
Quang cảnh Hội nghị lần thứ 9, Ban
Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII.
Đạo đức là gốc của người
cách mạng
“Đạo đức cách mạng” vốn đã được lãnh tụ
Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh chỉ ra, yêu cầu người cán bộ cách mạng phải chú trọng
rèn luyện từ thời dựng Đảng, vì trong tư tưởng của Người thì “đức” là gốc.
Trong quá trình chuẩn bị về mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức cho sự ra đời của
Đảng Cộng sản Việt Nam, tại Quảng Châu, Trung Quốc, những học viên của lớp Huấn
luyện chính trị đã được học về “Tư cách một người cách mệnh”. Đó chính
là chuẩn mực đạo đức cần phải có mà Người yêu cầu mỗi người cách mạng phải thực
hành; trong đó, “Tự mình phải: Cần kiệm. Hòa mà không tư. Cả quyết
sửa lỗi mình. Cẩn thận mà không nhút nhát. Hay hỏi. Nhẫn nại (chịu khó). Hay
nghiên cứu, xem xét. Vị công vong tư. Không hiếu danh, không kiêu ngạo. Nói thì
phải làm. Giữ chủ nghĩa cho vững. Hy sinh. Ít lòng tham muốn về vật chất. Bí mật. Đối
người phải: Với từng người thì khoan thứ. Với đoàn thể thì nghiêm. Có
lòng bày vẽ cho người. Trực mà không táo bạo. Hay xem xét người. Làm việc
phải: Xem xét hoàn cảnh kỹ càng. Quyết đoán. Dũng cảm. Phục tùng đoàn
thể”(1).
Sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời,
xuất phát từ yêu cầu và nhiệm vụ của sự nghiệp cách mạng, trong từng hoàn cảnh
cụ thể, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã điều chỉnh, bổ sung một cách phù hợp những yêu
cầu về phẩm chất đạo đức cách mạng để cán bộ, đảng viên tu dưỡng, phấn đấu và
coi đó một trong những biện pháp quan trọng hàng đầu nhằm phòng, chống và đấu
tranh “quét sạch” chủ nghĩa cá nhân. Vì thế, không lâu sau khi Cách mạng Tháng
Tám thành công, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, Người không chỉ quan
tâm xây dựng một Nhà nước kiểu mới của dân, do dân, vì dân, mà còn đặc biệt chú
trọng vấn đề rèn luyện đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên. Trong một
số tác phẩm như: Thư gửi các đồng chí tỉnh nhà (17/9/1945); Chính
phủ là công bộc của dân (19/9/1945); Sao cho được lòng dân (12/10/1945); Thư
gửi Ủy ban nhân dân các kỳ, tỉnh, huyện và làng (17/10/1945)... Người
yêu cầu cán bộ, đảng viên phải là những người “công tâm, trung thành, sốt sắng
với quyền lợi dân chúng”, phải chú trọng rèn luyện đạo đức cách mạng, phòng và
chống những “lầm lỗi rất nặng nề” như “trái phép”, “cậy thế”, “hủ hóa”, “tư
túng”, “chia rẽ”, “kiêu ngạo” để “việc gì lợi cho dân, ta phải hết sức làm.
Việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh. Chúng ta phải yêu dân, kính dân thì
dân mới yêu ta, kính ta”(2)...
Để phù hợp với yêu cầu thời kỳ cả nước
tiến hành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954), trong mục III “Tư
cách và đạo đức cách mạng” của tác phẩm Sửa đổi lối làm việc (10/1948),
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Người đảng viên, người cán bộ tốt muốn trở
nên người cách mạng chân chính, không có gì là khó cả. Điều đó hoàn toàn do
lòng mình mà ra. Lòng mình chỉ biết vì Đảng, vì Tổ quốc, vì đồng bào thì mình sẽ
tiến đến chỗ chí công vô tư. Mình đã chí công vô tư thì khuyết điểm sẽ ngày
càng ít, mà những tính tốt như sau ngày càng thêm”(3) -
các đức tính đó chính là “nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm”. Theo đó, những cán bộ,
đảng viên có đủ “nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm” là những người có đạo đức mới,
không phải đạo đức “thủ cựu” - tức là “không phải vì danh vọng của cá nhân, mà
vì lợi ích chung của Đảng, của dân tộc, của loài người”. Đồng thời, Người cũng
yêu cầu “mỗi đảng viên, trước hết là cán bộ, đảng viên phải thật thà tự phê
bình, tự sửa chữa những khuyết điểm của mình. Đặt lợi ích của Đảng, của dân tộc
lên trên hết. Kiên quyết chống bệnh tự mãn tự túc, tự tư tự lợi, kiêu ngạo, ba
hoa. Phải thực hành khẩu hiệu: chí công vô tư; cần, kiệm, liêm, chính!”(4)...

Hồ Chủ tịch nói chuyện với đại biểu
dự Đại hội Đảng toàn quốc lần II, tháng 2-1951
Được bổ sung phù hợp với thời kỳ cả nước
cùng đồng thời tiến hành 2 nhiệm vụ chiến lược (xây dựng CNXH ở miền Bắc và tiến
hành cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975) để giải phóng miền Nam, thống
nhất Tổ quốc), nội dung về đạo đức cách mạng được Chủ tịch Hồ Chí Minh trình
bày cụ thể, rõ ràng và toàn diện trong tác phẩm Đạo đức cách mạng (12/1958).
Theo Người, “đạo đức cách mạng là: Quyết tâm suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho
cách mạng. Đó là điều chủ chốt nhất. Ra sức làm việc cho Đảng, giữ vững kỷ luật
của Đảng, thực hiện tốt đường lối, chính sách của Đảng. Đặt lợi ích của Đảng và
của nhân dân lao động lên trên, lên trước lợi ích riêng của cá nhân mình. Hết
lòng hết sức phục vụ nhân dân. Vì Đảng, vì dân mà đấu tranh quên mình, gương mẫu
trong mọi việc. Ra sức học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, luôn luôn dùng tự phê bình
và phê bình để nâng cao tư tưởng và cải tiến công tác của mình và cùng đồng chí
mình tiến bộ”(5); “là hòa mình với
quần chúng thành một khối, tin quần chúng, hiểu quần chúng, lắng nghe ý kiến của
quần chúng...”(6); là “đặt lợi
ích của Đảng lên trên hết” và “lợi ích cá nhân phải tuyệt đối phục tùng lợi
ích của Đảng”…
Đặc biệt, trong tác phẩm Nâng
cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân (2/1969), Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã thêm một lần khẳng định rằng “mỗi cán bộ, đảng viên phải đặt lợi
ích của cách mạng, của Đảng, của nhân dân lên trên hết, trước hết. Phải kiên
quyết quét sạch chủ nghĩa cá nhân, nâng cao đạo đức cách mạng, bồi
dưỡng tư tưởng tập thể, tinh thần đoàn kết, tính tổ chức và tính kỷ luật. Phải
đi sâu đi sát thực tế, gần gũi quần chúng, thật sự tôn trọng và phát huy quyền
làm chủ tập thể của nhân dân. Phải cố gắng học tập, rèn luyện, nâng cao trình độ
hiểu biết để làm tốt mọi nhiệm vụ”(7).
Cuối cùng, trong Di chúc, Người căn dặn “Đảng ta là một đảng cầm
quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng,
thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch,
phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đày tớ thật trung thành của nhân
dân”(8)...
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng
nêu trên và hiển hiện trong những bài nói, phát biểu, tác phẩm khác của Người
là minh chứng cho thấy rằng: luận điệu “chẳng mấy ai” có thể hiểu
được ngọn ngành cái gọi là “đạo đức cách mạng”, vì khái niệm đó “mông lung,
chung chung” mà các phần tử cơ hội, bất mãn, phản động suy diễn chỉ là sự quy
chụp, xảo biện cá nhân; chỉ là chiêu trò nói lấy được. Thực tế, với những người
cộng sản nói chung, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam nói riêng, thì đạo đức là
“gốc” và rèn luyện đạo đức cách mạng là yêu cầu không thể thiếu để mỗi người
kiên định lý tưởng cách mạng, tận tâm, tận lực phụng sự Tổ quốc và nhân dân, chứ
không phải chỉ để “phụng sự Đảng” như các thế lực thù địch bẻ cong sự thật. Và
cũng vì thế, luận điệu phản động “đạo đức là thứ xa lạ” với Đảng Cộng sản Việt Nam
và đội ngũ cán bộ, đảng viên chính là xuyên tạc sự thật, là cố tình bôi nhọ những
người cộng sản, cần phải bác bỏ.
Quy định số 144 là sự chắt lọc tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức
cách mạng

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chủ
trì Hội nghị Trung ương lần thứ chín, khóa XIII. Ảnh: VGP
Thực tế, Đảng Cộng sản Việt Nam là đội
tiền phong của giai cấp và dân tộc; là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội
nên muốn xứng đáng với vị thế của mình - Đảng phải thường xuyên tự đổi mới và
chỉnh đốn về mọi mặt. Một điều không thể phủ nhận là, nếu người cán bộ, đảng
viên xa rời đạo đức cách mạng, thiếu sự tu dưỡng thì tất yếu sẽ trở thành thoái
bộ, lạc hậu, suy thoái. Cho nên, trong tập thể của những con người ưu tú đó, việc
có những người thụt lùi, thiếu trau dồi đạo đức cách mạng rồi sa vào chủ nghĩa
cá nhân, vi phạm Điều lệ Đảng, kỷ luật Đảng, vi phạm pháp luật đã phải chịu sự
xử lý nghiêm minh của pháp luật; đã bị khai trừ khỏi Đảng cũng là điều không
tránh khỏi. Những phần tử thoái hóa biến chất đó (dù là cán bộ, đảng viên ở cấp
nào) thì cũng không phải đại diện cho toàn Đảng, cho nên họ không thể làm lu mờ
hình ảnh một Đảng chân chính không có mục tiêu nào khác là vì nước, vì dân.
Hơn nữa, trong cuộc đời hoạt động cách
mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh dù sử dụng nhiều bí danh, bút danh khác nhau, trong
đó có Nguyễn Ái Quốc, Trần Lực, T. L, XYZ, CB… thì những tác phẩm mà Người đề cập
vấn đề đạo đức cách mạng; yêu cầu đội ngũ cán bộ, đảng viên phải tu dưỡng phù hợp
với yêu cầu của từng thời điểm, tình hình, nhiệm vụ cách mạng đều rất quan trọng,
đều có ý nghĩa lịch sử và giá trị hiện thực không thể bôi đen. Dù có những điều
chỉnh, bổ sung cho phù hợp bối cảnh cụ thể, song những chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ
Chí Minh về đạo đức cách mạng trong những thời điểm khác nhau đều là những tiêu
chuẩn quan trọng, cần thiết; là yêu cầu bắt buộc mỗi người cán bộ, đảng viên phải
chú tâm, thường xuyên rèn luyện, tự soi, tự sửa trong mọi hoàn cảnh, để “giàu
sang không thể quyến rũ, Nghèo khó không thể chuyển lay, Uy lực không thể khuất
phục”(9).
Vì thế, việc các thế lực thù địch lợi
dụng vào một số sự vụ, cá nhân liên quan đến suy thoái tư tưởng chính trị, đạo
đức, lối sống để quy chụp cả đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng “là hư hỏng, là
cơ hội, là chủ nghĩa cá nhân” chỉ là thủ đoạn chia rẽ để chống phá Đảng. Cũng
không ngoài ý đồ xấu khi chúng tung ra luận điệu cho rằng sau hơn 60 năm rèn
luyện đạo đức cách mạng (kể từ khi Chủ tịch Hồ Chí Minh viết tác phẩm Đạo
đức cách mạng, tháng 12/1958) đội ngũ cán bộ, đảng viên vẫn chỉ là những
người “đua nhau tham nhũng”, nên việc ban hành Quy định số 144 chỉ là “bình cũ
mà rượu… không mới”(!).
Cần khẳng định, với 5 Điều quy định
(Điều 1. Yêu nước, tôn trọng Nhân dân, tuyệt đối trung thành với Đảng,
với Tổ quốc; Điều 2. Bản lĩnh, đổi mới, sáng tạo, hội nhập; Điều
3. Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; Điều 4. Đoàn kết,
kỷ cương, tình thương, trách nhiệm; Điều 5. Gương mẫu, khiêm tốn,
tu dưỡng rèn luyện, học tập suốt đời và từng nội dung cụ thể của mỗi
Điều, cùng với Điều 6. Tổ chức thực hiện), Quy định số 144 được ban
hành là hoàn toàn đáp ứng yêu cầu của thực tiễn. Đây không chỉ là mệnh lệnh cần
phải thực hiện để vun bồi đạo đức cách mạng phù hợp yêu cầu cụ thể của sự nghiệp
cách mạng, mà còn là cơ sở để đánh giá bản lĩnh, trách nhiệm, sự trung thành,
tâm huyết, trong sạch, trung thực, thẳng thắn, khách quan, công tâm; sự dấn
thân, hăng hái, vì nước, vì dân, nỗ lực hoàn thành tốt nhiệm vụ; uy tín, sự
gương mẫu, nêu cao lòng tự trọng, danh dự, sự đề kháng... của người cán bộ, đảng
viên trong giai đoạn mới.
5 Điều với 19 nội dung cụ thể, quy định
về chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên trong giai đoạn mới trong
Quy định số 144 chính là sự chắt lọc, kế thừa, làm mới những yêu cầu,
tiêu chuẩn về đạo đức cách mạng mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nêu ra. Nội
dung các quy định này không chỉ thể hiện đầy đủ, toàn diện những chuẩn mực đạo
đức cách mạng theo tư tưởng Hồ Chí Minh về mục tiêu, lý tưởng, bản lĩnh chính
trị, tinh thần đổi mới, sáng tạo; sự nhất quán vể lòng yêu nước, thương dân,
trách nhiệm, tinh thần đoàn kết trên mọi lĩnh vực, mà còn là thực thi nguyên tắc,
biện pháp tu dưỡng đạo đức cách mạng có tính vừa cấp bách, vừa thường xuyên và
lâu dài đối với mỗi người cán bộ, đảng viên nói chung, đội ngũ cán bộ lãnh đạo,
quản lý, người đứng đầu mỗi địa phương, cơ quan, đơn vị nói riêng. 5 Điều trong
Quy định số 144 thể hiện rõ mối quan hệ giữa xây và chống
(xây là nhiệm vụ cơ bản, chiến lược, lâu dài, thường xuyên; chống là nhiệm vụ
quan trọng, cấp thiết) trong rèn luyện đạo đức cách mạng; trong tổng thể xây dựng,
chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị, đảm bảo để Đảng và hệ thống chính trị
luôn trong sạch, vững mạnh.
Quy định số 144 và những
chuẩn mực đạo đức cách mạng được xác định cụ thể, thiết thực và phù hợp hơn với
bối cảnh đất nước thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế sâu rộng. Những nội dung
trong đó chắc chắn không phải là một “đòi hỏi trái ngược với thực tế” như các
thế lực thù địch quy kết, bởi, với mỗi cán bộ, đảng viên thì nội dung thứ nhất
của Điều 1: “Suốt đời phấn đấu cho mục đích, lý tưởng cách mạng của Đảng; nêu
cao tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc,
với sự nghiệp cách mạng của Đảng; hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ
Nhân dân” là yêu cầu tất yếu, không hề mẫu thuẫn. Đồng thời, khi người cán bộ, đảng
viên thực hiện 5 nội dung tại Điều 3 của Quy định số 144 mọi lúc, mọi nơi, mọi
hoàn cảnh thì cũng tất yếu “nâng cao sức đề kháng” trước sự cám dỗ của vật chất,
quyền lực, đủ tự trọng để “thực hiện văn hóa từ chức khi không đủ khả năng, uy
tín”. Sự từ chức được nêu trong nội dung 5 của Điều 3 tại Quy định số 144 là
sự kế thừa, phát triển từ Quy định số 41-QĐ/TW ngày 3/11/2021 của Bộ Chính trị
về việc miễn nhiệm, từ chức đối với cán bộ; trong đó có việc cán bộ “tự nguyện
xin thôi giữ chức vụ” do “hạn chế về năng lực hoặc không còn đủ uy tín để hoàn
thành chức trách, nhiệm vụ được giao” được nêu tại mục 1 Điều 6 của Quy định.
Văn hóa từ chức vừa cho thấy sự “nhẹ nhàng, nhân văn, tiến bộ. Từ đó có sức răn
đe, cảm hóa lớn” như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhấn mạnh, vừa đồng thời
khẳng định một sự thật là, trong công tác cán bộ và công tác nhân sự đều sẽ “có
lên, có xuống”, “có vào, có ra” chứ không phải là tranh giành, đấu đá, triệt hạ
nhau vì phe cánh như các thế lực thù địch xuyên tạc.
Vì thế, khi cả hệ thống chính trị đẩy
mạnh đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực gắn với công tác xây dựng và chỉnh đốn
Đảng như hiện nay thì với việc thực thi Quy định số 144, đội ngũ cán bộ, đảng
viên đảm nhiệm trọng trách của mình trong các cơ quan công quyền càng phải nghiêm
khắc hơn với bản thân trong tu dưỡng và phấn đấu, nhất là phải biết “giữ mình”
- tự mình kiểm soát quyền lực được giao với tinh thần tự soi, tự sửa và gương mẫu
trong thực thi công vụ để xứng đáng vừa là người lãnh đạo, vừa là người đày tớ
thật trung thành của nhân dân như Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dăn. Đồng thời, tin
tưởng chắc chắn rằng, việc nghiêm túc thực hiện những chuẩn mực đạo đức cách mạng
theo Quy định số 144 không chỉ tạo ra bước chuyển biến mới, tích cực về cả
nguyên tắc và hành động trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng trước thềm Đại
hội Đảng bộ các cấp, tiến tới Đại hội XIV của Đảng, mà còn thiết thực bác bỏ luận
điệu phản động cho rằng “đạo đức cách mạng không có thật”, “chỉ là những câu khẩu
hiệu cửa miệng...” mà các thế lực thù địch và phần tử xấu tung lên mạng xã hội.
(theo tuyengiao.vn)
(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập,
Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2011, t.2, tr.280-281.
(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập,
Sđd, t.4, tr.65.
(3) (4) Hồ Chí Minh: Toàn tập,
Sđd, t.5, tr.291, 291.
(5) (6) Hồ Chí Minh: Toàn tập,
Sđd, t.11, tr.603, 609.
(7) (8) Hồ Chí Minh: Toàn tập,
Sđd, t.15, tr.547, 611-612.
(9) Hồ Chí Minh: Toàn tập,
Sđd, t.7, tr.50.