Tác phẩm: Tự hào Việt Nam - Tác giả: Dương Tiến Dũng - Huy
chương Vàng Cuộc thi Ảnh nghệ thuật cấp Quốc gia với chủ đề "Tự hào một dải
biên cương" năm 2020
Nhận thức về vai trò
lãnh đạo của Đảng trên lĩnh vực văn hóa
Vai
trò lãnh đạo của Đảng trên lĩnh vực văn hóa đã được Đảng ta khẳng định rất sớm
ngay từ Cương lĩnh năm 1930 và được thể hiện tập trung ở Đề cương Văn hóa Việt
Nam năm 1943 của Đảng. Sự lãnh đạo của Đảng trên lĩnh vực văn hóa vừa thể hiện
tính tất yếu khách quan của cuộc cách mạng xã hội XHCN do Đảng lãnh đạo, vừa thể
hiện nhu cầu cơ bản và cấp bách của thực tiễn cách mạng Việt Nam. Vai trò lãnh
đạo của Đảng trên lĩnh vực văn hóa được Đảng ta xác định thông qua các nhiệm vụ:
Thứ nhất, xây dựng đường lối,
chính sách phát triển văn hóa để văn hóa phát triển theo đúng định hướng chính
trị và đảm bảo tự do sáng tạo, cổ vũ nhân dân tham gia vào xây dựng và phát triển
văn hóa.
Thứ hai, lãnh đạo về tư tưởng và giá trị văn
hóa. Đảng xác định các giá trị và các chuẩn mực định hướng cho mọi hoạt động
văn hóa. Xây dựng hệ tư tưởng chỉ đạo nhằm thống nhất về tư tưởng, ý chí chung
của xã hội trong xây dựng và phát triển đất nước. Đảng ta đã khẳng định chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng để xây dựng nền
văn hóa mới. Độc lập dân tộc và CNXH là nội dung cốt lõi của nền văn hóa Việt
Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc với đặc trưng cơ bản là dân tộc, nhân
văn, dân chủ và khoa học.
Thứ ba, Đảng lãnh đạo thông qua việc định hướng
và giám sát quá trình thực hiện các nghị quyết của Đảng đối với tổ chức Đảng,
các cơ quan quản lý Nhà nước, các cấp, nhất là quá trình thể chế hóa các quan
điểm của Đảng thành luật pháp để thực hiện trong hoạt động thực tiễn.
Thứ tư, Đảng lãnh đạo và chỉ đạo hoạt động của
các đoàn thể chính trị - xã hội, tổ chức Liên hiệp các hội văn học, nghệ thuật,
tập hợp lực lượng và khuyến khích sự sáng tạo của đội ngũ trí thức văn nghệ sĩ
và các nhà hoạt động văn hóa, nghệ thuật sáng tạo phục vụ đất nước, phục vụ
nhân dân.
Thứ năm, Đảng lãnh đạo công tác tuyên truyền
và giáo dục văn hóa cho xã hội. Thông qua các cơ quan ngôn luận của Đảng, Nhà
nước và các đoàn thể chính trị - xã hội, Đảng lãnh đạo công tác tuyên truyền,
giáo dục nhằm nâng cao nhận thức cho toàn Đảng, toàn dân về vai trò, nhiệm vụ
xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu của mỗi giai
đoạn lịch sử, khuyến khích, cổ vũ, động viên nhân dân tham gia xây dựng và phát
triển sự nghiệp văn hóa.
Thứ sáu, Đảng lãnh đạo, chỉ đạo đường lối văn
hóa đối ngoại, xây dựng chủ chương, chính sách, định hướng cho lĩnh vực giao
lưu, hợp tác quốc tế về văn hóa, nhằm tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau và nâng
cao hình ảnh văn hóa Việt Nam ra thế giới.
Thứ bảy, Đảng lãnh đạo thông qua việc định hướng
xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý, cán bộ chuyên môn hoạt động trên lĩnh vực văn
hóa, văn nghệ. Đảng giới thiệu đội ngũ cán bộ có năng lực, có chuyên môn và phẩm
chất tốt tham gia vào công tác lãnh đạo, quản lý văn hóa ở các cấp.
Thứ tám, Đảng thường xuyên tổng kết thực tiễn,
phát triển lý luận, xây dựng và hoàn thiện đường lối, chính sách phát triển văn
hóa, đáp ứng nhu cầu của thực tiễn đề ra.
Thứ chín, Đảng tiến hành
công tác kiểm tra, giám sát thực hiện các nghị quyết của Đảng về văn hóa, xử lý
kịp thời những vấn đề nảy sinh trong hoạt động thực tiễn về xây dựng và phát
triển văn học…
Nhìn
một cách khái quát, vai trò lãnh đạo của Đảng trên lĩnh vực văn hóa đã được thể
hiện rõ trong hoạt động lãnh đạo của Đảng trên lĩnh vực văn hóa suốt 50 năm sau
ngày thống nhất đất nước (1975) đến nay.
Trao truyền các giá trị văn hóa cho thế hệ mai sau_Nguồn:
nhiepanhdoisong.vn
Những thành tựu nổi
bật thể hiện vai trò lãnh đạo của Đảng trên lĩnh vực văn hóa
Một là, bám sát thực tiễn để đề ra đường lối,
chủ trương, chính sách xây dựng và phát triển văn hóa đáp ứng yêu cầu của cách
mạng.
Trong
10 năm đầu sau ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (từ 1975-1985), xuất
phát từ yêu cầu thực tiễn, Đảng tập trung lãnh đạo để cải tạo hệ thống văn hóa,
giáo dục chịu ảnh hưởng của chế độ Mỹ - Ngụy ở miền Nam, khôi phục các cơ sở
văn hóa, giáo dục ở cả hai miền bị tàn phá do chiến tranh, từng bước xây dựng đời
sống văn hóa mới, tổ chức sắp xếp, xây dựng và thống nhất về thể chế quản lý
văn hóa thống nhất trên phạm vi cả nước.
Đại
hội IV của Đảng (1976) đã khẳng định “đẩy mạnh
cách mạng tư tưởng và văn hóa, xây dựng và phát triển nền văn hóa mới” trên phạm
vi cả nước. Nhiệm vụ trọng tâm của cuộc cách mạng này là xây dựng con người mới,
xây dựng nền văn hóa mới; tuyên truyền, giáo dục chủ nghĩa Mác - Lê nin và đường
lối, chính sách của Đảng thấu suốt trong cán bộ, đảng viên và nhân dân, tiến
hành đấu tranh chống tư tưởng và văn hóa phản động của chủ nghĩa đế quốc, chủ
nghĩa thực dân... Đảng ta yêu cầu tập trung vào cải cách giáo dục trong cả nước,
đẩy mạnh sự nghiệp phát triển khoa học, văn học, nghệ thuật; tăng cường giáo dục
tư tưởng XHCN, chống tư tưởng tư sản và tàn dư của tư tưởng phong kiến, phê
phán tư tưởng tiểu tư sản, xóa bỏ ảnh hưởng của tư tưởng và “văn hóa” của chủ
nghĩa thực dân mới ở miền Nam. Đồng thời, tại Đại hội này, Đảng ta đã nhấn mạnh
vai trò và trách nhiệm của các lĩnh vực báo chí, thông tấn, xuất bản, thông
tin, truyền thanh, truyền hình, điện ảnh, nhiếp ảnh trên mặt trận văn hóa và tư
tưởng. Phương hướng lớn mà Đại hội IV của Đảng đề ra là phải phát triển mạnh mẽ
công tác giáo dục, văn hóa, văn nghệ để xây dựng nền văn hóa có nội dung XHCN
và tính dân tộc, có tính đảng và tính nhân dân sâu sắc.
Đại
hội V của Đảng (tháng 3/1982) tiếp tục khẳng định phương hướng, nội dung, nhiệm
vụ để phát triển văn hóa trong thời kỳ mới; nhấn mạnh đến phương hướng chung là
ra sức phát triển và nâng cao chất lượng hoạt động văn hóa, văn nghệ thích hợp
với từng lứa tuổi, từng địa phương, từng dân tộc. Mở rộng hơn nữa phong trào
văn hóa, văn nghệ quần chúng, gắn bó với phong trào sản xuất và chiến đấu, tạo
cơ sở và nguồn lực nuôi dưỡng nền văn hóa mới. Đại hội V đặc biệt nhấn mạnh đến
xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở, đảm bảo mỗi nhà máy, công trường, lâm trường,
đơn vị lực lượng vũ trang, cơ quan, trường học, bệnh viện, cửa hàng, xã, phường
đều có đời sống văn hóa; chú trọng xây dựng các thiết chế văn hóa, nhất là ở
nông thôn, vùng đồng bào các dân tộc thiểu số... Đồng thời đã đề xuất quan điểm
mới về xã hội hóa các hoạt động văn hóa với phương châm Nhà nước và nhân dân
cùng làm.
Có thể nói, sự lãnh đạo
của Đảng trên lĩnh vực văn hóa trong thời kỳ 10 năm đầu sau ngày giải phóng miền
Nam, thống nhất đất nước đã tập trung vào giải quyết thành công những nhiệm vụ
to lớn đặt ra. Đó là cải tạo nền văn hóa cũ ở miền Nam dưới thời Mỹ - Ngụy, thống
nhất về thể chế và thiết chế quản lý văn hóa trên phạm vi cả nước, khôi phục và
phát triển các hoạt động văn hóa, văn nghệ; xây dựng và hoàn thiện từng bước
các thiết chế văn hóa, văn nghệ từ Trung ương đến địa phương; đẩy mạnh phong
trào văn hóa, văn nghệ quần chúng và phong trào xây dựng đời sống văn hóa ở cơ
sở. Những thành tựu trên lĩnh vực xây dựng và phát triển văn hóa trong giai đoạn
này góp phần quan trọng vào xây dựng nền tảng tinh thần của xã hội, phát huy sức
mạnh toàn dân tộc trong cuộc kháng chiến bảo vệ biên giới phía Tây Nam và biên
giới phía Bắc, từng bước tháo gỡ khó khăn và khủng hoảng kinh tế, chuẩn bị tiền
đề cho đất nước bước vào thực hiện công cuộc đổi mới sau này.
Từ
năm 1986 đến nay, bước vào thời kỳ đổi mới toàn diện đất nước vì mục tiêu: Dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, cùng với quá trình nâng cao vai
trò lãnh đạo của Đảng trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội, quốc
phòng, an ninh và đối ngoại, vai trò lãnh đạo của Đảng trên lĩnh vực văn hóa đã
được nâng lên ở tầm cao mới, thể hiện tập trung ở việc xây dựng tầm nhìn chiến
lược để xây dựng và phát triển văn hóa và con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu
phát triển bền vững đất nước. Tầm nhìn chiến lược này được thể hiện tập trung
trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (1991) và
Cương lĩnh (Bổ sung và phát triển năm 2011). Trong Cương lĩnh (năm 1991), Đảng
ta đã xác định: Nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc và xây dựng con
người có điều kiện phát triển toàn diện, trở thành một trong những mục tiêu và
đặc trưng của chế độ xã hội XHCN mà chúng ta hướng tới; khẳng định: “Xây dựng nền
văn hóa mới, tạo ra một đời sống tinh thần cao đẹp, phong phú và đa dạng, có nội
dung nhân đạo, dân chủ, tiến bộ”(1).
Đại
hội VIII của Đảng (2001) đã cụ thể hóa tư tưởng chỉ đạo của Cương lĩnh 1991 về
văn hóa trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN; nêu rõ vai trò và mục tiêu của mọi hoạt động
văn hóa, văn nghệ trong bối cảnh mới: “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội,
vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Mọi
hoạt động văn hóa, văn nghệ phải nhằm xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng con người Việt Nam về tư tưởng, đạo đức,
tâm hồn, tình cảm, lối sống, xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh cho sự phát
triển xã hội”(2).
Hình ảnh về đất nước, văn hóa, lịch sử, con người, chính sách của
Việt Nam được quảng bá, phổ biến, giúp nhân dân thế giới hiểu biết, yêu mến Việt
Nam
Nghị
quyết Trung ương 5 khóa VIII xác định: Yêu cầu xây dựng và phát triển đất nước
trong giai đoạn mới đòi hỏi Đảng ta phải tăng cường và nâng tầm lãnh đạo trên
lĩnh vực văn hóa. Để tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng trên lĩnh vực văn
hóa, Đảng ta xác định một số nội dung quan trọng là nâng cao nhận thức về vai
trò đặc biệt quan trọng của văn hóa trong việc bồi dưỡng và phát huy nhân tố
con người, xây dựng xã hội mới, khắc phục thái độ xem nhẹ việc xây dựng và đấu
tranh trên lĩnh vực văn hóa; chú trọng xây dựng đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ;
đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng trên lĩnh vực văn hóa; phát huy vai trò của
các tổ chức đoàn thể quần chúng, các tổ chức sáng tạo văn hóa, văn nghệ trong
việc vận động, tổ chức quần chúng, giới trí thức thực hiện nhiệm vụ văn hóa; chỉ
đạo các cơ quan quản lý nhà nước thể chế hóa các chủ trương, chính sách của Đảng
trên lĩnh vực văn hóa; chú trọng xây dựng văn hóa từ trong Đảng, trong bộ máy
nhà nước, đẩy mạnh việc giáo dục tư tưởng, đạo đức lối sống, nêu cao tinh thần
gương mẫu; thực hiện nghiêm túc công tác kiểm tra của Đảng... Có thể nói đây là
những nhiệm vụ mang tính đồng bộ và toàn diện để nâng cao vai trò và năng lực
lãnh đạo của Đảng trên lĩnh vực văn hóa trong bối cảnh đẩy mạnh toàn diện sự
nghiệp đổi mới đất nước.
Quá
trình triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII đã tạo nên sự chuyển
biến tích cực và toàn diện nhằm làm cho văn hóa thấm sâu vào toàn bộ đời sống
xã hội, tạo nên sự thay đổi trong nhận thức và hành động của các tổ chức Đảng
và chính quyền, đoàn thể chính trị - xã hội ở các cấp, các ngành, các địa
phương.
Kiểm
điểm 5 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII, Hội nghị Trung ương 10
khóa IX đã ban hành Kết luận về tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa
VIII về “Xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”
trong những năm sắp tới. Kết luận này đã đặt vấn đề phát triển văn hóa gắn kết
với kinh tế và chính trị khi xác định: “Đảm bảo sự gắn kết giữa nhiệm vụ phát
triển kinh tế là trọng tâm, xây dựng chỉnh đốn Đảng là then chốt với không ngừng
nâng cao văn hóa - nền tảng tinh thần của xã hội; tạo nên sự phát triển đồng bộ
của ba lĩnh vực trên chính là điều kiện quyết định đảm bảo cho sự phát triển bền
vững của đất nước”.
Cương
lĩnh (Bổ sung và phát triển năm 2011) tiếp tục xác định: “Xây dựng nền văn hóa
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; xây dựng con người, nâng cao đời sống nhân
dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội”(3)
là một trong 8 phương hướng cơ bản để thực hiện mục tiêu tổng quát khi kết thúc
thời kỳ quá độ, trước hết là mục tiêu đến giữa thế kỷ XXI phấn đấu xây dựng nước
ta “trở thành một nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”(4).
Cùng
với xác định: “Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển
toàn diện, thống nhất trong đa dạng, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân
chủ, tiến bộ, làm cho văn hóa gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời sống
xã hội, trở thành nền tảng tinh thần vững chắc, sức mạnh nội sinh quan trọng của
phát triển”(5), Cương lĩnh (Bổ sung và phát
triển năm 2011) đã nhấn mạnh: “Con người là trung tâm của chiến lược phát triển,
đồng thời là chủ thể phát triển. Tôn trọng và bảo vệ quyền con người, gắn quyền
con người với quyền và lợi ích của dân tộc, đất nước và quyền làm chủ của nhân
dân”(6).
Tổng
kết 15 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII và triển khai tư tưởng
chỉ đạo của Cương lĩnh (Bổ sung và phát triển năm 2011), Hội nghị Trung ương 9
khóa XI đã ban hành Nghị quyết 33-NQ/TW về xây dựng và phát triển văn hóa, con
người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước. Nghị quyết đã xác
định mục tiêu chung và mục tiêu cụ thể, nêu các quan điểm, nhiệm vụ và giải
pháp để phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững
đất nước.
Sơ
kết 5 năm thực hiện Nghị quyết số 33-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng
khóa XI, Bộ Chính trị khóa XII đã ban hành Kết luận số 76-KL/TW về tiếp tục thực
hiện Nghị quyết số 33-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về xây dựng
và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất
nước.
Đại
hội XIII của Đảng đặc biệt quan tâm đến phát huy vai trò của văn hóa trong thực
hiện khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc. Trong định hướng phát
triển đất nước giai đoạn 2021-2030, Đảng ta nêu rõ: “Phát triển con người toàn
diện và xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc để văn
hóa thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ
Tổ quốc”(7). Về phương hướng xây dựng và
phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam, Đại hội XIII nhấn mạnh
yêu cầu: “Tập trung nghiên cứu, xác định và triển khai xây dựng hệ giá trị quốc
gia, hệ giá trị văn hóa, và chuẩn mực con người gắn với giữ gìn, phát triển hệ
gia đình Việt Nam trong thời kỳ mới”(8). Tại
Hội nghị Văn hóa toàn quốc, ngày 24/11/2021, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã có
bài phát biểu rất quan trọng để chỉ đạo các tổ chức đảng, các ngành, các cấp thực
hiện đường lối, chủ trương của Đảng về văn hóa, con người trong bối cảnh mới.
Bên
cạnh các văn kiện của Đảng qua các kỳ Đại hội và các nghị quyết của Trung ương
chuyên bàn về văn hóa, Đảng ta còn có các nghị quyết, quyết định của Bộ Chính
trị, Ban Bí thư Trung ương Đảng, Ban Tuyên giáo Trung ương... về các lĩnh vực
văn học, nghệ thuật, báo chí xuất bản, thư viện, xây dựng lối sống, nếp sống...
góp phần cụ thể hóa đường lối phát triển văn hóa của Đảng. Nhìn lại 50 năm qua,
mặc dù có thời kỳ gặp nhiều khó khăn, thách thức, Đảng ta luôn quan tâm đến văn
hóa và ban hành kịp thời các nghị quyết quan trọng để lãnh đạo sự nghiệp xây dựng
phát triển văn hóa, con người đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng trò chuyện với các đại biểu tham dự
Hội nghị văn hóa toàn quốc tổ chức sáng 24/11/2021 tại Nhà Quốc hội
Hai là, nội dung, nhiệm vụ và phương thức
lãnh đạo của Đảng trên lĩnh vực văn hóa ngày càng được triển khai đồng bộ, toàn
diện và sâu sắc hơn.
Trong
suốt 50 năm qua, trong quá trình lãnh đạo văn hóa, Đảng ta đã không ngừng bổ
sung, phát triển những quan điểm chỉ đạo, nội dung, nhiệm vụ mới. Nghị quyết
Trung ương 5 khóa VIII (1998) đã xác định khái niệm văn hóa được sử dụng để
lãnh đạo của Đảng bao gồm tất cả các lĩnh vực liên quan đến đời sống tinh thần
của xã hội, từ tư tưởng đạo đức, lối sống; môi trường văn hóa; giáo dục đào tạo,
khoa học công nghệ; di sản văn hóa; văn học nghệ thuật; thông tin đại chúng;
văn hóa trong tôn giáo; văn hóa trong đồng bào các dân tộc thiểu số; thể chế
văn hóa; giao lưu quốc tế về văn hóa. Như vậy, đối tượng lãnh đạo của Đảng trên
các lĩnh vực văn hóa cụ thể ngày càng bao quát rộng rãi và toàn diện, trong đó,
Đảng ta nhấn mạnh đến xây dựng tư tưởng, đạo đức, lối sống và đời sống văn hóa
là những lĩnh vực quan trọng nhất, cần được quan tâm đặc biệt.
Về
quan điểm chỉ đạo, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII đã xác định 5
quan điểm chỉ đạo: 1) Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục
tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội; 2) Nền văn hóa
mà chúng ta xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; 3) Nền
văn hóa Việt Nam là nền văn hóa thống nhất mà đa dạng trong cộng đồng các dân tộc
Việt Nam; 4) Xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp của toàn dân do Đảng
lãnh đạo, trong đó đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng; 5) Văn hóa là một mặt
trận, xây dựng và phát triển văn hóa là một sự nghiệp lâu dài, đòi hỏi phải có
ý chí cách mạng và sự kiên trì, thận trọng.
Hệ
thống các quan điểm đã bao hàm toàn diện những vấn đề cơ bản và cốt lõi, từ xác
định vai trò, vị trí của văn hóa tới phương hướng, đặc trưng, chủ thể và đặc
thù của sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa. Trên cơ sở đó, Nghị quyết nêu
rõ 10 nhiệm vụ xây dựng và phát triển văn hóa gồm: Xây dựng con người Việt Nam;
Xây dựng môi trường văn hóa; Phát triển sự nghiệp văn học, nghệ thuật; Bảo tồn
và phát huy các di sản văn hóa; Phát triển sự nghiệp giáo dục - đào tạo và khoa
học công nghệ; Phát triển đi đôi với quản lý tốt hệ thống thông tin đại chúng;
Chính sách văn hóa đối với tôn giáo; Mở rộng hợp tác quốc tế về văn hóa; Củng cố,
xây dựng và hoàn thiện thể chế văn hóa. Trong đó, Đảng ta đặt trọng tâm vào
“nhiệm vụ xây dựng tư tưởng, đạo đức, lối sống và đời sống văn hóa lành mạnh
trong xã hội, trước hết là trong các tổ chức Đảng và Nhà nước, trong các đoàn thể
quần chúng và trong từng gia đình”(9).
Những
phương hướng, quan điểm, nhiệm vụ và giải pháp mà Nghị quyết Trung ương 5 khóa
VIII xác định đã được triển khai một cách sâu rộng, được các cấp ủy, chính quyền,
đoàn thể, ngành cụ thể hóa thành các chương trình hành động, tạo nên một phong
trào quần chúng rộng khắp để xây dựng và phát triển sự nghiệp xây dựng và phát
triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Tổng
kết 15 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII, Hội nghị Trung ương 9
khóa XI (2014) đã ban hành Nghị quyết số 33-NQ/TW về xây dựng và phát triển văn
hóa, con người Việt Nam, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước. Tư tưởng
cơ bản của Nghị quyết này là gắn kết chặt chẽ hơn nữa giữa xây dựng văn hóa với
phát triển con người hướng tới đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước. Mục
tiêu chung là: “Xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện,
hướng đến chân - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và
khoa học. Văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là
sức mạnh nội sinh quan trọng để đảm bảo sự phát triển bền vững và bảo vệ vững
chắc Tổ quốc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”(10).
Kế
thừa các nội dung trong văn kiện Đại hội IX, X, XI về văn hóa, Nghị quyết số
33-NQ/TW nhấn mạnh mục tiêu cụ thể đầu tiên là: “Hoàn thiện các chuẩn mực giá
trị văn hóa và con người Việt Nam, tạo môi trường và điều kiện để phát triển về
nhân cách, đạo đức, trí tuệ, năng lực sáng tạo, thể chất, tâm hồn, trách nhiệm
xã hội, nghĩa vụ công dân, ý thức tuân thủ pháp luật, đề cao tinh thần yêu nước,
tự hào dân tộc, lương tâm, trách nhiệm của mỗi người với bản thân mình, với gia
đình, cộng đồng, xã hội và đất nước”(11). Đồng
thời tiếp thu, kế thừa và bổ sung một số quan điểm mới. Các quan điểm chỉ đạo gồm:
1) Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, mục tiêu, động lực phát triển bền
vững đất nước. Văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội;
2) Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, thống nhất
trong đa dạng của các cộng đồng dân tộc Việt Nam, với các đặc trưng dân tộc,
nhân văn, dân chủ và khoa học; 3) Phát triển văn hóa vì sự hoàn thiện nhân cách
con người và xây dựng con người để phát triển văn hóa. Trong xây dựng văn hóa,
trọng tâm là chăm lo xây dựng con người có nhân cách, lối sống tốt đẹp với các
đặc tính cơ bản: yêu nước, nhân ái, nghĩa tình, trung thực, đoàn kết, cần cù,
sáng tạo; 4) Xây dựng đồng bộ môi trường văn hóa, trong đó có vai trò của gia
đình, cộng đồng. Phát triển hài hòa giữa kinh tế và văn hóa; cần chú ý đầy đủ đến
yếu tố văn hóa và con người trong phát triển kinh tế; Xây dựng và phát triển
văn hóa là sự nghiệp của nhân dân do Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân
là chủ thể sáng tạo, đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng.
Trong
các quan điểm nêu trên, Đảng ta bổ sung và nhấn mạnh một số nội dung mới là: 1)
Phải đặt văn hóa ngang tầm với chính trị và kinh tế; 2) Làm rõ đặc trưng của nền
văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa
học; 3) Khẳng định mục tiêu của phát triển văn hóa là hướng tới xây dựng nhân
cách con người là trọng tâm với các đặc tính cơ bản là yêu nước, nhân ái, nghĩa
tình, trung thực, đoàn kết, cần cù, sáng tạo; 4) Nhấn mạnh vai trò chủ thể sáng
tạo văn hóa là nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, đội
ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng.
Đồng
thời, trong Nghị quyết số 33-NQ/TW, Đảng ta bổ sung các nhiệm vụ mới là: 1) Xây
dựng văn hóa trong chính trị và trong kinh tế; 2) Nâng cao chất lượng, hiệu quả
hoạt động văn hóa; 3) Phát triển công nghiệp văn hóa đi đôi với xây dựng, hoàn
thiện thị trường văn hóa. Đây là những nhiệm vụ rất quan trọng liên quan đến mối
quan hệ giữa văn hóa với chính trị và kinh tế, khẳng định vai trò động lực và
nguồn lực của văn hóa đối với sự phát triển kinh tế - xã hội và xây dựng hệ thống
chính trị vững mạnh. Để phát huy giá trị văn hóa trở thành “sức mạnh mềm” của đất
nước trong giao lưu và hội nhập quốc tế, Đảng ta chủ trương phát triển văn hóa
đối ngoại và Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Chiến lược phát triển văn hóa đối
ngoại của Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 (theo Quyết định số
210/QĐ/TTg ngày 8/2/2015). Đứng trước quá trình đẩy mạnh phát triển nền kinh tế
thị trường định hướng XHCN và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, Đảng ta đặc
biệt chú ý đến vấn đề xây dựng hệ giá trị văn hóa và chuẩn mực con người Việt
Nam được nêu trong Nghị quyết số 33-NQ/TW. Đại hội XIII của Đảng tiếp tục khẳng
định: “Xây dựng và phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh của con người Việt Nam”;
yêu cầu: “Tập trung nghiên cứu, xác định và triển khai hệ giá trị quốc gia, hệ
giá trị văn hóa và chuẩn mực con người gắn với giữ gìn, phát triển hệ giá trị
gia đình Việt Nam trong thời kỳ mới”(12).
Trong
quá trình lãnh đạo, Đảng ta luôn quan tâm giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa
tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội,
bảo vệ môi trường. Đồng thời, đã khái quát những nhiệm vụ cơ bản để phát triển
bền vững hiện nay là: Phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, xây dựng Đảng
là then chốt, phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, đảm bảo quốc
phòng an ninh là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên.
Như
vậy, mục tiêu xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu
phát triển nhanh và bền vững đất nước không chỉ là yêu cầu xây dựng nền văn hóa
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc mà còn phát huy giá trị văn hóa và sức mạnh
con người Việt Nam thực hiện khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh
phúc. Văn hóa phải gắn kết chặt chẽ với chính trị, kinh tế, xã hội, trở thành động
lực, mục tiêu và nguồn lực cho sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước. Vì
vậy, trong Văn kiện Đại hội XIII, Đảng ta đã nhấn mạnh vai trò của nhân tố văn
hóa và con người trong phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, từ mục tiêu,
phương hướng, quan điểm, khâu đột phá và nhiệm vụ trọng tâm trong nhiệm kỳ Đại
hội. Từ đó, vai trò lãnh đạo văn hóa của Đảng ngày càng được khẳng định và mang
tính toàn diện, cụ thể, sâu sắc, thực tiễn cao hơn. Điều này thể hiện ở quyết
tâm chính trị của Đảng trong chỉ đạo, lãnh đạo nâng cao chất lượng toàn diện
nhiệm vụ xây dựng con người và môi trường văn hóa; trong các hoạt động bảo tồn,
phát huy giá trị di sản văn hóa, phát triển văn học, nghệ thuật, thông tin đại
chúng; trong xây dựng văn hóa trong chính trị và trong kinh tế; phát triển các
ngành công nghiệp văn hóa và thị trường văn hóa, phát triển văn hóa đối ngoại.
Quá
trình lãnh đạo văn hóa trong 50 năm qua, Đảng ta không ngừng đổi mới phương thức
lãnh đạo theo hướng vừa đảm bảo định hướng chính trị, vừa phát huy quyền tự do,
dân chủ, tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho các chủ thể khác nhau phát
huy vai trò, trách nhiệm và năng lực của mình để xây dựng, phát triển văn hóa,
con người đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh và bền vững đất nước.
Đường
lối phát triển văn hóa của Đảng đảm bảo tính tư tưởng, tính khoa học và tính thực
tiễn, góp phần phát huy chủ nghĩa yêu nước và truyền thống cách mạng của dân tộc,
tăng cường và củng cố khố đại đoàn kết toàn dân để xây dựng và phát triển nền
văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, tạo lập nền tảng tinh thần lành mạnh,
làm động lực thúc đẩy sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, góp phần cùng các
lĩnh vực khác làm nên những thắng lợi to lớn, có ý nghĩa lịch sử, xây dựng cơ đồ,
vị thế, tiềm lực và uy tín quốc tế của Việt Nam trên trường quốc tế.
Nhìn
lại 50 năm lãnh đạo văn hóa của Đảng, bên cạnh những thành tựu nổi bật, chúng
ta cũng cần chỉ rõ những hạn chế trong công tác lãnh đạo văn hóa của Đảng. Đó
là tình trạng nhận thức về vai trò, vị trí của văn hóa, con người trong phát
triển đất nước chưa được đồng bộ trong cán bộ, đảng viên và xã hội. Vấn đề tu
dưỡng, rèn luyện, xây dựng con người chưa được quan tâm đúng mức. Tình trạng
tha hóa về đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong cán bộ, đảng
viên chưa được ngăn chặn hiệu quả. Việc thể chế hóa đường lối, chủ trương phát
triển văn hóa còn chậm. Đầu tư cho văn hóa chưa tương xứng với vai trò, vị thế
của văn hóa trong phát triển. Nguồn lực để xây dựng và phát triển văn hóa còn
thiếu và yếu. Công tác chăm lo, xây dựng đội ngũ cán bộ làm văn hóa và đội ngũ
trí thức văn nghệ sĩ chưa được quan tâm đúng mức... Để nâng cao vai trò lãnh đạo
của Đảng trên lĩnh vực văn hóa và xây dựng con người, Đảng phải không ngừng
phát huy những thành tựu đạt được, khắc phục những hạn chế, yếu kém nêu trên, tạo
ra xung lực mới để phát huy vai trò của văn hóa trong thực hiện khát vọng phát
triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc./.
(theo tuyengiao.vn)
----------------------------------
(1) (2) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại
hội Đảng thời kỳ đổi mới (Đại hội VI, VII, VIII, IX). Nxb. Chính trị quốc gia.
H, 2005, tr.322, 493-494
(3) (4) (5) (6) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại
hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2011, tr.71, 71,
75-76, 75-76.
(7) (8) (12) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại
hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật. H, 2021,
t.I, tr 115-116, 115-116, 143.
(9) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần
thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 1998,
tr.69
(10) (11) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội
nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, Văn phòng Trung ương Đảng.
H, 2014, tr.46-47, 47.