nam. Đồng thời, phải quan tâm xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, phù hợp với bối cảnh phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.

Thứ tư, nâng cao thể lực, sức khỏe, tuổi thọ cho con người.

Xây dựng phát triển con người là điều kiện tiên quyết để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Bởi “muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội thì trước hết phải có những con người xã hội chủ nghĩa” như Chủ tịch Hồ Chí Minh từng căn dặn. Vì thế, việc xây dựng, hình thành nên những người Việt Nam có phẩm chất, năng lực, “vừa hồng vừa chuyên” là nhiệm vụ trọng tâm trong các chương trình, kế hoạch của các cấp, các ngành.

Kết luận

Lịch sử luôn vận động và phát triển không ngừng, việc phát triển con người toàn diện lên một tầm cao mới là yêu cầu bắt buộc của thời đại. Trong đó, cần chú trọng giáo dục đạo đức, nhân cách, năng lực sáng tạo và các giá trị cốt lõi, nhất là giáo dục tinh thần yêu nước, tự hào, tự tôn dân tộc, truyền thống và lịch sử dân tộc, ý thức trách nhiệm xã hội; giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc. Nhận thức được điều đó, qua mỗi giai đoạn, Đảng Cộng sản Việt Nam lại có những chủ trương, chính sách phù hợp, mục tiêu hướng con người tới chân - thiện - mỹ và đưa con người trở thành động lực nội sinh để phát triển đất nước.

 

Tài liệu tham khảo:

[1] Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb. Sự thật, Hà Nội.

[2] Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb. Sự thật, Hà Nội.

[3] Đảng Cộng sản Việt Nam (1993), Văn kiện Hội nghị Trung ương 4 khoá VII, Nxb. Sự thật, Hà Nội.

[4] Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb. Sự thật, Hà Nội.

[5] Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

[6] Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

[7] Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

[8] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.

[9] Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 5, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

[10] https://www.tapchicongsan.org.vn

[11]https://lyluanchinhtrivatruyenthong.vn

Đọc thêm

Việt Nam tích cực, chủ động hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng góp phần bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa trong tình hình mới

Tác giả: NGUYỄN ĐỨC HẠNH

(GDLL) - Hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng là một xu thế tất yếu, hàm chứa cả cơ hội và thách thức đối với các quốc gia trên con đường phát triển. Trong những năm qua, Việt Nam luôn tích cực, chủ động hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng góp phần quan trọng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa từ sớm, từ xa. Trên cơ sở khái quát bối cảnh tình hình tác động và những kết quả nổi bật trong tích cực, chủ động hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng những năm qua bài viết đề xuất một số giải pháp nhằm thực hiện có hiệu quả việc tích cực, chủ động hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng của Việt Nam trong tình hình mới.

Bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc trong đường lối đối ngoại thời kỳ đổi mới của Việt Nam

Tác giả: NGUYỄN ANH CƯỜNG - HOÀNG ANH TÚ - TRIỆU THANH CHÚC

(GDLL) - Trên cơ sở nghiên cứu lý luận về lợi ích quốc gia - dân tộc, bài viết phân tích sự kiên định về lợi ích quốc gia - dân tộc trong đường lối đối ngoại thời kỳ đổi mới của Việt Nam và khẳng định việc bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc trong chính sách đối ngoại của Việt Nam là hoàn toàn đúng đắn.

Phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số ở Việt Nam hiện nay: Thực trạng và khuyến nghị

Tác giả: PHẠM TÚ TÀI - CHU THỊ LÊ ANH

(GDLL) - Phát triển mạnh khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số được Đảng xác định là động lực chính của tăng trưởng kinh tế trong giai đoạn hiện nay. Bài viết phân tích cơ sở lý luận và thực tiễn về tăng trưởng kinh tế dựa vào khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số làm cơ sở khẳng định đây là động lực mới, quan trọng cho tăng trưởng kinh tế và phát triển bền vững. Đồng thời, bài viết cũng tập trung đánh giá thực trạng, đề xuất một số kiến nghị, giải pháp thúc đẩy phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số ở Việt Nam trong thời gian tới.

Quan điểm chỉ đạo của Đảng về xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong Nghị quyết 27-NQ/TW

Tác giả: TRẦN THỊ THANH MAI

(GDLL) - Sự ra đời của Nghị quyết số 27- NQ/TW Hội nghị Trung ương 6 khóa XIII ngày 09/11/2022 Về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Bài viết tập trung làm rõ một số quan điểm chỉ đạo của Đảng về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, qua đó thấy được giá trị lý luận và thực tiễn của Nghị quyết.

Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về bảo vệ an ninh quốc gia trong thời kỳ mới

Tác giả: NGUYỄN VĂN NGHĨA

(GDLL) - An ninh quốc gia và bảo vệ an ninh quốc gia là vấn đề hệ trọng của mỗi quốc gia, dân tộc. Hiện nay, Việt Nam đang phải đối diện với nhiều thách thức trong lĩnh vực an ninh quốc gia, trong đó có cả những vấn đề an ninh truyền thống và an ninh phi truyền thống. Công tác bảo vệ an ninh quốc gia là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên, được Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm lãnh đạo, nhất là trong thời kỳ đổi mới hiện nay. Bài viết khái quát quan điểm của Đảng về bảo vệ an ninh quốc gia, thực tiễn về bảo vệ an ninh quốc gia và đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm thực hiện tốt nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia trong thời kỳ mới.