Thứ Hai, ngày 01/07/2024, 04:38

Nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách an sinh xã hội ở Việt Nam hiện nay

Lã Minh Tuyến
Học viện Chính trị khu vực I.

(GDLL) - Bảo đảm an sinh xã hội trở thành vấn đề trung tâm trong chiến lược phát triển đất nước. Sau gần 40 năm đổi mới, Việt Nam đã cơ bản xây dựng được một hệ thống an sinh xã hội đồng bộ, tuy nhiên vẫn còn bộc lộ nhiều tồn tại, bất cập. Bài viết tập trung làm rõ thực trạng và một số vấn đề đặt ra đối với chính sách an sinh xã hội ở Việt Nam. Từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm đẩy mạnh thực hiện hiệu quả chính sách an sinh xã hội ở Việt Nam hiện nay.

Việt Nam đề cao tăng cường hệ thống an sinh xã hội tại Hội nghị Lao động quốc tế (nguồn: vnanet.vn)

Đặt vấn đề

An sinh xã hội (ASXH) giữ vai trò đặc biệt quan trọngđối với việc ổn định chính trị - xã hội, xây dựng và phát triển nguồn lực con người, góp phần thể hiện tính nhân văn và chủ nghĩa xã hội cao đẹp, tạo động lực phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế. Trong giai đoạn hiện nay, Đảng, Nhà nước Việt Nam luôn quan tâm và tổ chức thực hiện tốt các chính sách ASXH. Song, nhìn chung hệ thống ASXH còn một số hạn chế và chưa đáp ứng yêu cầu nguyện vọng của nhân dân. Để giải quyết những vấn đề đó, rất cần nghiên cứu thực trạng thực hiện chính sách ASXH, từ đó đưa ra những giải pháp thực hiện chính sách ASXH ở Việt Nam, “phấn đấu giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa"[3, tr. 111-112].

1. Vai trò của chính sách an sinh xã hội ở Việt Nam

An sinh xã hội là hệ thống chính sách, chương trình của Nhà nước và của các tổ chức xã hội nhằm trợ giúp, giúp đỡ toàn xã hội, cá nhân gặp phải rủi ro hoặc biến cố xã hội để đảm bảo mức sống tối thiểu và nâng cao đời sống của họ.

Từ nhiều năm qua, đặc biệt là từ khi thực hiện đường lối đổi mới đến nay, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm xây dựng và tổ chức thực hiện các chính sách ASXH, coi đây vừa là mục tiêu, vừa là động lực để ổn định chính trị - xã hội, phát triển bền vững. Bảo đảm ASXH là điều kiện để bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa cho sự phát triển của nền kinh tế thị trường, phản ánh bản chất tốt đẹp của chế độ ta. Hiến pháp năm 2013 (sửa đổi và bổ sung) lần đầu tiên khẳng định quyền ASXH là quyền cơ bản của con người. Cụ thể, trong Nghị quyết số 15 - NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương khóa XI ngày 01/6/2012 Về một số vấn đề về chính sách xã hội giai đoạn 2012 - 2020 đã đề ra quan điểm bảo đảm ASXH với cấu trúc gồm: 1 - Việc làm, thu nhập và giảm nghèo; 2 - Bảo hiểm xã hội; 3 - Trợ giúp xã hội cho những người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn; 4 - Bảo đảm mức tối thiểu về một số dịch vụ xã hội cơ bản (giáo dục, y tế, nhà ở, nước sạch, bảo đảm thông tin). Quan điểm này đã trở thành nền tảng và định hướng cho việc thể chế hóa cơ chế, chính sách, pháp luật về ASXH gắn liền với yêu cầu thực tiễn của đất nước.

Để thực hiện tốt chính sách ASXH, Đại hội XIII Đảng đã đưa ra quan điểm: “Hoàn thiện đồng bộ và thực hiện có hiệu quả chính sách xã hội, chính sách dân tộc, tôn giáo; phát triển thị trường lao động; bảo đảm cơ bản ASXH, nâng cao phúc lợi xã hội cho người dân; thực hiện ngày càng tốt hơn chính sách đối với người có công; tiếp tục cải thiện chính sách tiền lương, mở rộng bảo hiểm xã hội...”[4, tr.65].

Như vậy, quan điểm của Đảng về ASXH ngày càng được bổ sung, hoàn thiện hơn, có tác động tích cực đến đời sống xã hội của người dân, góp phần quan trọng ổn định chính trị - xã hội của đất nước, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.

Từ quan điểm chỉ đạo của Đảng để thấy rõ vai trò của ASXH ngày càng được mở rộng ở nhiều góc độ, lĩnh vực khác nhau như:

Thứ nhất, đối với việc ổn định chính trị - xã hội.Việc thực hiện hiệu quả chính sách ASXH góp phần làm cho đời sống nhân dân được ổn định, nâng cao. Điều này góp phần khẳng định đường lối chính trị của Đảng và Nhà nước là đúng đắn, sáng tạo. Niềm tin của quần chúng nhân dân vào đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ngày càng nâng cao, quần chúng nhân dân ngày càng tin và ủng hộ sự nghiệp Đổi mới toàn diện đất nước do Đảng khởi xướng và lãnh đạo. ASXH được đảm bảo và triển khai tích cực trong cả nước, khiến cho các tệ nạn xã hội giảm dần, nhận thức của người dân được nâng lên và tiến bộ hơn.

Thứ hai, đối với việc xây dựng và phát triển nguồn lực con người. Khi các dịch vụ y tế, giáo dục và mọi vấn đề về phúc lợi, an sinh được đảm bảo thì đây là điều kiện quan trọng để nguồn nhân lực phát triển nhanh cả về số lượng và chất lượng.

Thứ ba, góp phần thể hiện tính nhân văn và chủ nghĩa xã hội cao đẹp.Chính sách ASXH tạo điều kiện, cơ hội cho người kém may mắn, những người bất hạnh trong xã hội để họ vượt qua khó khăn trong cuộc sống, từ đó có hành vi phù hợp với khuôn mẫu, giá trị, chuẩn mực của xã hội. Đồng thời giúp mọi người hướng tới một xã hội công bằng, góp phần tạo nên cuộc sống công bằng, văn minh.

Thứ tư, tạo động lực phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế.Trước sự thay đổi như vũ bão của tất cả các mặt trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội, vấn đề hội nhập kinh tế quốc tế diễn ra một cách mau lẹ, nhanh chóng là đòi hỏi bức thiết của tất cả các quốc gia trên thế giới. Việc đảm bảo ASXH là yếu tố quan trọng để Việt Nam có cơ hội vươn ra hội nhập với kinh tế quốc tế, sánh vai cũng với các cường quốc trên thế giới và cùng thực hiện các mục tiêu chung của nhân loại.

2. Thực trạng thực hiện chính sách an sinh xã hội ở Việt Nam

2.1. Một số kết quả đạt được

Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, trong những năm vừa qua, công tác bảo đảm ASXH ở nước ta đã đạt được nhiều kết quả quan trọng với diện bao phủ không ngừng được mở rộng. Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân dần được cải thiện. Mô hình ASXH của Việt Nam đã thể hiện được bản chất tốt đẹp của chế độ, đem lại những thành quả đáng khích lệ, được thế giới công nhận, như thành tích trong hỗ trợ tạo việc làm và giảm nghèo, giáo dục, y tế, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, trợ cấp xã hội, người có công...

Trong báo cáo Phát triển con người (HDR) toàn cầu 2021/2022 được Chương trình Phát triển Liên hợp quốc (UNDP) tại Việt Nam công bố ngày 9-9-2022, chỉ số HDI của Việt Nam là 0,703 vào năm 2021, tăng hai bậc trong bảng xếp hạng toàn cầu, lên vị trí 115/191 quốc gia[3]. Từ một xuất phát điểm thấp, khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng, người dân nhiều nơi thiếu ăn, thiếu mặc đến nay đời sống nhân dân trên khắp các vùng, miền, mọi thành phần, dân tộc đều được nâng lên là thực tiễn minh chứng về định hướng XHCN với mục tiêu vì con người trong thực hiện chính sách xã hội đã mang lại những thay đổi vượt bậc cho Việt Nam, chỉ số phát triển con người (HDI) Việt Nam ngày càng tiến bộ.

Năm 2011, Việt Nam chính thức bước vào nhóm các quốc gia có mức thu nhập trung bình. Hàng năm, tỷ lệ hộ nghèo của cả nước giảm khoảng 1%-1,5%/năm; đến năm 2021 giảm còn 2,23%. Thu nhập bình quân hộ nghèo ngày càng tăng lên: năm 2020 gấp 2,3 lần năm 2015, gấp 3,5 lần năm 2010[2]. Thành tựu ấn tượng trên đây được cộng đồng quốc tế đánh giá cao là điểm sáng về giảm nghèo có được do chính sách giảm nghèo được đẩy mạnh thực hiện trong suốt thời kỳ Đổi mới với các Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2016 - 2020...

Năm 2020, đã giải quyết cơ bản hồ sơ đề nghị công nhận người có công còn tồn đọng. Cuối năm 2021, cả nước có trên 9,2 triệu người có công; trong đó, trên 1,2 triệu người có công được hưởng trợ cấp thường xuyên, 98,6% gia đình người có công có mức sống bằng hoặc cao hơn mức sống trung bình của dân cư trên địa bàn[2]. Đạt được kết quả trên đây cho thấy, chính sách người có công với cách mạng đã được Đảng, Nhà nước đặc biệt quan tâm và được thực hiện phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội đã trở thành phong trào “đền ơn đáp nghĩa” sâu rộng, xuyên suốt từ Trung ương đến địa phương, tích cực chăm lo đời sống gia đình người có công và công tác thương binh, liệt sĩ.

Thị trường lao động từng bước được hoàn thiện về thể chế, tạo cơ sở giải quyết việc làm cho người lao động, giảm thất nghiệp. Kết quả tạo việc làm đạt thành công nổi bật trong nhiều năm qua, hàng năm cả nước có từ 1,5-1,6 triệu người được giải quyết việc làm; riêng 2 năm 2020-2021, do ảnh hưởng của đại dịch Covid-19, con số này giảm xuống còn khoảng 1,3 triệu người/năm. Tỷ lệ thất nghiệp chung duy trì ổn định ở mức dưới 3%, cơ cấu lao động chuyển dịch tích cực, tỷ lệ lao động khu vực nông, lâm, ngư nghiệp giảm từ 45% năm 2015 xuống còn 32% năm 2020, tỷ lệ thất nghiệp thành thị dưới 4%. Chính sách tiền lương tối thiểu được điều chỉnh hàng năm đã cơ bản bảo đảm mức sống tối thiểu, góp phần bảo vệ thu nhập cho người lao động. Tiền lương và thu nhập bình quân của người lao động đã tăng 3 lần trong 10 năm qua, thu nhập bình quân của người lao động năm 2020 là 4,2 triệu đồng/tháng[2].

Chính sách bảo hiểm xã hội và bảo hiểm thất nghiệp ngày càng hoàn thiện, đa chiều, công bằng và rộng mở hơn. Đối tượng tham gia các hình thức bảo hiểm xã hội ngày càng được mở rộng và tăng lên, đạt 16,2 triệu người năm 2020 và 16,6 triệu người năm 2021. Trong đó, số người tham gia bảo hiểm tự nguyện đạt gần 1,5 triệu người. Hiện nay, số người được hưởng chế độ hưu trí và trợ cấp bảo hiểm xã hội hàng tháng có tới 3,3 triệu người[2].

Cùng với đó, Việt Nam đã hoàn thành trước thời hạn phổ cập giáo dục từ mầm non đến trung học cơ sở. Tỷ lệ người từ 15 tuổi trở lên biết chữ đạt 97,85%. Tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 70,25%; Hệ thống y tế cơ sở được hoàn thiện về kết cấu hạ tầng và nhân lực, y tế dự phòng được tăng cường. Tỷ lệ trẻ em được tiêm chủng đạt trên 90%; Điều kiện nhà ở cho người nghèo, người có thu nhập thấp ở đô thị, nhà ở cho người lao động tại các khu công nghiệp và học sinh, sinh viên từng bước được cải thiện; Chính phủ đã tập trung nguồn lực phát triển mạng lưới cấp nước sạch nông thôn, nhất là tại các địa bàn vùng sâu, vùng xa, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn. Trong giai đoạn 2012-2021, tỷ lệ dân số nông thôn được sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh tăng từ 80,3% lên 90%; Hệ thống thông tin truyền thông cơ sở được ưu tiên đầu tư, bảo đảm thông tin về chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước đến người dân[2].

1.2. Một số tồn tại, hạn chế và nguyên nhân

- Nguồn lực thực hiện ASXH còn nhiều khó khăn, đặc biệt là vùng sâu, vùng xa. Nguồn lực thực hiện chủ yếu được cấp từ ngân sách Nhà nước, các nguồn kinh phí từ tổ chức, đoàn thể, cá nhân, doanh nghiệp chỉ chiếm một phần nhỏ.

- Công tác tuyên truyền, phổ biến về nội dung và yêu cầu của chính sách ASXH chưa đầy dủ, kịp thời và rõ ràng đối với những đối tượng liên quan. Các văn bản hướng dẫn thực thi nhiều khi chưa rõ ràng, công khai.

- Chất lượng dịch vụ còn thấp, nguyên tắc của hệ thống ASXH như mọi người dân có quyền an sinh, tạo sự đoàn kết gắn bó, tương trợ giữa các cá nhân, nhóm xã hội, gắn trách nhiệm và quyền lợi… chưa nhận thức một cách đầy đủ.

Những tồn tại, hạn chế này là dotình hình thế giới, khu vực diễn biến nhanh, phức tạp, khó lường; Tình hình trong nước, khó khăn thách thức nhiều hơn thời cơ, thuận lợi vì là quốc gia đang phát triển, nền kinh tế đang trong quá trình chuyển đổi, xuất phát điểm thấp, quy mô còn khiêm tốn, độ mở lớn, sức chống chịu với các cú sốc từ bên ngoài và khả năng cạnh tranh còn hạn chế; Nhận thức của một số cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, cán bộ, đảng viên về vị trí, vai trò của chính sách ASXH chưa đầy đủ, toàn diện, chưa quan tâm đúng mức công tác lãnh đạo, chỉ đạo triển khai thực hiện; Hệ thống chính sách, pháp luật về chính sách ASXH chưa hoàn thiện, đồng bộ; Công tác quản lý nhà nước còn bất cập, phương thức quản lý chậm đổi mới...

3. Giải pháp thực hiện hiệu quả chính sách an sinh xã hội ở Việt Nam hiện nay

Thứ nhất, bảo đảm ASXH là nhiệm vụ thường xuyên, quan trọng, là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước, của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội.

Đảng, Nhà nước, cấp ủy đảng và chính quyền các cấp cần phát huy tính chủ động, sáng tạo trong việc xây dựng chương trình kế hoạch thực thi chính sách ASXH theo hướng toàn diện, hiện đại, bao trùm, bền vững. Tiếp tục rà soát, đánh giá các chính sách ASXH trên từng lĩnh vực để hoàn thiện, sửa đổi và bổ sung theo hướng tinh gọn, tích hợp chính sách, thu gọn đầu mối quản lý; mở rộng quyền tham gia và thụ hưởng cho người dân đối với chính sách trợ giúp xã hội.

Thứ hai, hoàn thiện hệ thống pháp luật theo hướng tinh gọn, hiệu quả.

Tiếp tục đổi mới hoàn thiện thể chế, luật pháp, chính sách liên quan đến ASXH theo hướng kết hợp chặt chẽ với các chính sách kinh tế, gắn tăng trưởng kinh tế với tiến bộ, công bằng xã hội, bảo đảm ASXH. Xây dựng các văn bản pháp luật bảo đảm khung pháp lý đầy đủ, hiệu lực, khả thi phù hợp với giai đoạn phát triển mới. Ưu tiên hoàn thiện các chính sách đối với người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số ở vùng sâu, vùng xa, đặc biệt khó khăn, hỗ trợ theo nhu cầu và tạo động lực phấn đấu cho đối tượng thụ hưởng. Khắc phục những tồn tại, hạn chế, bất cập trong thủ tục hành chính nhằm tạo cơ sở hành lang pháp lý đầy đủ nhất có thể cho lĩnh vực ASXH.

Thứ ba, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động xã hội, tổ chức, đoàn thể và người dân tham gia tích cực vào chính sách ASXH.

Tăng cường thực hiện công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức của các cấp ủy đảng, chính quyền, các tổ chức chính trị - xã hội, cán bộ và người dân hiểu rõ chủ trương của Đảng và Nhà nước về vai trò và vị trí của ASXH trong chuỗi động lực phát triển đất nước, phát triển kinh tế - xã hội, văn hóa và môi trường, hợp tác quốc tế. ASXH phải trở thành khâu đột phá chiến lược trong mô hình phát triển bền vững của đất nước giai đoạn 2021 - 2026 và những năm tiếp theo. Để thực hiện giải pháp này, công tác giáo dục, đào tạo, các phương tiện truyền thông đại chúng có vai trò đặc biệt quan trọng.

Bên cạnh đó, cần tích cực huy động các nguồn lực cho chính sách xã hội, tăng chi ngân sách nhà nước kết hợp với huy động đóng góp của người dân, doanh nghiệp và xã hội cho ASXH. Khuyến khích, tạo môi trường thuận lợi để phát triển đa dạng các mô hình ASXH, các hoạt động từ thiện, tình nguyện dựa vào sự tham gia của cộng đồng (các đoàn thể địa phương, các nhóm sở thích, nghiệp đoàn, gia đình, dòng họ, cá nhân...) trong việc cung cấp các dịch vụ ASXH, thực hiện các hoạt động nhân đạo, giúp đỡ, chia sẻ rủi ro đối với những nhóm yếu thế, những đối tượng đặc thù.

Thứ tư, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin để hoàn thiện hệ sinh thái an sinh số.

Hoạt động áp dụng công nghệ thông tin hiện đại vào công tác quản lý, giám sát, chi trả, thụ hưởng giữa các cơ quan quản lý nhà nước, xã hội và người thụ hưởng ASXH, nhằm đáp ứng nhu cầu hỗ trợ, đóng góp, thụ hưởng ASXH ngày càng cao, tạo môi trường để mọi thành viên trong xã hội được kết nối, tương tác và cá nhân hóa ASXH, giúp thích ứng linh hoạt, công khai, minh bạch và phát triển nhằm nâng cao hiệu quả quản lý quỹ đảm bảo quyền lợi cho người dân. 

Thứ năm, chú trọng các hoạt động thanh tra, kiểm tra và giám sát.

Trong lĩnh vực ASXH cần công khai, minh bạch những chủ thể có trách nhiệm thực hiện nhiệm vụ được giao, từ đó kịp thời phát hiện, xử lý sai phạm theo quy định của pháp luật; kịp thời điều chỉnh, bổ sung việc thực hiện chính sách trên địa bàn, đảm bảo chính sách phải tới tay người thụ hưởng, không để lãng phí, tiêu cực xảy ra. Hoàn thiện hệ thống theo dõi giám sát cho từng lĩnh vực, thực hiện nghiêm túc các hoạt động báo cáo định kỳ, cập nhật đầy đủ và chính xác các số liệu qua các cấp quản lý; không phê duyệt, cấp kinh phí khi không báo cáo đầy đủ, chính xác, kịp thời.

Kết luận

Trong một xã hội đang chuyển đổi như nước ta hiện nay, ASXH là lĩnh vực rộng lớn, luôn luôn biến động, vừa do Nhà nước nắm giữ, quản lý, điều phối, vừa được thực hiện bằng con đường thiện nguyện, xã hội hóa với cơ chế, chính sách ngày càng thông thoáng. Để hệ thống ASXH của nước ta đồng bộ và hoàn thiện, góp phần đưa đời sống của người dân được ấm no cần đảm bảo sự công bằng, bình đẳng trong đóng góp xây dựng và thụ hưởng ASXH, thể hiện ngay từ việc xây dựng hệ thống cơ chế, chính sách, pháp luật và trong thực tiễn điều hành, quản lý của cán bộ, viên chức các ngành, các cấp, các tổ chức, cá nhân và nhân dân.

Tài liệu tham khảo

[1] Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (2022), Dự thảo Báo cáo đánh giá việc thực hiện Nghị quyết số 15 Trung ương 5 khóa XI.

[2] Các số liệu về kết quả thực hiện chính sách xã hội từ năm 2012 đến năm 2020 được tổng hợp từ các tài liệu: (1) Báo cáo Đề dẫn Hội thảo vùng phía Bắc tổng kết 10 năm thực hiện NQ Trung ương 5 khóa XI “Về một số vấn đề chính sách xã hội giai đoạn 2012-2020”, Hà Nội, ngày 16-9-2022; (2) Kết quả, hạn chế và kinh nghiệm rút ra trong thực hiện chính sách xã hội 10 năm qua của nước ta, Hội thảo khoa học “Những vấn đề lý luận - thực tiễn qua 10 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa XI, về một số vấn đề chính sách xã hội giai đoạn 2012-2020”.

[3] Chỉ số phát triển con người Việt Nam tăng hai bậc (2022), https://www.nhandan.vn.

[4] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, Nxb Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội.

[5] Nghị quyết số 15-NQ/TW, ngày 1/6/2012 của Hội nghị Trung ương 5 khóa XI về Một số vấn đề về chính sách xã hội giai đoạn 2012 - 2020.

Đọc thêm

Hoàn thiện thể chế về kinh tế số ở Việt Nam: Thực trạng và giải pháp

Tác giả: NGUYỄN THỊ THÙY DUNG

(GDLL) - Hoàn thiện thể chế về kinh tế số là một nội dung rất cấp thiết nhằm thúc đẩy chuyển đổi số quốc gia và phát triển kinh tế số ở Việt Nam. Trên cơ sở khái quát khung lý thuyết thể chế về kinh tế số, bài viết phân tích thực trạng nội dung này ở Việt Nam thời gian qua, đồng thời chỉ ra những hạn chế còn tồn tại, từ đó đề xuất giải pháp nhằm hoàn thiện thể chế về kinh tế số ở Việt Nam trong thời gian tới.

Một số giải pháp nâng cao hiệu quả công tác xây dựng cấp xã đạt chuẩn tiếp cận pháp luật ở tỉnh Nam Định

Tác giả: NGUYỄN ĐÌNH QUỲNH - TRẦN HOÀI THU

(GDLL) - Việc xây dựng xã, phường, thị trấn đạt chuẩn tiếp cận pháp luật có tác động trực tiếp đến hoạt động của chính quyền các cấp, nhất là cấp xã, nắm rõ được điều đó, cấp ủy đảng, chính quyền trên địa bàn tỉnh Nam Định quan tâm, chỉ đạo, tổ chức và triển khai hiệu quả. Bài viết trình bày nội dung, thành tựu và hạn chế của việc xây dựng cấp xã đạt chuẩn tiếp cận pháp luật ở tỉnh Nam Định từ đó đưa ra một số giải pháp để nâng cao hiệu quả công tác này trong giai đoạn hiện nay.

Phát triển du lịch cộng đồng trên cơ sở văn hóa tộc người nhằm tạo sinh kế bền vững cho đồng bào dân tộc thiểu số vùng Tây Bắc

Tác giả: TRỊNH VƯƠNG CƯỜNG

(GDLL) - Với lợi thế có nhiều phong cảnh thiên nhiên tươi đẹp, môi trường sinh thái trong lành và sự phong phú, đa dạng, độc đáo của bản sắc văn hóa các tộc người, Tây Bắc đã xây dựng và đưa vào khai thác nhiều làng, bản du lịch cộng đồng thu hút được nhiều du khách, đem lại sinh kế, góp phần xóa đói, giảm nghèo, nâng cao thu nhập cho người dân địa phương. Tuy nhiên, du lịch cộng đồng ở Tây Bắc vẫn còn nhiều hạn chế, chưa tương xứng với tiềm năng. Bài viết phân tích tiềm năng văn hóa tộc người và thực trạng phát triển du lịch cộng đồng ở Tây Bắc, từ đó, kiến nghị một số giải pháp nhằm thúc đẩy phát triển du lịch cộng đồng nhằm mang lại sinh kế bền vững cho đồng bào các tộc người nơi đây.

Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943 với vấn đề xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc hiện nay

Tác giả: GIANG THỊ HUYỀN

(GDLL) - Ra đời năm 1943, bản Đề cương về văn hóa Việt Nam do đồng chí Trường Chinh khởi thảo và công bố được coi là bản tuyên ngôn, cương lĩnh đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam về văn hóa. Trong suốt 80 năm qua, Đề cương như ngọn đuốc soi đường cho sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam. Nhiều tư tưởng trong bản Đề cương đến nay còn nguyên giá trị, định hướng cho sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước trong giai đoạn mới.

Phát huy vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội trong tái cơ cấu ngành nông nghiệp tại huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang

Tác giả: VƯƠNG HỒNG HÀ - NGUYỄN HÙNG LINH NGA

(GDLL) - Trong thời gian qua, quá trình tái cơ cấu ngành nông nghiệp huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang đã đạt được nhiều kết quả đáng ghi nhận. Cùng với chính quyền địa phương, các tổ chức chính trị - xã hội của huyện đã phát huy vai trò phối hợp trong tổ chức triển khai các nhiệm vụ, giải pháp nhằm thực hiện hiệu quả công cuộc tái cơ cấu ngành nông nghiệp cũng như tái cơ cấu kinh tế toàn huyện.