Thứ Sáu, ngày 25/10/2024, 09:02

Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào xây dựng và phát triển đội ngũ trí thức trẻ ở Việt Nam đáp ứng yêu cầu Cách mạng công nghiệp 4.0

NCS. Cao Thị Phương
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng vị trí, tầm quan trọng của đội ngũ trí thức nói chung, đội ngũ trí thức trẻ nói riêng đối với sự nghiệp đấu tranh chống giặc ngoại xâm thống nhất đất nước và kiến thiết, dựng xây nước nhà. Bối cảnh hiện nay, đáp ứng xu thế phát triển với tác động của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, việc nghiên cứu và vận dụng linh hoạt, sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng đội ngũ trí thức trẻ sẽ tạo động lực để Việt Nam phát triển nhanh và bền vững.

Chủ tịch Hồ Chí Minh với đại biểu trí thức dự Hội nghị Chính trị đặc biệt tháng 3-1964. Ảnh tư liệu.

Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Trí thức là vốn liếng quý báu của dân tộc. Ở nước khác như thế, ở Việt Nam càng như thế”. Việc nghiên cứu, vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh là cơ sở lý luận giúp Đảng, Nhà nước tiếp tục xây dựng, hoàn thiện chủ trương, chính sách về xây dựng, phát triển đội ngũ trí thức trẻ đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước nhanh, bền vững trong bối cảnh tác động của Cách mạng công nghiệp 4.0.

1. Một số nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng và phát triển đội ngũ trí thức trẻ

Về vị trí, vai trò của đội ngũ trí thức trẻ, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: “Thanh niên là người chủ tương lai của nước nhà. Thật vậy, nước nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh một phần lớn là do các thanh niên”[1]. Trong Thư gửi thanh niên và nhi đồng toàn quốc nhân dịp Tết sắp đến (tháng 1-1946), Người viết: “Một năm khởi đầu từ mùa xuân. Một đời khởi đầu từ tuổi trẻ. Tuổi trẻ là mùa xuân của xã hội”[2]. Suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn dành tình cảm đặc biệt cho thanh niên, nhất là thanh niên trí thức qua việc bồi dưỡng, giáo dục, rèn luyện.

Theo Người, trí thức trẻ là một bộ phận quan trọng của đội ngũ trí thức Việt Nam, là lực lượng tiên phong trong đội ngũ thanh niên. Họ là lực lượng có tinh thần yêu nước nồng nàn, có khát vọng ý chí vươn lên, có đạo đức cách mạng trong sáng, dám nghĩ, dám làm, dám hy sinh; có vị trí, vai trò quan trọng trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng, thống nhất dân tộc và kiến thiết nước nhà. Đồng thời, họ đang công tác, hoạt động và nghiên cứu ở nhiều lĩnh vực kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh,… quan trọng của đất nước.

Về trách nhiệm của đội ngũ trí thức trẻ, Người nhắc nhở: “Thanh niên muốn làm người chủ tương lai cho xứng đáng thì ngay hiện tại phải rèn luyện tinh thần và lực lượng của mình, phải ra làm việc để chuẩn bị cái tương lai đó”[3] và "Để thật xứng đáng là người chủ của một nước xã hội chủ nghĩa, thanh niên ta quyết tâm thực hiện mấy điều sau đây: Phải thấm nhuần đạo đức cách mạng tức là khiêm tốn, đoàn kết, thực hành chủ nghĩa tập thể, thương yêu, giúp đỡ lẫn nhau, người tiên tiến thì giúp đỡ người kém, người kém phải cố gắng để tiến lên, ra sức cần kiệm xây dựng nước nhà; phải nghiêm khắc chống chủ nghĩa cá nhân như tự tư tự lợi, tự kiêu, tự mãn, chỉ tham việc gì có danh tiếng, xem khinh những công việc bình thường. Phải chống tham ô, lãng phí; phải cố gắng học hỏi để không ngừng nâng cao trình độ chính trị, văn hóa và kỹ thuật để phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân”[4].

Về mục tiêu và khát vọng, Hồ Chí Minh nhấn mạnh đến: (1) Mục tiêu xây dựng đội ngũ trí thức trẻ: Trí thức trẻ phải gắn với vận mệnh dân tộc, thể hiện nghĩa vụ và trách nhiệm của mình với đất nước; (2) Đội ngũ trí thức trẻ phải gắn bó thường xuyên, mật thiết với nhân dân, trên tinh thần khiêm tốn học hỏi những điều hay lẽ phải, vì tuổi trẻ đôi khi chưa có kinh nghiệm muốn khẳng định mình dễ dẫn đến vội vàng, nhất là đội ngũ trí thức trẻ thuần túy về khoa học, kỹ thuật. Nhận xét về thanh niên, trong đó có thanh niên trí thức, Người cho rằng: “Ưu điểm của thanh niên ta là hăng hái, giàu tinh thần xung phong. Khuyết điểm là ham chuộng hình thức, thiếu thực tế, bệnh cá nhân, bệnh anh hùng. Rất mong toàn thể thanh niên ta ra sức phát triển những ưu điểm và tẩy sạch những khuyết điểm ấy. Huy hiệu của thanh niên ta là “tay cầm cờ đỏ sao vàng tiến lên”; (3) Đội ngũ trí thức trẻ nhiệt huyết, khao khát được cống hiến để khẳng định mình và phục vụ cho Tổ quốc. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, đội ngũ trí thức trẻ là những người có học vấn, có năng lực sáng tạo, hoài bão lớn, dám làm những việc lớn, ích nước, lợi dân; (4) Đội ngũ trí thức trẻ năng động, chủ động kết bạn với các quốc gia trên thế giới; (5) Coi trọng giáo dục đạo đức, lý tưởng cách mạng cho trí thức trẻ.

Về quan điểm xây dựng đội ngũ trí thức trẻ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến việc đào tạo đội ngũ trí thức cho cách mạng, đề ra phương châm vừa cải tạo và sử dụng những trí thức cũ, vừa xây dựng và phát triển lực lượng trí thức mới. Người đã rất đề cao, coi trọng người trí thức, các biện pháp, chính sách động viên, khuyến khích đội ngũ trí thức tham gia vào sự nghiệp cách mạng; đào tạo trí thức mới, cải tạo trí thức cũ, để xây dựng đội ngũ trí thức có phẩm chất khoa học, có đạo đức và năng lực thực tiễn cao.

Trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Sắp xếp thời gian và bài học… phải cho khéo, phải có mạch lạc với nhau, mà không xung đột với nhau”[5]. Trí thức trẻ luôn phải trau dồi, học tập, lĩnh hội kho tàng tri thức của nhân loại là vô tận, người học phải biết chọn lựa nội dung phù hợp... Trí thức không chỉ học mà phải hành. Hành là làm, ứng dụng kiến thức vào thực tiễn. Học với hành phải đi đôi nghĩa là học và hành không thể tách rời, phải coi trọng như nhau. “Hành” được đến đâu, điều đó còn tùy thuộc vào tri thức “học” được phong phú sinh động và sâu sắc thế nào. “Học đi đôi với hành” vì chúng là hai mặt thống nhất với nhau, bổ sung cho nhau. Đó là hai công việc thống nhất với nhau trong quá trình học tập. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh “Học phải đi đôi với hành” chính là nguyên lý, là phương châm giáo dục, đồng thời là phương pháp học tập đạt hiệu quả cao.

Có thể thấy, tư tưởng về đội ngũ trí thức trẻ đã thể hiện tầm nhìn chiến lược của Chủ tịch Hồ Chí Minh, là cơ sở lý luận và thực tiễn cho Đảng, Nhà nước quan tâm, bồi dưỡng đội ngũ trí thức trẻ. Đồng thời, thể hiện tình cảm, sự quan tâm, chăm lo, dìu dắt của Chủ tịch Hồ Chí Minh dành cho đội ngũ trí thức trẻ. Tư tưởng và tình cảm của Người chính là nguồn động lực, khích lệ ý chí, tinh thần, nghị lực vươn lên chiếm lĩnh những tầm cao mới của đội ngũ trí thức trẻ trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng gặp gỡ trí thức trẻ Việt Nam tại Pháp (tháng 3-2018). Ảnh: qdnd.vn.

2. Một số thành tựu đạt được trong việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng đội ngũ trí thức trẻ ở Việt Nam thời gian qua

Trong 38 năm đổi mới, Đảng và Nhà nước ta đã xây dựng và ban hành nhiều chủ trương, chính sách, thể hiện quan điểm nhất quán là đẩy mạnh xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ trí thức trẻ, tạo động lực mạnh mẽ thúc đẩy sự cống hiến, sáng tạo của họ trong công cuộc đổi mới, đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, hội nhập quốc tế như: Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 6-8-2008 về xây dựng đội ngũ trí thức của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, tiếp đó đến Nghị quyết số 20-NQ/TW ngày 31-10-2012 về Phát triển khoa học và công nghệ; Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 19-5-2018 về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ, Nghị quyết 45-NQ/TW ngày 24-11-2023 Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ trí thức đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước nhanh và bền vững trong giai đoạn mới…

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, các cơ quan, ban, ngành đã thực hiện các chính sách xây dựng và từng bước hoàn thiện hệ thống đào tạo, nghiên cứu; đổi mới cơ chế quản lý, tăng cường đầu tư cho sự nghiệp giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, văn hóa và văn nghệ; các chính sách sử dụng và tạo môi trường phát huy vai trò của đội ngũ trí thức trẻ; chính sách đãi ngộ, tôn vinh trí thức, các giải thưởng quốc gia, phong tặng các chức danh khoa học và các danh hiệu cao quý; thu hút trí thức trẻ người Việt Nam ở nước ngoài...

Hằng năm, Việt Nam đào tạo được hàng trăm nghìn cử nhân, thạc sĩ, tiến sĩ trẻ về các lĩnh vực, ngành nghề đóng góp vào đội ngũ lao động trình độ cao nguồn lực dồi dào chất lượng, tăng năng suất lao động đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Hơn thế nữa đội ngũ trí thức trẻ đã có những đóng góp tích cực trong nhiều mặt đời sống xã hội, có thể kể đến như nhiều trí thức trẻ Việt Nam đoạt giải cao trong các kỳ thi khối ASEAN hay quốc tế,... Đội ngũ trí thức trẻ đóng vai trò quan trọng trong việc sưu tầm, nghiên cứu phổ biến truyền dạy vốn văn hóa - văn nghệ dân gian các dân tộc Việt Nam góp phần bảo vệ vốn văn hóa truyền thống dân tộc. Ngoài ra, trên các lĩnh vực nông nghiệp, kinh tế, chính trị, quốc phòng - an ninh cũng có đông đảo đội ngũ trí thức trẻ tham gia. Nhiều bộ, ban, ngành, cơ quan, địa phương đã xây dựng, đào tạo, thu hút và sử dụng nguồn nhân lực trí thức trẻ một cách hiệu quả. Thành phố Hải Phòng, Đà Nẵng có những giải pháp quyết liệt thu hút, trọng dụng đội ngũ trí thức trẻ.

Những chủ trương, chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước đã góp phần tích cực thúc đẩy đội ngũ trí thức trẻ phát triển nhanh cả về số lượng và chất lượng. Hiện nay, Việt Nam đã mở rộng giáo dục bậc cao (đại học và sau đại học), trước hết là tăng số lượng các trường đại học, cao đẳng. Tính đến đầu nhiệm kỳ Đại hội XII của Đảng, cả nước có 460 trường đại học và cao đẳng, bao gồm 224 trường đại học và 236 trường cao đẳng; tính bình quân mỗi tỉnh, thành phố có khoảng 6,6 trường đại học, cao đẳng, tổng số sinh viên cả nước có khoảng trên 2,2 triệu, đạt tỷ lệ khoảng 250 sinh viên/1 vạn dân. Trong đó, sinh viên đại học chiếm 66%, cao đẳng chiếm 34%; nữ sinh chiếm 49,6%; số sinh viên học tập tại các trường công lập chiếm 85%, các trường ngoài công lập chiếm khoảng 15% tổng số sinh viên; sinh viên hệ chính quy là 1.962.000. Ngoài ra, có khoảng 80.000 lưu học sinh Việt Nam đang học tập tại gần 40 quốc gia, vùng lãnh thổ trên thế giới. Đây là lực lượng đông đảo, được đào tạo ở những cơ sở uy tín, đã và đang là nguồn bổ sung cho đội ngũ trí thức Việt Nam, cũng chính là động lực tiên quyết để phát triển đội ngũ trí thức Việt Nam và xây dựng đất nước.

Từ năm 1980 đến năm 2015, sau 24 đợt xét, tổng số lượt giáo sư, phó giáo sư đã được công nhận ở nước ta là 11.619, trong đó có 1.680 giáo sư và 9.939 phó giáo sư. Riêng năm 2016 có thêm 65 giáo sư và 638 phó giáo sư được công nhận; năm 2017, số giáo sư, phó giáo sư đạt chuẩn tăng lên 1.131 người (trong đó giáo sư là 74, phó giáo sư 1.071); năm 2019: 73 giáo sư, 349 phó giáo sư; năm 2020: 39 giáo sư, 300 phó giáo sư; năm 2021: 42 giáo sư, 363 phó giáo sư; năm 2022: 34 giáo sư, 349 phó giáo sư... Đội ngũ trí thức có trình độ chuyên môn học thuật cao hiện đang công tác, cống hiến trên tất cả các lĩnh vực, đặc biệt tham gia vào hoạt động giáo dục và đào tạo ở các trường, đại học, học viện và cao đẳng.

Việt Nam đã chủ động liên kết đào tạo với các nước có nền giáo dục hiện đại trên thế giới, do đó đội ngũ trí thức trẻ có cơ hội học tập, nghiên cứu, tiếp cận những tri thức hiện đại nhất, trở thành nguồn chủ lực trong phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh. Đồng thời, tiếp thu những bài học kinh nghiệm về đào tạo nguồn lực trí thức ở các nước phát triển trên thế giới, Việt Nam đã nhìn nhận vai trò của các tập đoàn kinh tế, doanh nghiệp không chỉ tham gia vào hoạt động sản xuất - kinh doanh, mà còn tham gia tích cực vào đào tạo, đào tạo lại và nâng cao chất lượng theo chiều sâu nguồn nhân lực trí thức.

Bên cạnh những thành tựu đạt được, việc đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng đội ngũ trí thức trẻ ở Việt Nam còn một số hạn chế, thiếu sót cần khắc phục như: Việt Nam chưa có chiến lược tổng thể về đội ngũ trí thức, và về đội ngũ trí thức trẻ - đây là hạn chế mang tính chất căn cơ dẫn đến tình trạng thiếu đồng bộ, thống nhất trong quá trình xây dựng đội ngũ trí thức. Nhiều chủ trương, chính sách của Ðảng và Nhà nước đối với đội ngũ trí thức chậm đi vào cuộc sống. Một số chủ trương, chính sách không sát với thực tế; có chủ trương, chính sách đúng đắn nhưng thiếu những chế tài đủ mạnh bảo đảm cho việc thực hiện có kết quả… Việc triển khai chính sách thu hút, sử dụng trí thức trẻ thiếu tính đồng bộ. Một thực tế tồn tại phổ biến ở nhiều ngành, địa phương hiện nay là coi trọng việc thu hút trí thức trẻ nhưng lại chưa coi trọng việc sử dụng họ. Mặt khác, chính sách thu hút, trọng dụng trí thức trẻ do các địa phương xây dựng vẫn nặng tính hình thức, chưa được nghiên cứu kỹ lưỡng, chưa được tổng kết trong thực tế triển khai để đánh giá hiệu quả của chính sách. Đặc biệt, để giữ chân người tài làm việc trong nền công vụ thì các văn bản của các bộ, ngành và địa phương mới chỉ chú trọng đến xây dựng chính sách thu hút mà chưa quan tâm chú trọng đến việc sử dụng, đãi ngộ và trọng dụng họ. Hiện tượng bất hợp lý và lãng phí “chất xám” của đội ngũ trí thức trẻ sẽ vẫn tiếp tục diễn ra nếu đơn vị, địa phương “trải thảm đỏ” để thu hút nhân tài về làm việc nhưng bố trí, sắp xếp họ không đúng chuyên môn, năng lực và sở trường công tác.

Hạn chế trên xuất phát từ một số nguyên nhân cơ bản như: một số cấp uỷ đảng, chính quyền và cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp chưa nhận thức đúng về tầm quan trọng của việc xây dựng đội ngũ trí thức trẻ nói chung, cũng như chưa thấy được vai trò, vị trí của đội ngũ trí thức trẻ nói riêng dẫn đến việc đánh giá, sử dụng họ không đúng năng lực và trình độ, dẫn đến "tâm tư" trong một bộ phận trí thức trẻ; bản thân một số trí thức trẻ chưa thấy được hết tầm quan trọng và trách nhiệm của mình trong quá trình hội nhập quốc tế; môi trường làm việc ở một số nơi còn thiếu dân chủ, thiếu tự do sáng tạo, nhất là đối với đội ngũ trí thức trẻ thuộc lĩnh vực khoa học xã hội và văn nghệ sĩ; cho đến nay chưa có một văn bản có tính hệ thống như một nghị quyết hoặc một chiến lược riêng về công tác này.

Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính cùng đại diện trí thức Việt kiều, thanh niên, sinh viên Việt Nam và cán bộ, nhân viên cơ quan đại diện Việt Nam tại New York, chiều 15-5-2022. Ảnh: VGP/Nhật Bắc.

3. Giải pháp vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng đội ngũ trí thức trẻ nhằm đáp ứng yêu cầu Cách mạng công nghiệp 4.0

Một là, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức về vai trò của trí thức trẻ trong Cách mạng công nghiệp 4.0. Hiện nay, việc nâng cao nhận thức của xã hội về vị trí và vai trò của đội ngũ trí thức trẻ phải được xem là giải pháp mang tính tổng thể, tác động lâu dài và cần duy trì thường xuyên. Vì thế, để thực hiện hiệu quả giải pháp này cần tập trung giải quyết một số nhiệm vụ cơ bản: (i) Tiếp tục đổi mới tuyên truyền nhằm nâng cao nhận thức của các cấp chính quyền và nhân dân về vị trí, vai trò của đội ngũ trí thức trẻ. Luôn phải khẳng định công tác tư tưởng cần được thực hiện thường xuyên và phải gắn với việc giải quyết một cách thỏa đáng vấn đề lợi ích. (ii) Đội ngũ trí thức trẻ không ngừng nâng cao nhận thức về vai trò của mình trong giai đoạn hiện nay: thường xuyên nâng cao năng lực chuyên môn và nhận thức rõ vai trò, trách nhiệm của mình trước đòi hỏi của sự nghiệp CNH, HĐH; phải tự giác sửa chữa những khuyết điểm, khắc phục những hạn chế trong tư duy, cách nghĩ để tham gia một cách tích cực vào quá trình xây dựng và phát triển đất nước.

Hai là, xây dựng và hoàn thiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ trí thức trẻ, nhất là những tài năng trẻ. Việc nghiên cứu đề xuất các giải pháp liên quan đến giáo dục là những giải pháp căn bản, nền tảng, có ý nghĩa chiến lược trong xây dựng đội ngũ trí thức trẻ ở Việt Nam. Để làm được điều đó, cần thực hiện một số giải pháp cơ bản sau: xây dựng chiến lược đào tạo, bồi dưỡng nhân tài đáp ứng yêu cầu phát triển của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0; tạo ra những chuyển biến căn bản trong giáo dục đại học và sau đại học; hoàn thiện chính sách thu hút, sử dụng, trọng dụng, đãi ngộ và tôn vinh đội ngũ trí thức trẻ, trong đó cần có cơ chế, chính sách đặc biệt thu hút, đãi ngộ và tôn vinh đội ngũ trí thức trẻ có trình độ chuyên môn cao đang làm việc ở nước ngoài về nước; tạo môi trường thuận lợi cho trí thức trẻ phát huy năng lực của bản thân trước yêu cầu của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0. Để được như như vậy cần thực hiện một số giải pháp cụ thể sau: Tiếp tục cụ thể hóa quy chế dân chủ trong hoạt động khoa học, văn hóa, văn nghệ; xây dựng quy chế nhằm phát huy chức năng phản biện của đội ngũ trí thức dưới nhiều hình thức khác nhau, đặc biệt là trí thức trẻ. Thực hiện được giải pháp này là một việc rất khó khăn nhưng lại có ý nghĩa lớn trong việc khơi dậy và phát huy được tiềm năng sáng tạo của đội ngũ trí thức trẻ trong quá trình phát triển của đất nước.

Ba là, tập trung nguồn lực để thu hút, sử dụng, trọng dụng, đãi ngộ và tôn vinh đội ngũ trí thức trẻ. Thực tiễn cho thấy, muốn họ phát huy được tiềm năng và vai trò của mình thì cần phải thực hiện đồng bộ chính sách thu hút, sử dụng, đãi ngộ và tôn vinh, cụ thể: tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý của Nhà nước về thu hút, sử dụng trí thức, nhất là việc tuyển dụng các vị trí công việc cần thực hiện một cách công khai, minh bạch, có tiêu chí rõ ràng. Mặt khác, việc tuyển dụng cần xóa bỏ tư duy bằng cấp mà quan tâm nhiều hơn vào năng lực thực tiễn và khả năng tư duy, sáng tạo để thu nhận được những người có thực lực; trọng dụng đội ngũ trí thức trẻ tài năng, có chế độ khuyến khích và ưu đãi đội ngũ trí thức trẻ chuyên môn giỏi và tâm huyết. Việc xây dựng lực lượng và trọng dụng đội ngũ trí thức trẻ là nhiệm vụ hết sức quan trọng, vì lực lượng trí thức trẻ chính là chủ nhân tương lai của đất nước, là thế hệ sẽ duy trì truyền thống và quyết định vận mệnh của dân tộc trong những chặng đường phát triển tiếp theo. Cần đổi mới chính sách đãi ngộ về vật chất đối với đội ngũ trí thức. Chế độ đãi ngộ đó không những phải bảo đảm cho họ được yên tâm về nhu cầu của bản thân và gia đình mà còn phải mang lại cho họ những chế độ chuyên biệt, đãi ngộ riêng như là ghi nhận của xã hội về công sức, tài năng của họ trong xã hội. Muốn vậy, cần cải cách chế độ tiền lương cho đội ngũ trí thức, nhất là đội ngũ trí thức trẻ mới ra trường. Ngoài cải cách chế độ tiền lương, còn cần có những hỗ trợ vật chất khác cho đội ngũ trí thức trẻ mang tính đặc thù; đổi mới chính sách tôn vinh về tinh thần đối với đội ngũ trí thức. Để làm được điều đó, cần đơn giản hóa các thủ tục hành chính khi xét các danh hiệu đối với đội ngũ trí thức; đổi mới cơ chế xét công nhận chức danh chuyên môn khoa học bảo đảm đúng người, đúng đối tượng, tránh tình trạng bỏ sót người tài, người có cống hiến; đặc biệt tránh định kiến, khắt khe khi xét giải thưởng hay phong tặng với đội ngũ trí thức trẻ có nhiều cống hiến.

Bốn là, tạo môi trường thuận lợi, lành mạnh để phát huy tính độc lập, sáng tạo của đội ngũ trí thức trẻ trước yêu cầu của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0. Môi trường làm việc thuận lợi, lành mạnh là một yếu tố có vai trò quan trọng. Nó có thể tác động, thúc đẩy hoặc kìm hãm năng lực sáng tạo và cống hiến của họ. Trong đó, môi trường dân chủ là yếu tố có tác động mạnh mẽ nhất bởi ở đó người trí thức được tự do sáng tạo, được trình bày, bảo vệ quan điểm nghiêm túc của mình. Muốn xây dựng được môi trường như vậy, cần thực hiện một số biện pháp cụ thể: cụ thể hóa quy chế dân chủ trong hoạt động khoa học, văn hóa, văn nghệ theo quy định của Đảng, Nhà nước; xây dựng quy chế nhằm phát huy chức năng phản biện của đội ngũ trí thức dưới nhiều hình thức khác nhau, đặc biệt là trí thức trẻ…

Năm là, tích cực phát huy tinh thần chủ động, tích cực của đội ngũ trí thức trẻ trước yêu cầu của Cách mạng công nghiệp 4.0 và sự phát triển bền vững của đất nước: Thời gian tới, cần đặt lên vai đội ngũ trí thức trẻ những trọng trách và trách nhiệm to lớn đối với xã hội, được thể hiện thông qua các diễn đàn để phản biện xã hội, nhưng để quá trình phản biện xã hội có tính hiệu quả thì những phản biện của trí thức trẻ phải là những phản biện có tính xây dựng, cần có tổ chức, có phương thức tham vấn phù hợp; giáo dục cho đội ngũ trí thức trẻ sự nhận thức đúng đắn, đầy đủ về cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 cũng như xu hướng phát triển và những tác động tích cực hay tiêu cực của nó đối với đời sống kinh tế - xã hội; xác định rõ năng lực, sở trường của mình để lựa chọn những ngành nghề phù hợp, ưu tiên những ngành nghề đáp ứng được những yêu cầu của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0. Chủ động trước những xu hướng thay đổi, vận động của thị trường lao động hoặc những thay đổi công nghệ của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 đem lại; tích cực học tập, rèn luyện kỹ năng và nâng cao năng lực bản thân cũng như chủ động tìm hiểu về các yêu cầu của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 để không bị lạc hậu và có thể trở thành công dân toàn cầu; chủ động, sáng tạo, linh hoạt và làm chủ kỹ năng để có khả năng làm việc với công nghệ hiện đại, thích ứng với sự thay đổi nhanh chóng trong phương thức sản xuất mới, phương thức giao tiếp mới của xã hội, phong cách sống mới của thời đại.

(theo www.xaydungdang.org.vn)

----------------------

[1] [3] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H.2011, t.5, tr.216.

[2] Sách đã dẫn (Sđd), t.4, tr. 194.

[4] Sđd, t.12, tr.530.

[5] Sđd, t.5, tr.312.

 

Tài liệu tham khảo:

[1] Bộ Giáo dục và Đào tạo: Tổng hợp số liệu thống kê của các cơ sở giáo dục đại học, 2018.

[2] Phạm Đức Duy (2016), Phát triển nguồn nhân lực cao ở Hải Phòng: Cơ hội và thách thức, Tạp chí Tài chính, số tháng 5-2016.

[3] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008.

[4] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016.

[5] Đinh Ngọc Giang (2015), Thu hút và trọng dụng nhân tài trong giai đoạn hiện nay, http://tcnn.vn/news/detail/19537/Thu_hut_va_trong_dung_nhan_tai_trong_giai_doan_hien_nayall.html.

[6] Hồng Hạnh: 225.000 cử nhân, thạc sĩ thất nghiệp: Hệ quả của mở trường đại học ồ ạt, http://dantri.com.vn, ngày 31-5-2016.

[7] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H.2011.

[8] Lan Phương: Hợp tác quốc tế trong đào tạo nguồn nhân lực - Tác động tích cực đến giáo dục đại học, http://www.vanlanguni.edu.vn/giao-duc-dai-hoc-2/941-hop-tac-quoc-te-trong-dao-tao-nhan-luc-tac-dong-tich-cuc-den-giao-duc-dai-hoc.

[9] Phạm Thành Nghị, Vũ Hoàng Ngân: Quản lý nguồn nhân lực ở Việt Nam: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2004.

[10] Lê Thị Sự: Trí thức và vai trò của trí thức trong sự phát triển của Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ triết học, Học viện khoa học xã hội, Viện hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, Hà Nội, 2028.

[11] Lê Văn Thắng, Nguyễn Văn Tuân: Trí thức Việt Nam với cách mạng công nghiệp 4.0, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2019.

[12] Nguyễn Văn Tuân, Trần Mạnh Thắng, Cao Thị Phương: Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng đội ngũ trí thức và sự vận dụng vào việc xây dựng đội ngũ trí thức trẻ ở Việt Nam nhằm đáp ứng yêu cầu của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2020.

[13] http://hhtp.gov.vn: Nghị quyết của Bộ Chính trị về chủ động tham gia Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, 1-10-2019.

Tin liên quan

Đọc thêm

Việt Nam tích cực, chủ động hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng góp phần bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa trong tình hình mới

Tác giả: NGUYỄN ĐỨC HẠNH

(GDLL) - Hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng là một xu thế tất yếu, hàm chứa cả cơ hội và thách thức đối với các quốc gia trên con đường phát triển. Trong những năm qua, Việt Nam luôn tích cực, chủ động hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng góp phần quan trọng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa từ sớm, từ xa. Trên cơ sở khái quát bối cảnh tình hình tác động và những kết quả nổi bật trong tích cực, chủ động hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng những năm qua bài viết đề xuất một số giải pháp nhằm thực hiện có hiệu quả việc tích cực, chủ động hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng của Việt Nam trong tình hình mới.

Bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc trong đường lối đối ngoại thời kỳ đổi mới của Việt Nam

Tác giả: NGUYỄN ANH CƯỜNG - HOÀNG ANH TÚ - TRIỆU THANH CHÚC

(GDLL) - Trên cơ sở nghiên cứu lý luận về lợi ích quốc gia - dân tộc, bài viết phân tích sự kiên định về lợi ích quốc gia - dân tộc trong đường lối đối ngoại thời kỳ đổi mới của Việt Nam và khẳng định việc bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc trong chính sách đối ngoại của Việt Nam là hoàn toàn đúng đắn.

Phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số ở Việt Nam hiện nay: Thực trạng và khuyến nghị

Tác giả: PHẠM TÚ TÀI - CHU THỊ LÊ ANH

(GDLL) - Phát triển mạnh khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số được Đảng xác định là động lực chính của tăng trưởng kinh tế trong giai đoạn hiện nay. Bài viết phân tích cơ sở lý luận và thực tiễn về tăng trưởng kinh tế dựa vào khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số làm cơ sở khẳng định đây là động lực mới, quan trọng cho tăng trưởng kinh tế và phát triển bền vững. Đồng thời, bài viết cũng tập trung đánh giá thực trạng, đề xuất một số kiến nghị, giải pháp thúc đẩy phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số ở Việt Nam trong thời gian tới.

Quan điểm chỉ đạo của Đảng về xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong Nghị quyết 27-NQ/TW

Tác giả: TRẦN THỊ THANH MAI

(GDLL) - Sự ra đời của Nghị quyết số 27- NQ/TW Hội nghị Trung ương 6 khóa XIII ngày 09/11/2022 Về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Bài viết tập trung làm rõ một số quan điểm chỉ đạo của Đảng về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, qua đó thấy được giá trị lý luận và thực tiễn của Nghị quyết.

Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về bảo vệ an ninh quốc gia trong thời kỳ mới

Tác giả: NGUYỄN VĂN NGHĨA

(GDLL) - An ninh quốc gia và bảo vệ an ninh quốc gia là vấn đề hệ trọng của mỗi quốc gia, dân tộc. Hiện nay, Việt Nam đang phải đối diện với nhiều thách thức trong lĩnh vực an ninh quốc gia, trong đó có cả những vấn đề an ninh truyền thống và an ninh phi truyền thống. Công tác bảo vệ an ninh quốc gia là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên, được Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm lãnh đạo, nhất là trong thời kỳ đổi mới hiện nay. Bài viết khái quát quan điểm của Đảng về bảo vệ an ninh quốc gia, thực tiễn về bảo vệ an ninh quốc gia và đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm thực hiện tốt nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia trong thời kỳ mới.