Đại sứ Đặng Hoàng Giang, Trưởng Phái đoàn thường trực
Việt Nam tại Liên hợp quốc tham dự buổi Lễ công bố Báo cáo Phát triển con người
năm 2023-2024 của Chương trình Phát triển Liên hợp quốc (UNDP) (báo cáo đã ghi
nhậnViệt Nam thăng hạng vượt bậc về Chỉ số phát triển con người) (Ảnh: Quang
Huy, nguồn: vnanet.vn)
Đặt vấn đề
Trong học thuyết về con người của chủ nghĩa Mác
- Lênin, con người không những là chủ thể của các hoạt động sản xuất vật chất,
đóng vai trò yếu tố cơ bản nhất của lực lượng sản xuất xã hội, mà hơn thế, còn
là chủ thể sáng tạo nên lịch sử của xã hội, của con người. Chủ tịch Hồ Chí
Minh cũng quan niệm: “Vô luận việc gì, đều do người làm ra, và từ nhỏ đến to,
từ gần đến xa, đều thế cả” [9,
tr.281]. Kế thừa quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh về con người, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn đặt việc phát triển con
người, chăm lo cho hạnh phúc của mỗi gia đình, mỗi người lên hàng đầu.Trong thời đại ngày nay, việc phát triển
con người toàn diện còn là tạo tiền đề để xây dựng đất nước ngày càng phồn
vinh, hạnh phúc.
1. Quan điểm của Đảng Cộng sản
Việt Nam về phát triển con người
Trong thời kỳ đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam
nhận thức sâu sắc vai trò đặc biệt quan trọng của nhân tố con người với tư cách
là động lực của sự phát triển xã hội, của sự nghiệp xây dựng xã hội xã hội
chủ nghĩa. Kế thừa quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh về vai trò của con người trong tiến trình xây dựng xã hội mới, Đảng đã
khẳng định rằng: Nguồn lực quý báu nhất, có vai trò quyết định nhất là con
người Việt Nam; nhân tố con người chính là nguồn sức mạnh nội sinh của dân tộc
Việt Nam.
Đại hội VI của Đảng đã chú trọng đến quyền làm
chủ của nhân dân lao động “thực chất là tôn trọng con người, phát huy sức sáng
tạo của mọi tầng lớp nhân dân, hướng sự sáng tạo đó vào sự nghiệp xây dựng xã
hội mới”[1, tr.9].
Theo đó, mọi chủ trương, chính sách của Đảng đều chú trọng đến việc chăm lo bồi
dưỡng phát huy nhân tố con người.
Tiếp đó, vấn đề con người cũng được đề cập trong Cương lĩnh
xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, thông
qua tại Đại hội VII (năm 1991). Trong Cương lĩnh, Đảng khẳng định xã hội chủ
nghĩa là một xã hội con người được giải phóng, nhân dân làm chủ, có nền kinh tế
phát triển cao và nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, mọi người có
cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện để phát triển cá nhân, công
bằng xã hội và dân chủ được đảm bảo. Vì vậy, phương hướng, mục tiêu lớn của
chính sách xã hội được đề cập trong Cương lĩnh là: “Phát huy nhân tố con người
trên cơ sở đảm bảo công bằng, bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ công dân; kết
hợp tốt tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội; giữa đời sống vật chất và đời
sống tinh thần; giữa đáp ứng các nhu cầu trước mắt với chăm lo lợi ích lâu dài;
giữa cá nhân với tập thể và cộng đồng xã hội”[2, tr.12-13]. Và cũng tại Đại hội VII,
Đảng đã một lần nữa khẳng định: “Con người là vốn quý nhất, chăm lo hạnh phúc
con người là mục tiêu phấn đấu cao nhất của chế độ ta... Chúng ta cần tìm hiểu
sâu sắc những giá trị lớn lao và ý nghĩa quyết định của nhân tố con người, chủ
thể của mọi sáng tạo, mọi nguồn gốc của cải vật chất và văn hóa, mọi nền văn
minh của các quốc gia, phải xuất phát từ tinh thần nhân văn sâu sắc nhằm phát
triển con người toàn diện, xây dựng một xã hội công bằng, nhân ái, thiết lập
quan hệ thật sự tốt đẹp và tiến bộ giữa con người với con người trong sản xuất
và trong đời sống”[3, tr.5].
Đến Đại hội VIII, Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn đặt việc phát triển con
người lên hàng đầu, tư tưởng chủ đạo của chiến lược con người trong giai đoạn
này được Đại hội chỉ rõ: “Chính sách xã hội đúng đắn vì hạnh phúc con người là
động lực to lớn phát huy mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp
xây dựng CNXH”[4, tr.28].
Đến Đại hội IX, Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục nhất quán tư tưởng phát triển
con người: “Xã hội ta là xã hội vì con người và con người luôn giữ vị trí trung
tâm của sự phát triển kinh tế, xã hội”. Đảng cũng chỉ rõ: “Phát triển giáo dục
và đào tạo là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, là điều kiện để phát huy nguồn lực con
người, yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền
vững”[5, tr.108-109].
Tiếp thu quan điểm của các kỳ đại hội trước, Đại
hội X của Đảng tiếp tục làm rõ: Chiến lược con người phải nằm ở vị trí trung
tâm của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội trong thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa. Mọi chủ trương, chính sách nhằm phát huy nhân tố con
người đều xuất phát từ quan điểm cho rằng nhân dân là người sáng tạo ra lịch
sử, là chủ nhân thực sự của xã hội, là chủ thể của mọi hoạt động kinh tế, văn
hóa, xã hội và mục tiêu của toàn bộ sự nghiệp cách mạng là phục vụ nhân dân. Có
thể nói, Đại hội đã thể hiện tư duy đổi mới, khoa học của Đảng trong điều kiện
lịch sử mới của đất nước, phù hợp với quy luật vận động, phát triển khách quan
của xã hội, nguyện vọng chân chính của nhân dân cũng như bản chất nhân văn,
tính ưu việt của chế độ xã hội mà Việt Nam phấn đấu xây dựng.
Tại Đại hội XI, Đảng xác định để hoàn thành mục tiêu tổng quát cần “Phát
triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao”; đồng thời,
Đại hội cũng đưa ra quan điểm phát huy nhân tố con người trên cơ sở “Mở rộng
dân chủ, phát huy tối đa nhân tố con người, coi con người là chủ thể, nguồn lực
chủ yếu và là mục tiêu của sự phát triển”[6, tr.100]. Có thể thấy, đây là sự kế
thừa, tiếp nối tư tưởng của Đảng coi con người là chủ thể, là nguồn lực quan
trọng nhất quyết định sự phát triển xã hội và là sự nghiệp của cách mạng Việt
Nam. Mọi quá trình phát triển kinh tế - xã hội phải hướng tới mục tiêu cao cả
là vì con người.
Có thể thấy rằng, trong suốt quá trình lãnh đạo, đặc biệt là từ khi Đổi
mới, vấn đề con người luôn được Đảng chú trọng và tập trung phát triển; Đại hội
XII, vấn đề “phát triển con người toàn diện” được Đảng xác định là một trong
những nhiệm vụ tổng quát phát triển đất nước 5 năm 2016-2020: “Xây dựng con
người Việt Nam phát triển toàn diện đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất
nước và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa”[7, tr.78]. Đây là bước tiến trong nhận
thức của Đảng sau 30 năm đổi mới, phù hợp với yêu cầu, đòi hỏi của thực tiễn
đặt ra, điều đó cho thấy việc Đảng ngày càng nhấn mạnh vai trò đặc biệt quan
trọng của việc xây dựng và phát triển con người toàn diện, đáp ứng yêu cầu của
sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước thời kỳ hội nhập. Đại hội cũng nêu
rõ: “Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện phải trở thành một mục
tiêu của chiến lược phát triển”[7,
tr.126].
Tại Đại hội lần thứ XIII, Đảng Cộng sản Việt Nam
đã xác định: “Phát triển con người toàn diện và xây dựng nền văn hóa Việt Nam
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc để văn hóa, con người Việt Nam thực sự trở
thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc”[8, tr.115-116], cùng
với đó phải: “Xây dựng, phát triển, tạo môi trường và điều kiện xã hội thuận
lợi nhất để khơi dậy… tài năng, trí tuệ, phẩm chất của con người Việt Nam là
trung tâm, mục tiêu và động lực phát triển quan trọng nhất của đất nước”[8, tr.116].
Như vậy, trong công cuộc Đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn chú trọng
về xây dựng và phát triển con người, trải qua mỗi kỳ Đại hội luôn có sự bổ
sung, phát triển lý luận với tư duy mới, nội dung mới, cụ thể hơn về con người
Việt Nam trong tình hình mới, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn.
2. Thực tiễn việc phát triển
con người Việt Nam thời kỳ Đổi mới
Đảng Cộng sản Việt Nam coi con người vừa là mục
tiêu, vừa là động lực của sự phát triển và tiến bộ xã hội. Mục tiêu về tiến bộ
xã hội mà Đảng đề ra là xây dựng một xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, dân
giàu, nước mạnh - một xã hội mà ở đó con người được giải phóng khỏi mọi sự áp
bức bóc lột, được tự do và phát triển mọi khả năng sẵn có của mình - một xã hội
mà các giá trị đạo đức và văn hoá truyền thống được mọi người trân trọng, giữ
gìn, bồi đắp, khai thác và phát huy; nhờ đó, việc phát triển con người trong
những năm qua đã đạt được một số kết quả sau:
2.1. Thành tựu
Thứ nhất, về chỉ số phát triển con người.
Chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam ngày càng tiến bộ. Điểm
số HDI tăng từ 0,48 năm 1990 lên 0,71 năm 2020, Việt Nam được chuyển từ nhóm
trung bình lên nhóm “các quốc gia phát triển con người cao”, đứng ở vị trí
117/189 quốc gia; Việt Nam cũng xếp thứ hạng cao về chỉ số vốn nhân lực (HCI),
chỉ đứng sau Singapore trong khu vực Đông Nam Á[10].
Một thành tựu nổi bật trong phát triển con người
ở Việt Nam là sự tăng nhanh của tuổi thọ và thu nhập bình quân đầu người. Năm
1990, tuổi thọ trung bình của người Việt Nam là 64,8 tuổi; năm 2003 là 68,6
tuổi; năm 2006 là 70,8 tuổi và đạt 75,4 tuổi vào năm 2019. Tính riêng năm 2019,
tuổi thọ trung bình của người Việt Nam đứng thứ 77 thế giới; thứ tư trong ASEAN,
chỉ xếp sau Singapore, Malaysia và Thái Lan[11]. Từ xuất phát điểm thấp, khủng hoảng
kinh tế - xã hội trầm trọng, người dân nhiều nơi thiếu ăn, thiếu mặc, hơn 2/3
hộ dân là hộ nghèo, là một trong những quốc gia nghèo nhất trên thế giới với
thu nhập bình quân đầu người khoảng 100 USD những năm 90, đến năm 2020, thu
nhập bình quân đầu người đạt gần 3.700 USD, gấp 37 lần trong vòng hơn ba thập
niên. Đời sống của nhân dân trên khắp các vùng, miền, mọi thành phần, dân tộc
đều được nâng lên là tiền đề và điều kiện cơ bản để bảo đảm an sinh xã hội, an
ninh con người và phát triển con người[10].
Thứ hai, về trình độ học vấn và dân trí.
Từ năm 2013 trở về trước, chỉ số học vấn của
Việt Nam luôn ở mức thấp. Cụ thể, năm 2013, số năm đi học bình quân của người
Việt Nam là 5,5 năm; số năm đi học bình quân kỳ vọng là 11,9 năm. Tuy nhiên,
trong mấy năm gần đây, chỉ số học vấn của Việt Nam có sự tăng đột biến. Số năm
đi học bình quân của người Việt Nam năm 2014 là 7,5 năm; năm 2015 là 8,0 năm và
đạt 8,3 năm vào năm 2019. Tương tự, số năm đi học bình quân kỳ vọng cũng tăng
lên và đạt 12,7 năm vào năm 2019, phổ cập giáo dục trung học cơ sở, hệ thống
giáo dục các cấp phát triển [11].
Thứ ba, về an sinh xã hội.
Chính sách xoá đói giảm nghèo tiếp tục được thực hiện có hiệu quả, “tỷ
lệ hộ nghèo theo chuẩn nghèo đa chiều của cả nước đã giảm từ 9,88 cuối năm 2015
xuống dưới 3% vào năm 2020, bình quân giai đoạn 2016 - 2020 giảm trên 1,4%” [8, tr.43]. Công tác
y tế, bảo hiểm xã hội đã có sự cải thiện, diện bao phủ bảo hiểm xã hội ngày
càng mở rộng, tỷ lệ lực lượng lao động trong độ tuổi tham gia bảo hiểm xã hội
tăng đều hằng năm, đạt 36% năm 2021[10].
2.2. Hạn chế
Một là, tốc độ tăng của HDI giảm dần.
Giai đoạn
1990 - 2000 tốc độ tăng HDI của Việt Nam là 1,99%, giai đoạn 2001- 2010 còn
1,23% và chỉ đạt 0,85% giai đoạn 2011 - 2019. Thực trạng này đã làm cho HDI của
Việt Nam tụt lại so với mức trung bình của khu vực Châu Á - Thái Bình Dương[11].
Hai là, chỉ số HDI của Việt Nam chưa có sự đồng đều về giá
trị tuyệt đối và tốc độ tăng.
Mặc dù
giá trị tuyệt đối của HDI đã tăng lên theo thời gian nhưng do tốc độ tăng HDI
chậm và chưa có sự cải thiện rõ ràng, đồng đều. Điểm số HDI tăng từ 0,48 năm
1990 lên 0,71 năm 2020[10] nhưng tốc độ tăng HDI của Việt Nam lại giảm từ 1,99% giai đoạn 1990-2000
xuống còn 0,85% giai đoạn 2011 - 2019[11]. Thu nhập bình quân đầu người cũng vậy và điều đó đã tác động đến giá
trị tuyệt đối của HDI và cũng ảnh hưởng đến các chỉ số giáo dục, tuổi thọ.
Ba là, chỉ số học vấn còn thua kém nhiều quốc gia trong khu
vực.
Tuy chỉ số giáo dục đã tăng nhanh trong vài năm gần đây, song vẫn thấp
hơn nhiều quốc gia trong ASEAN như Singapore, Malaysia, Philippines... và chỉ
cao hơn Lào, Camphuchia và Myanmar. Theo nhận định của UNDP, chính sự tụt hậu
về giáo dục đã làm cho HDI của Việt Nam chững lại và có xu hướng tụt hậu so với
các quốc gia trong khu vực Châu Á - Thái Bình Dương[11]. Giáo dục Việt Nam trong những năm qua đã có nhiều cải cách nhưng việc
"Đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao chưa đáp ứng được yêu cầu phát
triển kinh tế, xã hội"[8;
tr.82-83].
Bốn là, một số vấn đề về an sinh xã hội còn bất cập.
Rất nhiều hoàn cảnh ở vùng sâu vùng xa, miền núi chưa tiếp cận được với
các chính sách an sinh xã hội cũng như các cơ hội phát triển. Chính sách đào
tạo nghề cho lao động nông thôn; chính sách hỗ trợ tạo việc làm từ Quỹ quốc gia
về việc làm và các nguồn tín dụng khác; chính sách hỗ trợ phát triển tổ chức
dịch vụ việc làm; các chính sách bảo hiểm xã hội tự nguyện; các chính sách về
an toàn, vệ sinh lao động... đời sống còn gặp nhiều khó khăn, giá thuê nhà và
sinh hoạt phí đắt đỏ kéo dài chưa thể tập trung phát triển con người toàn diện.
3. Giải pháp phát triển con
người toàn diện trong tình hình mới
Thứ nhất, hoàn thiện cơ chế, chính sách xây dựng con người Việt
Nam phát triển toàn diện phù hợp với điều kiện hiện nay.
Trong giai đoạn mới, để tiếp tục hoàn thiện cơ
chế, chính sách để phát triển con người Việt Nam toàn diện cần có sự đánh giá
khách quan các nhân tố, trong đó có cả nhân tố tích cực và tiêu cực; cần nhanh
chóng loại bỏ những chính sách không còn phù hợp, điều chỉnh kịp thời để bắt
kịp xu thế. Điều này đòi
hỏi sự tham gia tích cực, chủ động của toàn hệ thống chính trị trong thực hiện
xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện.
Thứ hai, phát huy tinh thần tự giáo dục, rèn luyện của mỗi
người Việt Nam.
Việc phát
triển con người không chỉ là nhiệm vụ của Đảng, Nhà nước và các cơ quan chính
trị - xã hội mà là trách nhiệm của toàn thể nhân dân. Mỗi người dân cần có nhận
thức đầy đủ, đúng đắn để tiếp thu tốt chính sách của Đảng và Nhà nước, kết hợp
với những giá trị truyền thống của dân tộc, phát huy những giá trị chuẩn mực,
hướng con người vươn tới chân - thiện - mỹ.Chỉ
khi nào con người tích cực, tự giác giáo dục, rèn luyện theo chuẩn giá trị thì
mới có thể biến giá trị xã hội thành giá trị của cá nhân; từ đó lan tỏa trở
thành giá trị của cộng đồng và giá trị chung của dân tộc để xây dựng con người
Việt Nam phát triển toàn diện, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa và
phát triển nhanh, bền vững đất nước.
Thứ ba, chú trọng vấn đề an ninh con người.
Trong
giai đoạn mới cần tích cực đấu tranh phê phán, đẩy lùi cái xấu, cái ác, thấp
hèn, lạc hậu; chống các quan điểm, hành vi sai trái, tiêu cực ảnh hưởng xấu đến
xây dựng nền văn hóa, làm tha hóa con người. Có giải pháp ngăn chặn và đẩy lùi
sự xuống cấp về đạo đức xã hội, khắc phục những mặt hạn chế của con người Việt
Nam. Đồng thời, phải quan tâm xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, phù hợp
với bối cảnh phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội
nhập quốc tế.
Thứ tư, nâng cao thể lực, sức khỏe, tuổi thọ cho con người.
Xây dựng
phát triển con người là điều kiện tiên quyết để xây dựng thành công chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam. Bởi “muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội thì trước hết phải có
những con người xã hội chủ nghĩa” như Chủ tịch Hồ Chí Minh từng căn dặn. Vì
thế, việc xây dựng, hình thành nên những người Việt Nam có phẩm chất, năng lực,
“vừa hồng vừa chuyên” là nhiệm vụ trọng tâm trong các chương trình, kế hoạch
của các cấp, các ngành.
Kết luận
Lịch sử luôn vận động và phát triển không ngừng, việc phát triển con
người toàn diện lên một tầm cao mới là yêu cầu bắt buộc của thời đại. Trong đó,
cần chú trọng giáo dục đạo đức, nhân cách, năng lực sáng tạo và các giá trị cốt
lõi, nhất là giáo dục tinh thần yêu nước, tự hào, tự tôn dân tộc, truyền thống
và lịch sử dân tộc, ý thức trách nhiệm xã hội; giữ gìn và phát huy bản sắc văn
hóa dân tộc. Nhận thức được điều đó, qua mỗi giai đoạn, Đảng Cộng sản Việt Nam
lại có những chủ trương, chính sách phù hợp, mục tiêu hướng con người tới chân
- thiện - mỹ và đưa con người trở thành động lực nội sinh để phát triển đất
nước.
Tài liệu tham khảo:
[1] Đảng
Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb. Sự thật, Hà Nội.
[2] Đảng
Cộng sản Việt Nam (1991), Cương lĩnh xây dựng
đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb. Sự thật, Hà
Nội.
[3] Đảng
Cộng sản Việt Nam (1993), Văn kiện Hội nghị
Trung ương 4 khoá VII, Nxb. Sự thật, Hà Nội.
[4] Đảng
Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb. Sự thật, Hà Nội.
[5] Đảng
Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
[6] Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI,
Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
[7] Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
[8] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn
kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, Nxb. Chính trị
quốc gia Sự thật, Hà Nội.
[9] Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 5, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
[10]
https://www.tapchicongsan.org.vn
[11]https://lyluanchinhtrivatruyenthong.vn