Chủ tịch Hồ Chí Minh với đại biểu trí thức dự Hội nghị Chính trị
đặc biệt tháng 3-1964. Ảnh tư liệu.
Chủ
tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Trí thức là vốn liếng quý báu của dân tộc. Ở nước
khác như thế, ở Việt Nam càng như thế”. Việc nghiên cứu, vận dụng sáng tạo tư
tưởng Hồ Chí Minh là cơ sở lý luận giúp Đảng, Nhà nước tiếp tục xây dựng, hoàn
thiện chủ trương, chính sách về xây dựng, phát triển đội ngũ trí thức trẻ đáp ứng
yêu cầu phát triển đất nước nhanh, bền vững trong bối cảnh tác động của Cách mạng
công nghiệp 4.0.
1. Một số nội dung cơ bản
trong tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng và phát triển đội ngũ trí thức trẻ
Về
vị trí, vai trò của đội ngũ trí thức trẻ, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: “Thanh
niên là người chủ tương lai của nước nhà. Thật vậy, nước nhà thịnh hay suy, yếu
hay mạnh một phần lớn là do các thanh niên”[1].
Trong Thư gửi thanh niên và nhi đồng toàn quốc nhân dịp Tết sắp đến (tháng
1-1946), Người viết: “Một năm khởi đầu từ mùa xuân. Một đời khởi đầu từ tuổi trẻ.
Tuổi trẻ là mùa xuân của xã hội”[2]. Suốt cuộc
đời hoạt động cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn dành tình cảm đặc biệt cho
thanh niên, nhất là thanh niên trí thức qua việc bồi dưỡng, giáo dục, rèn luyện.
Theo
Người, trí thức trẻ là một bộ phận quan trọng của đội ngũ trí thức Việt Nam, là
lực lượng tiên phong trong đội ngũ thanh niên. Họ là lực lượng có tinh thần yêu
nước nồng nàn, có khát vọng ý chí vươn lên, có đạo đức cách mạng trong sáng,
dám nghĩ, dám làm, dám hy sinh; có vị trí, vai trò quan trọng trong sự nghiệp đấu
tranh giải phóng, thống nhất dân tộc và kiến thiết nước nhà. Đồng thời, họ đang
công tác, hoạt động và nghiên cứu ở nhiều lĩnh vực kinh tế - xã hội, quốc phòng
- an ninh,… quan trọng của đất nước.
Về
trách nhiệm của đội ngũ trí thức trẻ, Người nhắc nhở: “Thanh niên muốn làm người
chủ tương lai cho xứng đáng thì ngay hiện tại phải rèn luyện tinh thần và lực
lượng của mình, phải ra làm việc để chuẩn bị cái tương lai đó”[3] và "Để thật xứng đáng là người chủ của một
nước xã hội chủ nghĩa, thanh niên ta quyết tâm thực hiện mấy điều sau đây: Phải
thấm nhuần đạo đức cách mạng tức là khiêm tốn, đoàn kết, thực hành chủ nghĩa tập
thể, thương yêu, giúp đỡ lẫn nhau, người tiên tiến thì giúp đỡ người kém, người
kém phải cố gắng để tiến lên, ra sức cần kiệm xây dựng nước nhà; phải nghiêm khắc
chống chủ nghĩa cá nhân như tự tư tự lợi, tự kiêu, tự mãn, chỉ tham việc gì có
danh tiếng, xem khinh những công việc bình thường. Phải chống tham ô, lãng phí;
phải cố gắng học hỏi để không ngừng nâng cao trình độ chính trị, văn hóa và kỹ
thuật để phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân”[4].
Về
mục tiêu và khát vọng, Hồ Chí Minh nhấn mạnh đến: (1)
Mục tiêu xây dựng đội ngũ trí thức trẻ: Trí thức trẻ phải gắn với vận mệnh dân
tộc, thể hiện nghĩa vụ và trách nhiệm của mình với đất nước; (2) Đội ngũ trí thức trẻ phải gắn bó thường xuyên,
mật thiết với nhân dân, trên tinh thần khiêm tốn học hỏi những điều hay lẽ phải,
vì tuổi trẻ đôi khi chưa có kinh nghiệm muốn khẳng định mình dễ dẫn đến vội
vàng, nhất là đội ngũ trí thức trẻ thuần túy về khoa học, kỹ thuật. Nhận xét về
thanh niên, trong đó có thanh niên trí thức, Người cho rằng: “Ưu điểm của thanh
niên ta là hăng hái, giàu tinh thần xung phong. Khuyết điểm là ham chuộng hình
thức, thiếu thực tế, bệnh cá nhân, bệnh anh hùng. Rất mong toàn thể thanh niên
ta ra sức phát triển những ưu điểm và tẩy sạch những khuyết điểm ấy. Huy hiệu của
thanh niên ta là “tay cầm cờ đỏ sao vàng tiến lên”; (3)
Đội ngũ trí thức trẻ nhiệt huyết, khao khát được cống hiến để khẳng định mình
và phục vụ cho Tổ quốc. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, đội ngũ trí thức trẻ là những
người có học vấn, có năng lực sáng tạo, hoài bão lớn, dám làm những việc lớn,
ích nước, lợi dân; (4) Đội ngũ trí thức trẻ
năng động, chủ động kết bạn với các quốc gia trên thế giới; (5) Coi trọng giáo dục đạo đức, lý tưởng cách mạng
cho trí thức trẻ.
Về
quan điểm xây dựng đội ngũ trí thức trẻ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm
đến việc đào tạo đội ngũ trí thức cho cách mạng, đề ra phương châm vừa cải tạo
và sử dụng những trí thức cũ, vừa xây dựng và phát triển lực lượng trí thức mới.
Người đã rất đề cao, coi trọng người trí thức, các biện pháp, chính sách động
viên, khuyến khích đội ngũ trí thức tham gia vào sự nghiệp cách mạng; đào tạo
trí thức mới, cải tạo trí thức cũ, để xây dựng đội ngũ trí thức có phẩm chất
khoa học, có đạo đức và năng lực thực tiễn cao.
Trong
tác phẩm Sửa đổi lối làm việc, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Sắp xếp thời gian
và bài học… phải cho khéo, phải có mạch lạc với nhau, mà không xung đột với
nhau”[5]. Trí thức trẻ luôn phải trau dồi, học
tập, lĩnh hội kho tàng tri thức của nhân loại là vô tận, người học phải biết chọn
lựa nội dung phù hợp... Trí thức không chỉ học mà phải hành. Hành là làm, ứng dụng
kiến thức vào thực tiễn. Học với hành phải đi đôi nghĩa là học và hành không thể
tách rời, phải coi trọng như nhau. “Hành” được đến đâu, điều đó còn tùy thuộc
vào tri thức “học” được phong phú sinh động và sâu sắc thế nào. “Học đi đôi với
hành” vì chúng là hai mặt thống nhất với nhau, bổ sung cho nhau. Đó là hai công
việc thống nhất với nhau trong quá trình học tập. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh “Học
phải đi đôi với hành” chính là nguyên lý, là phương châm giáo dục, đồng thời là
phương pháp học tập đạt hiệu quả cao.
Có
thể thấy, tư tưởng về đội ngũ trí thức trẻ đã thể hiện tầm nhìn chiến lược của
Chủ tịch Hồ Chí Minh, là cơ sở lý luận và thực tiễn cho Đảng, Nhà nước quan
tâm, bồi dưỡng đội ngũ trí thức trẻ. Đồng thời, thể hiện tình cảm, sự quan tâm,
chăm lo, dìu dắt của Chủ tịch Hồ Chí Minh dành cho đội ngũ trí thức trẻ. Tư tưởng
và tình cảm của Người chính là nguồn động lực, khích lệ ý chí, tinh thần, nghị
lực vươn lên chiếm lĩnh những tầm cao mới của đội ngũ trí thức trẻ trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng gặp gỡ trí thức trẻ Việt Nam tại
Pháp (tháng 3-2018). Ảnh: qdnd.vn.
2. Một số thành tựu đạt
được trong việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng đội ngũ trí thức trẻ ở
Việt Nam thời gian qua
Trong
38 năm đổi mới, Đảng và Nhà nước ta đã xây dựng và ban hành nhiều chủ trương,
chính sách, thể hiện quan điểm nhất quán là đẩy mạnh xây dựng và phát huy vai
trò của đội ngũ trí thức trẻ, tạo động lực mạnh mẽ thúc đẩy sự cống hiến, sáng
tạo của họ trong công cuộc đổi mới, đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, hội
nhập quốc tế như: Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 6-8-2008 về xây dựng đội ngũ trí
thức của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, tiếp đó đến Nghị quyết số 20-NQ/TW ngày
31-10-2012 về Phát triển khoa học và công nghệ; Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày
19-5-2018 về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược,
đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ, Nghị quyết 45-NQ/TW ngày
24-11-2023 Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục
xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ trí thức đáp ứng yêu cầu phát triển đất
nước nhanh và bền vững trong giai đoạn mới…
Dưới
sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, các cơ quan, ban, ngành đã thực hiện các chính
sách xây dựng và từng bước hoàn thiện hệ thống đào tạo, nghiên cứu; đổi mới cơ
chế quản lý, tăng cường đầu tư cho sự nghiệp giáo dục và đào tạo, khoa học và
công nghệ, văn hóa và văn nghệ; các chính sách sử dụng và tạo môi trường phát
huy vai trò của đội ngũ trí thức trẻ; chính sách đãi ngộ, tôn vinh trí thức,
các giải thưởng quốc gia, phong tặng các chức danh khoa học và các danh hiệu
cao quý; thu hút trí thức trẻ người Việt Nam ở nước ngoài...
Hằng
năm, Việt Nam đào tạo được hàng trăm nghìn cử nhân, thạc sĩ, tiến sĩ trẻ về các
lĩnh vực, ngành nghề đóng góp vào đội ngũ lao động trình độ cao nguồn lực dồi
dào chất lượng, tăng năng suất lao động đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Hơn thế nữa
đội ngũ trí thức trẻ đã có những đóng góp tích cực trong nhiều mặt đời sống xã
hội, có thể kể đến như nhiều trí thức trẻ Việt Nam đoạt giải cao trong các kỳ
thi khối ASEAN hay quốc tế,... Đội ngũ trí thức trẻ đóng vai trò quan trọng
trong việc sưu tầm, nghiên cứu phổ biến truyền dạy vốn văn hóa - văn nghệ dân
gian các dân tộc Việt Nam góp phần bảo vệ vốn văn hóa truyền thống dân tộc.
Ngoài ra, trên các lĩnh vực nông nghiệp, kinh tế, chính trị, quốc phòng - an
ninh cũng có đông đảo đội ngũ trí thức trẻ tham gia. Nhiều bộ, ban, ngành, cơ
quan, địa phương đã xây dựng, đào tạo, thu hút và sử dụng nguồn nhân lực trí thức
trẻ một cách hiệu quả. Thành phố Hải Phòng, Đà Nẵng có những giải pháp quyết liệt
thu hút, trọng dụng đội ngũ trí thức trẻ.
Những
chủ trương, chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước đã góp phần tích cực thúc
đẩy đội ngũ trí thức trẻ phát triển nhanh cả về số lượng và chất lượng. Hiện
nay, Việt Nam đã mở rộng giáo dục bậc cao (đại học và sau đại học), trước hết
là tăng số lượng các trường đại học, cao đẳng. Tính đến đầu nhiệm kỳ Đại hội
XII của Đảng, cả nước có 460 trường đại học và cao đẳng, bao gồm 224 trường đại
học và 236 trường cao đẳng; tính bình quân mỗi tỉnh, thành phố có khoảng 6,6
trường đại học, cao đẳng, tổng số sinh viên cả nước có khoảng trên 2,2 triệu, đạt
tỷ lệ khoảng 250 sinh viên/1 vạn dân. Trong đó, sinh viên đại học chiếm 66%,
cao đẳng chiếm 34%; nữ sinh chiếm 49,6%; số sinh viên học tập tại các trường
công lập chiếm 85%, các trường ngoài công lập chiếm khoảng 15% tổng số
sinh viên; sinh viên hệ chính quy là 1.962.000. Ngoài ra, có khoảng 80.000
lưu học sinh Việt Nam đang học tập tại gần 40 quốc gia, vùng lãnh thổ trên thế
giới. Đây là lực lượng đông đảo, được đào tạo ở những cơ sở uy tín, đã và đang
là nguồn bổ sung cho đội ngũ trí thức Việt Nam, cũng chính là động lực tiên quyết
để phát triển đội ngũ trí thức Việt Nam và xây dựng đất nước.
Từ
năm 1980 đến năm 2015, sau 24 đợt xét, tổng số lượt giáo sư, phó giáo sư đã được
công nhận ở nước ta là 11.619, trong đó có 1.680 giáo sư và 9.939 phó giáo sư.
Riêng năm 2016 có thêm 65 giáo sư và 638 phó giáo sư được công nhận; năm 2017,
số giáo sư, phó giáo sư đạt chuẩn tăng lên 1.131 người (trong đó giáo sư là 74,
phó giáo sư 1.071); năm 2019: 73 giáo sư, 349 phó giáo sư; năm 2020: 39 giáo
sư, 300 phó giáo sư; năm 2021: 42 giáo sư, 363 phó giáo sư; năm 2022: 34 giáo
sư, 349 phó giáo sư... Đội ngũ trí thức có trình độ chuyên môn học thuật cao hiện
đang công tác, cống hiến trên tất cả các lĩnh vực, đặc biệt tham gia vào hoạt động
giáo dục và đào tạo ở các trường, đại học, học viện và cao đẳng.
Việt
Nam đã chủ động liên kết đào tạo với các nước có nền giáo dục hiện đại trên thế
giới, do đó đội ngũ trí thức trẻ có cơ hội học tập, nghiên cứu, tiếp cận những
tri thức hiện đại nhất, trở thành nguồn chủ lực trong phát triển kinh tế - xã hội,
quốc phòng - an ninh. Đồng thời, tiếp thu những bài học kinh nghiệm về đào tạo
nguồn lực trí thức ở các nước phát triển trên thế giới, Việt Nam đã nhìn nhận
vai trò của các tập đoàn kinh tế, doanh nghiệp không chỉ tham gia vào hoạt động
sản xuất - kinh doanh, mà còn tham gia tích cực vào đào tạo, đào tạo lại và
nâng cao chất lượng theo chiều sâu nguồn nhân lực trí thức.
Bên
cạnh những thành tựu đạt được, việc đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng đội ngũ trí
thức trẻ ở Việt Nam còn một số hạn chế, thiếu sót cần khắc phục như: Việt Nam
chưa có chiến lược tổng thể về đội ngũ trí thức, và về đội ngũ trí thức trẻ -
đây là hạn chế mang tính chất căn cơ dẫn đến tình trạng thiếu đồng bộ, thống nhất
trong quá trình xây dựng đội ngũ trí thức. Nhiều chủ trương, chính sách của Ðảng
và Nhà nước đối với đội ngũ trí thức chậm đi vào cuộc sống. Một số chủ trương,
chính sách không sát với thực tế; có chủ trương, chính sách đúng đắn nhưng thiếu
những chế tài đủ mạnh bảo đảm cho việc thực hiện có kết quả… Việc triển khai
chính sách thu hút, sử dụng trí thức trẻ thiếu tính đồng bộ. Một thực tế tồn tại
phổ biến ở nhiều ngành, địa phương hiện nay là coi trọng việc thu hút trí thức
trẻ nhưng lại chưa coi trọng việc sử dụng họ. Mặt khác, chính sách thu hút, trọng
dụng trí thức trẻ do các địa phương xây dựng vẫn nặng tính hình thức, chưa được
nghiên cứu kỹ lưỡng, chưa được tổng kết trong thực tế triển khai để đánh giá hiệu
quả của chính sách. Đặc biệt, để giữ chân người tài làm việc trong nền công vụ
thì các văn bản của các bộ, ngành và địa phương mới chỉ chú trọng đến xây dựng
chính sách thu hút mà chưa quan tâm chú trọng đến việc sử dụng, đãi ngộ và trọng
dụng họ. Hiện tượng bất hợp lý và lãng phí “chất xám” của đội ngũ trí thức trẻ
sẽ vẫn tiếp tục diễn ra nếu đơn vị, địa phương “trải thảm đỏ” để thu hút nhân
tài về làm việc nhưng bố trí, sắp xếp họ không đúng chuyên môn, năng lực và sở
trường công tác.
Hạn
chế trên xuất phát từ một số nguyên nhân cơ bản như: một số cấp uỷ đảng, chính
quyền và cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp chưa nhận thức đúng về tầm quan trọng
của việc xây dựng đội ngũ trí thức trẻ nói chung, cũng như chưa thấy được vai
trò, vị trí của đội ngũ trí thức trẻ nói riêng dẫn đến việc đánh giá, sử dụng họ
không đúng năng lực và trình độ, dẫn đến "tâm tư" trong một bộ phận
trí thức trẻ; bản thân một số trí thức trẻ chưa thấy được hết tầm quan trọng và
trách nhiệm của mình trong quá trình hội nhập quốc tế; môi trường làm việc ở một
số nơi còn thiếu dân chủ, thiếu tự do sáng tạo, nhất là đối với đội ngũ trí thức
trẻ thuộc lĩnh vực khoa học xã hội và văn nghệ sĩ; cho đến nay chưa có một văn
bản có tính hệ thống như một nghị quyết hoặc một chiến lược riêng về công tác
này.
Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính cùng đại diện trí thức Việt
kiều, thanh niên, sinh viên Việt Nam và cán bộ, nhân viên cơ quan đại diện Việt
Nam tại New York, chiều 15-5-2022. Ảnh: VGP/Nhật Bắc.
3. Giải pháp vận dụng tư
tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng đội ngũ trí thức trẻ nhằm đáp ứng yêu cầu Cách mạng
công nghiệp 4.0
Một là, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nâng
cao nhận thức về vai trò của trí thức trẻ trong Cách mạng công nghiệp 4.0. Hiện
nay, việc nâng cao nhận thức của xã hội về vị trí và vai trò của đội ngũ trí thức
trẻ phải được xem là giải pháp mang tính tổng thể, tác động lâu dài và cần duy
trì thường xuyên. Vì thế, để thực hiện hiệu quả giải pháp này cần tập trung giải
quyết một số nhiệm vụ cơ bản: (i) Tiếp tục đổi
mới tuyên truyền nhằm nâng cao nhận thức của các cấp chính quyền và nhân dân về
vị trí, vai trò của đội ngũ trí thức trẻ. Luôn phải khẳng định công tác tư tưởng
cần được thực hiện thường xuyên và phải gắn với việc giải quyết một cách thỏa
đáng vấn đề lợi ích. (ii) Đội ngũ trí thức
trẻ không ngừng nâng cao nhận thức về vai trò của mình trong giai đoạn hiện
nay: thường xuyên nâng cao năng lực chuyên môn và nhận thức rõ vai trò, trách
nhiệm của mình trước đòi hỏi của sự nghiệp CNH, HĐH; phải tự giác sửa chữa những
khuyết điểm, khắc phục những hạn chế trong tư duy, cách nghĩ để tham gia một
cách tích cực vào quá trình xây dựng và phát triển đất nước.
Hai là, xây dựng và hoàn thiện chính sách
đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ trí thức trẻ, nhất là những tài năng trẻ. Việc
nghiên cứu đề xuất các giải pháp liên quan đến giáo dục là những giải pháp căn
bản, nền tảng, có ý nghĩa chiến lược trong xây dựng đội ngũ trí thức trẻ ở Việt
Nam. Để làm được điều đó, cần thực hiện một số giải pháp cơ bản sau: xây dựng
chiến lược đào tạo, bồi dưỡng nhân tài đáp ứng yêu cầu phát triển của cuộc Cách
mạng công nghiệp 4.0; tạo ra những chuyển biến căn bản trong giáo dục đại học
và sau đại học; hoàn thiện chính sách thu hút, sử dụng, trọng dụng, đãi ngộ và
tôn vinh đội ngũ trí thức trẻ, trong đó cần có cơ chế, chính sách đặc biệt thu
hút, đãi ngộ và tôn vinh đội ngũ trí thức trẻ có trình độ chuyên môn cao đang
làm việc ở nước ngoài về nước; tạo môi trường thuận lợi cho trí thức trẻ phát
huy năng lực của bản thân trước yêu cầu của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0. Để
được như như vậy cần thực hiện một số giải pháp cụ thể sau: Tiếp tục cụ thể hóa
quy chế dân chủ trong hoạt động khoa học, văn hóa, văn nghệ; xây dựng quy chế
nhằm phát huy chức năng phản biện của đội ngũ trí thức dưới nhiều hình thức
khác nhau, đặc biệt là trí thức trẻ. Thực hiện được giải pháp này là một việc rất
khó khăn nhưng lại có ý nghĩa lớn trong việc khơi dậy và phát huy được tiềm
năng sáng tạo của đội ngũ trí thức trẻ trong quá trình phát triển của đất nước.
Ba là, tập trung nguồn lực để thu hút, sử dụng,
trọng dụng, đãi ngộ và tôn vinh đội ngũ trí thức trẻ. Thực tiễn cho thấy, muốn
họ phát huy được tiềm năng và vai trò của mình thì cần phải thực hiện đồng bộ
chính sách thu hút, sử dụng, đãi ngộ và tôn vinh, cụ thể: tiếp tục đổi mới cơ
chế quản lý của Nhà nước về thu hút, sử dụng trí thức, nhất là việc tuyển dụng
các vị trí công việc cần thực hiện một cách công khai, minh bạch, có tiêu chí
rõ ràng. Mặt khác, việc tuyển dụng cần xóa bỏ tư duy bằng cấp mà quan tâm nhiều
hơn vào năng lực thực tiễn và khả năng tư duy, sáng tạo để thu nhận được những
người có thực lực; trọng dụng đội ngũ trí thức trẻ tài năng, có chế độ khuyến
khích và ưu đãi đội ngũ trí thức trẻ chuyên môn giỏi và tâm huyết. Việc xây dựng
lực lượng và trọng dụng đội ngũ trí thức trẻ là nhiệm vụ hết sức quan trọng, vì
lực lượng trí thức trẻ chính là chủ nhân tương lai của đất nước, là thế hệ sẽ
duy trì truyền thống và quyết định vận mệnh của dân tộc trong những chặng đường
phát triển tiếp theo. Cần đổi mới chính sách đãi ngộ về vật chất đối với đội
ngũ trí thức. Chế độ đãi ngộ đó không những phải bảo đảm cho họ được yên tâm về
nhu cầu của bản thân và gia đình mà còn phải mang lại cho họ những chế độ
chuyên biệt, đãi ngộ riêng như là ghi nhận của xã hội về công sức, tài năng của
họ trong xã hội. Muốn vậy, cần cải cách chế độ tiền lương cho đội ngũ trí thức,
nhất là đội ngũ trí thức trẻ mới ra trường. Ngoài cải cách chế độ tiền lương,
còn cần có những hỗ trợ vật chất khác cho đội ngũ trí thức trẻ mang tính đặc
thù; đổi mới chính sách tôn vinh về tinh thần đối với đội ngũ trí thức. Để làm
được điều đó, cần đơn giản hóa các thủ tục hành chính khi xét các danh hiệu đối
với đội ngũ trí thức; đổi mới cơ chế xét công nhận chức danh chuyên môn khoa học
bảo đảm đúng người, đúng đối tượng, tránh tình trạng bỏ sót người tài, người có
cống hiến; đặc biệt tránh định kiến, khắt khe khi xét giải thưởng hay phong tặng
với đội ngũ trí thức trẻ có nhiều cống hiến.
Bốn là, tạo môi trường thuận lợi, lành mạnh
để phát huy tính độc lập, sáng tạo của đội ngũ trí thức trẻ trước yêu cầu của
cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0. Môi trường làm việc thuận lợi, lành mạnh là một
yếu tố có vai trò quan trọng. Nó có thể tác động, thúc đẩy hoặc kìm hãm năng lực
sáng tạo và cống hiến của họ. Trong đó, môi trường dân chủ là yếu tố có tác động
mạnh mẽ nhất bởi ở đó người trí thức được tự do sáng tạo, được trình bày, bảo vệ
quan điểm nghiêm túc của mình. Muốn xây dựng được môi trường như vậy, cần thực
hiện một số biện pháp cụ thể: cụ thể hóa quy chế dân chủ trong hoạt động khoa học,
văn hóa, văn nghệ theo quy định của Đảng, Nhà nước; xây dựng quy chế nhằm phát
huy chức năng phản biện của đội ngũ trí thức dưới nhiều hình thức khác nhau, đặc
biệt là trí thức trẻ…
Năm là, tích cực phát huy tinh thần chủ động,
tích cực của đội ngũ trí thức trẻ trước yêu cầu của Cách mạng công nghiệp 4.0
và sự phát triển bền vững của đất nước: Thời gian tới, cần đặt lên vai đội ngũ
trí thức trẻ những trọng trách và trách nhiệm to lớn đối với xã hội, được thể
hiện thông qua các diễn đàn để phản biện xã hội, nhưng để quá trình phản biện
xã hội có tính hiệu quả thì những phản biện của trí thức trẻ phải là những phản
biện có tính xây dựng, cần có tổ chức, có phương thức tham vấn phù hợp; giáo dục
cho đội ngũ trí thức trẻ sự nhận thức đúng đắn, đầy đủ về cuộc Cách mạng công
nghiệp 4.0 cũng như xu hướng phát triển và những tác động tích cực hay tiêu cực
của nó đối với đời sống kinh tế - xã hội; xác định rõ năng lực, sở trường của
mình để lựa chọn những ngành nghề phù hợp, ưu tiên những ngành nghề đáp ứng được
những yêu cầu của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0. Chủ động trước những xu hướng
thay đổi, vận động của thị trường lao động hoặc những thay đổi công nghệ của cuộc
Cách mạng công nghiệp 4.0 đem lại; tích cực học tập, rèn luyện kỹ năng và nâng
cao năng lực bản thân cũng như chủ động tìm hiểu về các yêu cầu của cuộc Cách mạng
công nghiệp 4.0 để không bị lạc hậu và có thể trở thành công dân toàn cầu; chủ
động, sáng tạo, linh hoạt và làm chủ kỹ năng để có khả năng làm việc với công
nghệ hiện đại, thích ứng với sự thay đổi nhanh chóng trong phương thức sản xuất
mới, phương thức giao tiếp mới của xã hội, phong cách sống mới của thời đại.
(theo www.xaydungdang.org.vn)
----------------------
[1] [3] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị
quốc gia, H.2011, t.5, tr.216.
[2] Sách đã dẫn (Sđd), t.4, tr. 194.
[4] Sđd, t.12, tr.530.
[5] Sđd, t.5, tr.312.
Tài liệu tham khảo:
[1] Bộ
Giáo dục và Đào tạo: Tổng hợp số liệu thống kê của các cơ sở giáo dục đại học,
2018.
[2] Phạm
Đức Duy (2016), Phát triển nguồn nhân lực cao ở Hải Phòng: Cơ hội và thách thức,
Tạp chí Tài chính, số tháng 5-2016.
[3] Đảng
Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa
X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008.
[4] Đảng
Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng
Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016.
[5] Đinh
Ngọc Giang (2015), Thu hút và trọng dụng nhân tài trong giai đoạn hiện nay,
http://tcnn.vn/news/detail/19537/Thu_hut_va_trong_dung_nhan_tai_trong_giai_doan_hien_nayall.html.
[6] Hồng
Hạnh: 225.000 cử nhân, thạc sĩ thất nghiệp: Hệ quả của mở trường đại học ồ ạt,
http://dantri.com.vn, ngày 31-5-2016.
[7] Hồ
Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H.2011.
[8] Lan
Phương: Hợp tác quốc tế trong đào tạo nguồn nhân lực - Tác động tích cực đến
giáo dục đại học,
http://www.vanlanguni.edu.vn/giao-duc-dai-hoc-2/941-hop-tac-quoc-te-trong-dao-tao-nhan-luc-tac-dong-tich-cuc-den-giao-duc-dai-hoc.
[9] Phạm
Thành Nghị, Vũ Hoàng Ngân: Quản lý nguồn nhân lực ở Việt Nam: Một số vấn đề lý
luận và thực tiễn, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2004.
[10]
Lê Thị Sự: Trí thức và vai trò của trí thức
trong sự phát triển của Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ triết học, Học viện
khoa học xã hội, Viện hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, Hà Nội, 2028.
[11]
Lê Văn Thắng, Nguyễn Văn Tuân: Trí thức Việt
Nam với cách mạng công nghiệp 4.0, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2019.
[12]
Nguyễn Văn Tuân, Trần Mạnh Thắng, Cao Thị
Phương: Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng đội ngũ trí thức và sự vận dụng vào việc
xây dựng đội ngũ trí thức trẻ ở Việt Nam nhằm đáp ứng yêu cầu của cuộc Cách mạng
công nghiệp 4.0, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2020.
[13]
http://hhtp.gov.vn: Nghị quyết của Bộ Chính
trị về chủ động tham gia Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, 1-10-2019.