Thứ Tư, ngày 30/10/2024, 09:18

Nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ ở trường Đảng hiện nay từ tiếp cận sư phạm khai phóng

Nguyễn Vĩnh Thanh - Yên Ngọc Trung
Học viện Chính trị khu vực I.

(GDLL) - Sư phạm khai phóng nhằm khai mở tâm trí và giải phóng tiềm năng con người để thực học - thực nghiệp, lý luận gắn liền với thực tiễn, giúp họ sống, làm việc, làm người. Thực hiện sư phạm khai phóng đòi hỏi nội dung giáo dục mở, phương pháp dạy - học tích cực lấy người học là trung tâm, cùng nhận thức của thầy về khai phóng và nhu cầu khai phóng của người học, cũng như các yếu tố của môi trường sư phạm, cơ chế chính sách đối với người dạy, người học. Tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng chỉ ra những yêu cầu, phương pháp khai phóng trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Trên cơ sở đó, bài viết nêu vấn đề và phương hướng nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng ở trường Đảng hiện nay từ tiếp cận sư phạm khai phóng.

Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh kỷ niệm 75 năm truyền thống

(nguồn news.vnanet.vn)

Đặt vấn đề

Với mục tiêu triết lý giáo dục là thực học - thực nghiệp, học đi đôi với hành, lý luận gắn liền với thực tiễn, giáo dục là cuộc sống, đặt ra yêu cầu phải thay đổi căn bản trong nhận thức, xây dựng nội dung chương trình và tổ chức dạy - học. Điều đó diễn ra trong giáo dục nói chung và có ý nghĩa đặc biệt trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, đảng viên nói riêng. Ở trường Đảng, học viên là cán bộ, đảng viên trong quy hoạch nguồn của các cơ quan Đảng, Nhà nước, các đoàn thể chính trị - xã hội, là đối tượng có trình độ chuyên môn, nhận thức chính trị, đạo đức tốt, kinh nghiệm công tác dày dặn. Tuy nhiên, trong đội ngũ cán bộ, đảng viên việc học tập còn hiện tượng thiếu chủ động, lười học, ngại học lý luận chính trị. Để khắc phục, đòi hỏi thay đổi đồng bộ từ nhận thức của người dạy, người học, sự đổi mới, cập nhật, thiết thực của nội dung chương trình, sự hấp dẫn của phương pháp và hiệu quả thực tế, đáp ứng nhu cầu người học. Tiếp cận triết lý giáo dục khai phóng, sư phạm khai phóng cung cấp những gợi ý để giải quyết vấn đề, tạo nên sự thay đổi trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ ở trường Đảng.

1. Quan niệm, mục tiêu, yêu cầu sư phạm khai phóng

Triết lý giáo dục khai phóng được đề cập sớm trong tư tưởng, cũng như trong thực tiễn nền giáo dục ở nhiều quốc gia trên thế giới. Trong những năm gần đây, ở Việt Nam, triết lý giáo dục theo quan điểm khai phóng được đề cập với tinh thần giáo dục tạo nên sự thích ứng với cuộc sống, cải tạo thực tiễn, nâng cao đời sống, để ở đời và làm người. 

Triết lý giáo dục khai phóng tập trung vào xây dựng mẫu người tự chủ, bằng cách phá vỡ các lối mòn tiếp nhận tri thức, chú trọng đến sáng tạo tri thức mới đáp ứng yêu cầu, phục vụ cuộc sống, hướng tới mục tiêu hình thành năng lực, phát triển các phẩm chất, kỹ năng cho người học, với yêu cầu học đi đôi với hành, lý luận gắn liền với thực tiễn, người học là trung tâm và nội dung chương trình mở. Những giá trị mà giáo dục Việt Nam theo đuổi là thực học - thực nghiệp và thể hiện tính dân chủ. Đó là những giá trị cơ bản để xây dựng nền giáo dục khai phóng, toàn diện, đáp ứng yêu cầu của công cuộc phát triển đất nước, xây dựng con người mới.

Về mục tiêu giáo dục khai phóng, đối với chương trình phổ thông là trau dồi tri thức về tự nhiên, xã hội cùng với rèn luyện phẩm chất đạo đức, kỹ năng, phương pháp để cho quá trình trau dồi, tích lũy tri thức được diễn ra hiệu quả, từng bước tăng cường tính chủ động, tích cực của người học phù hợp với cấp học, nhu cầu của người học. Đối với các chương trình đào tạo, bồi dưỡng, mục tiêu học không chỉ là kiến thức, tri thức mà được chú trọng hơn đến phương pháp và kỹ năng để tự làm giàu, khai mở tri thức hướng đến tự học suốt đời. Nhà nghiên cứu giáo dục Giản Tư Trung cho rằng, mục tiêu là giúp người học “khai mở tâm trí và giải phóng tiềm năng của mình; học để làm người, làm dân và làm nghề; học để có khả năng lãnh đạo bản thân, làm chủ cuộc sống và sáng tạo số phận của mình”[10, tr.27].

Thực hiện triết lý giáo dục khai phóng, phương pháp sư phạm khai phóng là yếu tố quyết định. Theo nhà nghiên cứu Giản Tư Trung, sư phạm khai phóng là: “người dạy sẽ “giúp người khác học” thế nào để họ có thể “tự khai phóng” bản thân, có thể “tự lực khai mở tâm trí và giải phóng tiềm năng” của chính mình suốt đời”[10, tr.11]. Tuy nhiên, những yếu tố về nhận thức của người học, người dạy, nội dung chương trình, môi trường học tập... cũng tác động đến hiệu quả của sư phạm khai phóng. Vì vậy, nhận thức đầy đủ về mục tiêu, xử lý tốt các yêu cầu, phải đồng thời với tích cực đổi mới, hoàn thiện các phương pháp sư phạm thúc đẩy sự khai phóng ở người học.

Về nội dung chương trình, thực hiện sư phạm khai phóng yêu cầu nội dung chương trình phải thiết kế mở. Nội dung mở cung cấp cho người học những kiến thức căn bản, cốt lõi, làm cơ sở để mở rộng kiến thức qua liên hệ thực tiễn, liên kết các kiến thức khác để hoàn chỉnh và làm sâu sắc kiến thức được học. Khác với nội dung đóng, người học chỉ biết những gì được học, vận dụng cứng nhắc, xa rời, không đáp ứng nhu cầu thực tiễn. 

Chương trình mở đưa đến sự kết nối sâu sắc của người học với lĩnh vực mà họ quan tâm. Bởi, với nội dung học nào, thì mọi liên hệ cũng hướng đến lĩnh vực, nội dung mà họ quan tâm, đang làm, mong muốn được làm rõ, được chia sẻ. Chính thông qua liên hệ, chia sẻ kiến thức, kinh nghiệm nhằm giải quyết những vấn đề mới, mà người học có bài học kinh nghiệm mới, sáng tạo ra cái mới, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của xã hội. Điều này có ý nghĩa quan trọng, nhất là đối với các chương trình đào tạo, bồi dưỡng.

Về phương pháp dạy - học, sư phạm khai phóng chú trọng đến người học, người học là trung tâm của quá trình dạy - học, người thầy giữ vai trò định hướng, giúp người học huy động, tìm kiếm tri thức, hoàn thiện tri thức bằng tự học, hướng đến tự học suốt đời. Với trọng tâm đó, người thầy không đặt yêu cầu người học ghi nhớ kiến thức, thực hành máy móc mà chú trọng trang bị phương pháp, kỹ năng tư duy, phân tích giúp người học huy động kiến thức sẵn có, tìm kiếm kiến thức mới để giải quyết vấn đề, tình huống đặt ra. Vấn đề, tình huống đặt ra, yêu cầu người học tìm cách giải quyết, có thể do thầy đặt ra, nhưng vấn đề đặt ra phù hợp, tạo hiệu quả ghi nhớ sâu sắc nên từ người học, do người học đặt ra, tốt hơn là vấn đề cần giải quyết trong công việc. Đặc biệt, trong môi trường học tập, người học không chỉ tự mình huy động các tri thức mà còn cùng với bạn học trao đổi, tương tác, thảo luận nêu ra các vấn đề, cùng lựa chọn vấn đề quan tâm và huy động tri thức, so sánh, đối chiếu các phương án, giải pháp khác nhau tìm ra phương án, giải pháp khả thi để giải quyết vấn đề.

Vì thế, với các chương trình đào tạo, bồi dưỡng với đối tượng người lớn, những phương pháp giúp khai phóng tốt như: dạy học nêu vấn đề; học tập theo tình huống; dạy học hiện trường; thảo luận nhóm; học tập hợp tác; học theo dự án, đề án... cần được chú trọng sử dụng trong dạy và học. 

Đối với người thầy, để khai phóng tiềm năng của người học, người thầy phải luôn phấn đấu, tự thay đổi mình, bản thân người thầy cũng phải tự khai phóng để tốt hơn, để có phương pháp giảng dạy đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ một cách hiệu quả. Nếu người thầy không đổi mới, không dám đổi mới, sáng tạo, vận dụng các phương pháp dạy học tích cực, không tự khai phóng mình trong tổ chức giảng dạy thì không thể có được sự khai mở tâm trí và giải phóng tiềm năng ở người học.

Đối với người học, sự khai mở tâm trí và giải phóng tiềm năng chỉ xảy ra khi người học có động cơ học tập đúng đắn, ý thức được mục tiêu học tập, biết rõ mình học để làm gì. Từ đó, người học tích cực, chủ động tư duy, trao đổi những ý kiến của mình với bạn học, với thầy. Cùng thầy, cùng bạn thảo luận, trao đổi để tìm cách giải quyết, sáng tạo ra cách giải quyết mới, hiệu quả cho những vấn đề mà bản thân mong muốn được làm rõ, nhằm giải quyết công việc được tốt hơn. 

Cần lưu ý rằng, sư phạm khai phóng không chỉ nằm ở mục tiêu, nội dung, phương pháp, vai trò của người thầy, ý thức của người học mà còn ở môi trường sư phạm, không gian sư phạm, cơ chế, chính sách đối với người dạy, người học. Một môi trường sư phạm phù hợp với đối tượng giúp cho người học thoải mái, tích cực học tập. Một lớp học mà bạn học có cùng mục tiêu, động cơ, luôn cùng nhau trao đổi, chia sẻ kiến thức, luôn đưa ra những vấn đề mới, vấn đề khó để cùng bàn bạc tìm đáp án, giải pháp là một không gian phù hợp cho sự khai phóng ở người học. Một môi trường học tập tốt, phục vụ người học, đáp ứng được các nhu cầu tìm tòi tri thức, rèn luyện sức khỏe sẽ giúp người học tự học, tự trau dồi tri thức hiệu quả hơn. Cùng với sự yêu thương, tôn trọng, không ngừng giúp đỡ của những người thầy sẽ là động lực lớn để người học không ngừng học, không ngừng khai mở tâm trí và giải phóng tiềm năng của mình.

Hiểu triết lý giáo dục khai phóng với mục tiêu và các yêu cầu về thiết kế nội dung, đổi mới phương pháp dạy - học, tăng cường nhận thức của người dạy, người học và hoàn thiện các yếu tố, cơ chế, chính sách hỗ trợ là điều căn bản để khai mở tâm trí, giải phóng tiềm năng của người học hướng đến đáp ứng tốt các yêu cầu, phù hợp với sự phát triển nhanh của xã hội, sự gia tăng liên tục của tri thức mới.

2. Sư phạm khai phóng trong triết lý đào tạo, bồi dưỡng cán bộ của Chủ tịch Hồ Chí Minh

Chủ tịch Hồ Chí Minh là tấm gương về tự khai minh, tự học, sáng tạo ra những tri thức lý luận, phương pháp mới để giải quyết những vấn đề thực tiễn cách mạng chưa có trong tiền lệ. Có điều đó, bởi Chủ tịch Hồ Chí Minh nắm được tinh thần, lập trường, quan điểm và phương pháp của chủ nghĩa Mác - Lênin trong giải quyết những vấn đề thực tiễn. Bằng kinh nghiệm, phương pháp có được trong tìm kiếm, trau dồi kiến thức, sáng tạo lý luận, vận dụng lý luận vào thực tiễn cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh có những chỉ dẫn, yêu cầu thể hiện triết lý sư phạm khai phóng trong đào tạo, huấn luyện cán bộ. Điều đó được thể ở mục tiêu, nội dung, cách thức học tập, ý thức học tập, yêu cầu tự học, học tập suốt đời của người cán bộ, cũng như yêu cầu người dạy và các điều kiện cho học tập. 

Về mục tiêu học tập, trong Diễn văn khai mạc lớp học lý luận khóa I trường Nguyễn Ái Quốc, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Đảng ta tổ chức trường học lý luận cho cán bộ là để nâng cao trình độ lý luận của Đảng ta đặng giải quyết sự đòi hỏi của nhiệm vụ cách mạng và tình hình thực tế của Đảng ta, để Đảng ta có thể làm tốt hơn công tác của mình, hoàn thành tốt hơn nhiệm vụ cách mạng vĩ đại của mình”[7, tập 11, tr.90]. Từ đó, yêu cầu cán bộ, đảng viên trong học tập phải gắn lý luận với thực tế, học để công tác tốt hơn, để giải quyết đòi hỏi của nhiệm vụ cách mạng và tình hình thực tế, chứ không phải “thành những người lý luận suông”[7, tập 11, tr.95]. Với Người, “Chỉ học thuộc lòng để đem lòe thiên hạ thì lý luận đó cũng vô ích. Vì vậy chúng ta phải gắng học, đồng thời học thì phải hành[7, tập 5, tr.275]. Người phê phán những cán bộ chỉ biết nói suông, lúc nào cũng nói C.Mác, V.I.Lênin nhưng bất kỳ một việc thực tế nào cũng làm không được, những người như vậy “thì khác nào một cái hòm đựng sách”[7, tập 5, tr.274].

Về nội dung học tập, theo Người, trong huấn luyện cán bộ, trước hết “Phải dạy lý luận Mác - Lênin cho mọi người”[7, tập 6, tr.357], “phải lấy những tài liệu về chủ nghĩa Mác - Lênin làm gốc[7, tập 6, tr.359]. Đồng thời, học tập kinh nghiệm của các nước anh em và áp dụng những kinh nghiệm ấy một cách sáng tạo để đỡ bớt mò mẫm, đỡ phạm sai lầm. Đặc biệt, phải nâng cao sự tu dưỡng về chủ nghĩa Mác - Lênin, với yêu cầu, không phải là thuộc từng câu, từng chữ, áp dụng một cách máy móc mà học về lập trường, quan điểm, phương pháp của chủ nghĩa Mác - Lênin. Nắm vững lập trường, quan điểm, dùng phương pháp đó mà phân tích một cách đúng đắn những đặc điểm nước ta, hiểu được quy luật phát triển cách mạng, từ đó định ra đường lối, phương châm, bước đi cụ thể cho cách mạng[7, tập 11, tr.92-95]. Quan điểm đó đặt ra yêu cầu về nội dung chương trình, xác định cách học tập cho cán bộ, đảng viên của Đảng. Đối với mỗi nội dung học tập, thuộc một lĩnh vực nhất định, hay nội dung liên hệ đến công việc cụ thể mà người cán bộ phụ trách, đều phải xem: Kinh nghiệm các nước anh em là gì? Lập trường, quan điểm, phương pháp chủ nghĩa Mác - Lênin giải quyết vấn đề đó như thế nào? Thực tế nước ta ra sao? Những chỉ thị, nghị quyết, luật, lệnh đã ban hành như thế nào[7, tập 6, tr.360]? Từ đó, định ra đường lối, phương châm, kế hoạch thực hiện, tức là vận dụng lý luận vào giải quyết vấn đề thực tiễn cách mạng.

Đối với người học, với mục tiêu, nội dung học tập cốt giải quyết những vấn đề thực tế, làm cho công việc được tốt hơn, học để sửa chữa tư tưởng, học để tu dưỡng đạo đức cách mạng, học để tin tưởng, học để hành, phấn đấu trở thành “những chiến sĩ tiên tiến”, chứ không phải “tạo cho mình một cái vốn lý luận để sau này đưa ra mặc cả với Đảng”[7, tập 11, tr.95], Người chỉ ra, thái độ học tập của người cán bộ, đảng viên là: “ý thức làm chủ không phải chỉ tỏ rõ ở tinh thần hăng hái lao động mà còn phải tỏ rõ ở tinh thần say mê học tập”[7, tập 12, tr.527]. Người yêu cầu, trong học tập phải luôn nêu cao tinh thần khiêm tốn, thật thà; đào sâu, độc lập suy nghĩ, tự do tư tưởng, tích cực trao đổi, thảo luận để hiểu rõ, thông suốt đối với những vấn đề, câu hỏi đặt ra; không kiêu ngạo, tự phụ tự mãn, cái gì biết thì nói là biết, không biết thì nói là không biết; xem học tập là một nhiệm vụ, tự nguyện, tự giác, tích cực, tự động, nêu cao tinh thần chịu khó, cố gắng không lùi bước trước khó khăn; không vì khó khăn mà học tập xuôi chiều, ba phải, điều hòa, không bảo vệ chân lý; vì đoàn kết, giúp đỡ, vì mục tiêu học tập mà mạnh dạn phê bình, thật thà tự phê bình để đạt kết quả cao hơn trong học tập[7, tập 11, tr.98-99]. Trên cơ sở ý thức, phương pháp học tập “ở trường của Đoàn thể không phải như học ở các trường lối cũ, không phải có thầy thì học, thầy không đến thì đùa. Phải biết tự động học tập[7, tập 6, tr.360], phải “ra sức học tập, tu dưỡng, tự cải tạo để tiến bộ mãi”[7, tập 11, tr.602], phải biết “lấy tự học làm cốt. Do thảo luận và chỉ đạo giúp vào”[7, tập 5, tr.312], biến quá trình học tập thành tự học, tự học suốt đời.

Đối với người thầy, từ quan điểm người học “lấy tự học làm cốt. Do thảo luận và chỉ đạo giúp vào”[7, tập 5, tr.312], khẳng định vị trí người học là trung tâm của quá trình lĩnh hội tri thức, vận dụng, giải quyết vấn đề thực tế. Người thầy đóng vai trò chỉ đạo, hướng dẫn, giúp thêm vào cho người học trong quá trình tự học, quá trình thảo luận tìm ra chân lý, khẳng định chân lý. Vì vậy, theo Người, “Không phải ai cũng huấn luyện được... Người huấn luyện của Đoàn thể phải làm kiểu mẫu về mọi mặt: tư tưởng, đạo đức, lối làm việc. Người huấn luyện phải học thêm mãi thì mới làm được công việc huấn luyện của mình”[7, tập 6, tr.356]. Người thầy phải hiểu rõ, muốn cải tạo người học, muốn giúp đỡ người học, “thì trước hết phải tự cải tạo bản thân chúng ta”[7, tập 11, tr.97], người thầy phải luôn ghi nhớ và thực hành điều đó. 

Ngoài ra, Người còn nêu những vấn đề về môi trường, tài liệu, điều kiện học tập. Người phê phán tình trạng lớp quá đông, theo Người “Đông quá thì dạy và học ít kết quả vì trình độ lý luận của người học chênh lệch, nên thu nhận không đều. Trình độ công tác thực tế của người học cũng khác nhau, nên chương trình không sát”[7, tập 6, tr.312]. Vì vậy, Người chỉ ra là phải hợp lý hóa, nghĩa là: “Mở lớp nào cho ra lớp ấy. Lựa chọn người dạy và người đến học cho cẩn thận. Đừng mở lớp lung tung”[7, tập 6, tr.363]. Theo Người, lựa chọn người học cẩn thận là người có trình độ đồng đều nhau, cùng hạng. Từ đó, Người cũng đặt ra yêu cầu: “tài liệu phải lựa chọn, xếp đặt lại, vì trình độ người học không đều nhau, cần có tài liệu thích hợp với từng hạng”[7, tập 6, tr.359]. Đồng thời, Người còn chỉ ra, trong huấn luyện cán bộ: “Không nên bủn xỉn về các khoản chi tiêu trong việc huấn luyện”[7, tập 5, tr.313].

Những chỉ dẫn, yêu cầu của Chủ tịch Hồ Chí Minh thể hiện những quan điểm cơ bản của triết lý giáo dục khai phóng, phương pháp sư phạm khai phóng trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, đảng viên. Vận dụng những quan điểm, chỉ dẫn của Người quyết định việc khai mở tâm trí và giải phóng tiềm năng của đội ngũ cán bộ, đảng viên đáp ứng yêu cầu của Đảng, của công cuộc đổi mới hiện nay. 

3. Sư phạm khai phóng trong yêu cầu đào tạo, bồi dưỡng cán bộ của Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay

Trong lãnh đạo sự nghiệp cách mạng, trong công cuộc đổi mới, hội nhập và phát triển đất nước, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn quan tâm đến công tác giáo dục lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng nhằm đáp ứng tốt hơn những yêu cầu mới trong bối cảnh mới.

Về mục tiêu đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị, Đại hội VII khẳng định: “nâng cao trình độ và năng lực vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của nước ta, góp phần xây dựng chủ trương, chính sách của Đảng, lý giải những vấn đề mới mà cuộc sống đặt ra. Đổi mới căn bản công tác giáo dục chính trị, lý luận”[1, tr.95]. Đến Đại hội VIII, Đảng nhấn mạnh mục tiêu: “trước hết hướng vào những vấn đề mới do cuộc sống đặt ra, làm rõ căn cứ khoa học của các giải pháp, dự báo các xu hướng phát triển, góp phần bổ sung, hoàn thiện đường lối của Đảng, làm cho ngày càng sáng tỏ con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta”[2, tr.140]. Đây là mục tiêu xuyên suốt trong yêu cầu đào tạo, bồi dưỡng về lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng.

Đại hội VII của Đảng (1991) khẳng định nội dung giáo dục lý luận chính trị là: “Tiếp tục bồi dưỡng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, những quan điểm, đường lối của Đảng. Bồi dưỡng tinh thần độc lập tự chủ, ý chí tự lực, tự cường, kết hợp với mở rộng hợp tác quốc tế, cần kiệm xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”[1, tr.95]. Đến Đại hội VIII (1996), Đảng xác định “thường xuyên bồi dưỡng cho cán bộ, đảng viên, đường lối, chủ trương của Đảng, các vấn đề cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, những truyền thống tốt đẹp của dân tộc, những kiến thức mới của thời đại, bảo đảm sự thống nhất về chính trị và tư tưởng trong toàn Đảng”[2, tr.140].

Trong nhiệm kỳ Đại hội VIII, Bộ Chính trị (khóa VIII) đã ban hành Nghị quyết số 01-NQ/TW, ngày 28/3/1992, về công tác lý luận trong giai đoạn hiện nay, nội dung Nghị quyết đặt ra yêu cầu đổi mới tư duy, đi sâu tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận một cách sáng tạo. Điều đó đặt ra yêu cầu đối với công tác đào tạo, giáo dục lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ, đảng viên phải nắm vững bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; độc lập, sáng tạo kế thừa tinh hoa trí tuệ của dân tộc và nhân loại; gắn lý luận với thực tiễn; giải quyết yêu cầu trước mắt với thực hiện nhiệm vụ lâu dài; kết hợp tính khoa học với tính đảng, giữa khoa học với chính trị. Đó chính là những yêu cầu, phương hướng đòi hỏi sự đổi mới khai phóng trong giảng dạy lý luận chính trị.

Các kỳ Đại hội IX, X, XI tiếp tục nhấn mạnh đến yêu cầu “đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giảng dạy và học tập lý luận”[3, tr.285], “đổi mới nội dung, phương thức, nâng cao hơn nữa tính chiến đấu, tính thuyết phục, hiệu quả của công tác tư tưởng, tuyên truyền, học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước”[4, tr.256].

Trên cơ sở đánh giá tổng kết thực hiện Nghị quyết số 01-NQ/TW, ngày 28/3/1992 của Bộ Chính trị (khóa VIII), Bộ Chính trị (khóa XI) ban hành Nghị quyết số 37-NQ/TW, ngày 09/10/2014, về công tác lý luận và định hướng nghiên cứu đến năm 2030. Về công tác lý luận, Nghị quyết đánh giá “kết quả nghiên cứu lý luận chưa đáp ứng tốt yêu cầu của thực tiễn... kết quả nghiên cứu về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh còn dàn trải, tính hệ thống chưa cao, chưa gắn kết chặt chẽ với những vấn đề thực tiễn đang đặt ra... Thiếu gắn bó mật thiết giữa nghiên cứu lý luận với tổng kết thực tiễn, giữa cán bộ lý luận và cán bộ lãnh đạo, chỉ đạo thực tiễn, giữa công tác nghiên cứu lý luận và công tác giảng dạy, đào tạo lý luận”[8]. Từ đó, nêu ba nội dung phương châm công tác lý luận, trong đó có những nội dung định hướng công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận: “Lý luận phải gắn chặt với thực tiễn, xuất phát từ thực tiễn, đáp ứng và phục vụ yêu cầu phát triển đất nước... Kiên trì thế giới quan, phương pháp luận khoa học và các giá trị cốt lõi của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh”[8]. Quan điểm, phương châm của Đảng trong Nghị quyết tiếp tục đặt ra những yêu cầu đổi mới trong đào tạo, bồi dưỡng lý luận theo hướng nắm vững tinh thần, giá trị cốt lõi của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, gắn với thực tiễn, giải quyết vấn đề thực tiễn, đáp ứng yêu cầu đổi mới, phát triển đất nước.

Đại hội XII (2016), với quan điểm về đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, đào tạo; phát triển nguồn nhân lực, Đảng xác định: “Giáo dục là quốc sách hàng đầu. Phát triển giáo dục và đào tạo nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Chuyển mạnh quá trình giáo dục chủ yếu từ trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học; học đi đôi với hành, lý luận gắn với thực tiễn. Phát triển giáo dục và đào tạo phải gắn với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc,... Giáo dục con người Việt Nam phát triển toàn diện và phát huy tốt nhất tiềm năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân; yêu Tổ quốc, yêu đồng bào, sống tốt và làm việc hiệu quả”[5, tr.114-115]. Quan điểm thể hiện rõ tinh thần, yêu cầu đổi mới, khai phóng trong giáo dục nói chung, để đưa đến yêu cầu xác định ra mục tiêu, chuẩn đầu ra của Chương trình giáo dục phổ thông mới (xây dựng từ 2017), cũng như trong giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng lý luận nói riêng.

Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 (khóa XII) về xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, Đảng yêu cầu: “Đổi mới nội dung, phương pháp, hình thức dạy và học lý luận chính trị gắn với ứng dụng thực tế, tăng cường kiểm tra và quản lý chặt chẽ chất lượng dạy và học”[9]. Đây là những yêu cầu căn cốt trong đổi mới tổ chức dạy - học ở trường Đảng.

Thực hiện yêu cầu, giải pháp Hội nghị Trung ương 4 (khóa XII) nêu ra, Đại hội XIII (2021) của Đảng đánh giá: “Công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh tiếp tục được đẩy mạnh, nội dung, hình thức đa dạng, phong phú hơn... Công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị được đổi mới cả về nội dung và phương pháp; tăng cường quản lý, kỷ luật trong giảng dạy, học tập, chất lượng đào tạo, bồi dưỡng được nâng lên, từng bước khắc phục tình trạng lười học, ngại học lý luận chính trị, dạy và học hình thức”[6, tr.169]

Như vậy, quan điểm của Đảng về đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ, đảng viên khẳng định sự nhận thức, quán triệt ngày càng đầy đủ các chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Mục tiêu phát triển về phẩm chất, năng lực của cán bộ, đảng viên đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước đặt ra những yêu cầu về đổi mới nội dung, phương pháp học tập theo hướng nắm bản chất, tinh thần, phương pháp của chủ nghĩa Mác - Lênin để giải quyết những vấn đề thực tế, những vấn đề mới trong thực tiễn. Chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng chỉ đạo, định hướng công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị ở trường Đảng, hướng đến khai mở tâm trí, giải phóng tiềm năng của đội ngũ cán bộ, đảng viên.

4. Một số vấn đề và giải pháp trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ ở trường Đảng hiện nay từ cách tiếp cận sư phạm khai phóng

4.1. Một số vấn đề đặt ra

Đổi mới sáng tạo trong giảng dạy ở trường Đảng theo yêu cầu lấy người học làm trung tâm, phát huy tính tích cực, chủ động, khai mở tâm trí cho người học đặt người thầy vào vị trí giúp đỡ, hỗ trợ, cung cấp phương pháp học, rèn luyện phương pháp, kỹ năng tư duy giải quyết vấn đề, gắn lý luận với thực tiễn cho người học.

Để quá trình đổi mới sáng tạo, khai mở tâm trí, phát huy tính tích cực, chủ động của người học diễn ra đòi hỏi thực hiện đồng bộ nhiều yếu tố từ xác định mục tiêu, thiết kế nội dung chương trình, phương pháp tổ chức dạy - học, cho đến nhận thức về vai trò của người thầy, ý thức của người học và môi trường học tập, văn hóa trường Đảng.

Mục tiêu đào tạo, bồi dưỡng của trường Đảng là đào tạo, bồi dưỡng về lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng trên các lĩnh vực, chú trọng bổ sung nhận thức lý luận mới trên các lĩnh vực trong bối cảnh mới, yêu cầu mới; cung cấp kiến thức về lãnh đạo, quản lý trên một số lĩnh vực; rèn luyện kỹ năng công tác, vận dụng lý luận vào thực tiễn, củng cố tư tưởng, bồi dưỡng phẩm chất đạo đức cách mạng, tác phong, lề lối làm việc, giúp người học giải quyết tốt những vấn đề, yêu cầu đặt ra ở địa phương, cơ quan, đơn vị. 

Những vấn đề, yêu cầu đặt ra trong thực tiễn ở địa phương, cơ quan, đơn vị, đây là những vấn đề luôn mới, vì vậy để đạt mục tiêu đòi hỏi người học cần được trang bị phương pháp, kỹ năng tư duy, phân tích để huy động tri thức, cách gắn lý luận vào thực tiễn để giải quyết vấn đề. Người thầy phải thực hiện rõ vai trò giúp đỡ, hỗ trợ giúp học viên hình thành phương pháp, kỹ năng tư duy giải quyết vấn đề thực tiễn đặt ra. Thông qua đó, khai phóng ý thức, quá trình tự động rèn luyện phẩm chất đạo đức, thúc đẩy tự học suốt đời để làm người, làm cán bộ, để phụng sự Tổ quốc và nhân dân.

Nội dung chương trình đào tạo, bồi dưỡng để đáp ứng mục tiêu cần thường xuyên cập nhật, bổ sung những nhận thức lý luận mới, cùng những luận cứ, luận chứng mới dùng để phân tích bối cảnh mới, yêu cầu mới thuyết phục, chính xác hơn giúp người học có thể vận dụng tốt lý luận được học vào thực tế, nâng cao hiệu quả công tác. Tuy nhiên, việc cập nhật nội dung chương trình bao giờ cũng có độ trễ so với sự thay đổi của thực tiễn. Vì vậy, trong thiết kế nội dung chương trình cần đảm bảo tính mở, hướng đến sự chủ động, tích cực cập nhật kiến thức mới ở học viên. Trên cơ sở những nội dung căn cốt mà học viên tìm kiếm luận chứng, luận cứ để phân tích và đề xuất giải pháp giải quyết vấn đề mới của thực tiễn. Như vậy, quan trọng hơn, người học cần được trang bị phương pháp, kỹ năng tư duy, hướng đến thành thạo trong vận dụng lý luận để giải quyết những vấn đề thực tiễn.

Về phương pháp dạy - học, đáp ứng yêu cầu đổi mới, nâng cao chất lượng, tránh dạy - học hình thức, phát huy tính chủ động, tích cực của học viên, trong những năm qua, trong trường Đảng người học dần trở thành trung tâm của quá trình dạy và học. Tuy nhiên, ở một mức độ nào đó, vẫn còn việc đặt nặng yêu cầu ghi nhớ kiến thức, vận dụng theo các nội dung được định sẵn, áp đặt đối với người học. Việc tổ chức giờ học còn nặng về thuyết trình, giảng giải kiến thức lý luận mà thiếu thời gian dành cho trao đổi, thảo luận giải quyết những vấn đề, những tình huống từ thực tiễn được học viên nêu ra. Đa số cán bộ giảng dạy đã chuyển biến tích cực trong phương pháp tổ chức giảng dạy, nhưng trong số những người đã đổi mới phương pháp cũng còn hạn chế ở việc cập nhật kiến thức thực tiễn mới, dẫn đến việc lấy dẫn chứng minh họa, xây dựng bài tập tình huống còn chậm, ít có tình huống mới được nghiên cứu đưa vào giảng dạy. 

Một số cán bộ giảng dạy trẻ thiếu thực tế, thiếu kinh nghiệm không dám phân tích, giải quyết những tình huống, những vấn đề do học viên đưa ra. Không có phương pháp để khai mở tâm trí, giải phóng tiềm năng của học viên, những người công tác, có kinh nghiệm xử lý tình huống mà bạn học đưa ra. Điều đó làm hạn chế sự tương tác giữa học viên và học viên, mà thay bằng đàm thoại một chiều, hoặc mới chỉ dừng lại ở thầy và học viên. 

Đặc biệt, tiếp cận sư phạm khai phóng thì việc khai mở tâm trí, giải phóng tiềm năng của học viên còn rất hạn chế. Việc dùng tư duy để dạy và dạy bằng tư duy, hướng dẫn học viên vào con đường tư duy để giải quyết vấn đề còn hạn chế, chưa giúp học viên định hình phương pháp, kỹ năng tư duy thông qua phương pháp giảng dạy.

Đối với người thầy, với những yêu cầu về cập nhật tri thức lý luận mới, gắn lý luận với thực tiễn, giải quyết những vấn đề thực tiễn từ yêu cầu của người học, ở trường Đảng người thầy phải vừa là người giảng dạy, vừa là người nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, có kiến thức thực tiễn phong phú. Chỉ có như vậy, mới giúp cho những phân tích lý luận trở nên sâu sắc và thực tiễn, thuyết phục, giải quyết tốt vấn đề mà người học đặt ra từ thực tế công tác và muốn được làm rõ trong quá trình học tập. Điều đó, đòi hỏi người thầy phải luôn phấn đấu, bản thân người thầy cũng phải tự đổi mới để tốt hơn, để có kiến thức, có phương pháp giảng dạy đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ hiệu quả. Người thầy phải luôn tự hỏi, luôn suy ngẫm về đổi mới, dám đổi mới, dám sáng tạo trong xây dựng nội dung giảng dạy cũng như vận dụng các phương pháp dạy học tích cực. Bởi nếu người thầy không đổi mới, sáng tạo trong tổ chức giảng dạy thì không thể có được sự tích cực, chủ động, khai mở tâm trí ở người học.

Người thầy, nhận thức rõ về đối tượng, dành sự tôn trọng xứng đáng đối với người học về kiến thức, kỹ năng, phẩm chất; cùng với nhận thức về mục tiêu chương trình đào tạo, bồi dưỡng là cơ sở để đổi mới phương pháp, cách thức tổ chức dạy - học. Xác định, đánh giá đúng đối tượng, mục tiêu chương trình tạo điều kiện cho người thầy đổi mới phương pháp một cách tích cực, tập trung vào phát triển, khai mở năng lực của người học. Điều đó cần diễn ra ở tất cả các khâu trước, trong, sau của quá trình dạy và học. Từ việc gợi nhớ vốn kiến thức đã có bằng việc nghiên cứu, đọc trước tài liệu theo yêu cầu, những vấn đề, câu hỏi đặt ra từ thực tế công tác liên quan đến nội dung bài học khi nghiên cứu trước tài liệu, cách thầy - trò hệ thống kiến thức và giải quyết những vấn đề đặt ra trên lớp, đến thiết kế nội dung câu hỏi kiểm tra, đánh giá kết quả học tập.

Đối với người học, ở trường Đảng người học là cán bộ, đảng viên của Đảng thuộc diện quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý trong cơ quan Đảng, Nhà nước, các tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội ở các cấp. Là những người có vốn tri thức lý luận, nắm được quan điểm, chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, đặc biệt những nội dung ở lĩnh vực công tác. Tuy nhiên, tri thức lý luận, quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng mà người học có, nhiều khi chưa đầy đủ, hệ thống, thiếu cập nhật. Cùng với yêu cầu luân chuyển, bố trí công tác mới diễn ra thường xuyên, đòi hỏi bổ sung đầy đủ hơn tri thức lý luận, kỹ năng công tác ở lĩnh vực họ mới được phân công phụ trách. Điều đó đặt ra yêu cầu người dạy củng cố, hệ thống lại kiến thức lý luận đã có ở người học và bổ sung cập nhật kiến thức mới, hình hệ thống lý luận hoàn chỉnh cho người học.

Một vấn đề nữa của người học, đó là do tính chất, khối lượng công việc cần giải quyết hoặc liên quan lớn, nên sự tập trung cho học tập chưa được tốt. Cùng với tư tưởng ngại học, lười học, học tập hình thức, quan trọng điều kiện bằng cấp nên chưa chủ động, tích cực, không khai mở tâm trí và giải phóng tiềm năng của mình trong học tập. Điều đó cần sự quan tâm, hỗ trợ, thúc đẩy từ người thầy, nội dung, phương pháp học tập, cũng như những quy định, quy chế trong học tập, đánh giá như là điều kiện để có thể khai phóng người học tốt hơn, đi đến có kết quả học tập thực chất. 

Về môi trường sư phạm, văn hóa trường Đảng, để được đứng trong hàng ngũ của Đảng, phấn đấu, rèn luyện để được quy hoạch vào các vị trí lãnh đạo, quản lý trong các cơ quan Đảng, Nhà nước, các tổ chức đoàn thể, chính trị xã hội, học viên trường Đảng là những kiểu mẫu về tư tưởng, phẩm chất đạo đức, lối sống, phong cách, lề lối làm việc. Điều đó đặt ra yêu cầu trong xây dựng môi trường sư phạm, từ tạo không khí lớp học, quan hệ thầy trò, quan hệ bạn học, kỷ luật, kỷ cương giảng dạy, học tập đến không gian vật chất phục vụ sinh hoạt, học tập đều phải ở mức độ cao hơn, tốt hơn, kiểu mẫu hơn. Từ đó thúc đẩy người học tiến lên, không ngừng nỗ lực học tập, rèn luyện để xứng đáng là người cán bộ lãnh đạo phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc.

4.2. Phương hướng nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ từ cách tiếp cận sư phạm khai phóng trong giảng dạy ở trường Đảng hiện nay 

Trên cơ sở phân tích một số vấn đề đặt ra trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ ở trường Đảng hiện nay từ cách tiếp cận sư phạm khai phóng, vận dụng triết lý đào tạo cán bộ của Chủ tịch Hồ Chí Minh và quán triệt quan điểm, yêu cầu của Đảng trong đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị, việc đổi mới sáng tạo trong giảng dạy ở trường Đảng hiện nay cần:

Thứ nhất, tiếp tục hoàn thiện chương trình đào tạo, bồi dưỡng. Xây dựng nội dung khung chương trình xác định rõ và hoàn thiện những nội dung, giá trị cốt lõi của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh mà người học cần nắm chắc. Trên cơ sở đó làm rõ quá trình nhận thức, phát triển và vận dụng lý luận của Đảng trên từng nội dung, lĩnh vực mà chương trình cung cấp cho học viên. Giúp cho học viên thấy rõ tinh thần, phương pháp của chủ nghĩa Mác - Lênin; sự vận dụng tinh thần, phương pháp chủ nghĩa Mác - Lênin của Hồ Chí Minh vào thực tiễn cách mạng Việt Nam; quá trình nhận thức, phát triển và bổ sung lý luận của Đảng trên các lĩnh vực. Từ đó, học viên nắm được tinh thần, phương pháp vận dụng, bổ sung, phát triển lý luận trong thực tiễn, làm cho quá trình học tập, bổ sung, hoàn thiện tri thức lý luận được chủ động, giúp họ tự lĩnh hội và hoàn thiện tri thức lý luận để phục vụ nhân dân, Tổ quốc suốt đời.

Thứ hai, không ngừng nâng cao tri thức lý luận và kiến thức thực tiễn, kỹ năng giảng dạy gắn lý luận với thực tiễn của người thầy. Với mục tiêu, yêu cầu, thời gian đào tạo, người thầy cần nắm chắc, thấy rõ nội dung cơ bản, cốt lõi của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng trong nội dung chương trình, chuyên đề mình để giảng dạy đạt hiệu quả cao nhất, tránh việc xa đà vào những kiến thức mà học viên có thể tự bổ sung, hoàn thiện. Người thầy nắm chắc kiến thức thực tiễn, thấy rõ quá trình nhận thức, phát triển các quan điểm của Đảng trong giải quyết những vấn đề mới, ở bối cảnh mới của sự nghiệp cách mạng. Từ đó dẫn dắt học viên tư duy, phân tích tình huống, gắn lý luận với thực tiễn đưa ra giải pháp giải quyết vấn đề phù hợp với nội dung, thời gian tổ chức giảng dạy. 

Thứ ba, đổi mới phương pháp tổ chức giảng dạy, đánh giá kết quả phù hợp với quan điểm học viên là trung tâm của quá trình dạy - học, người thầy giúp khai mở tâm trí và giải phóng tiềm năng ở người học. 

Giảng dạy ở trường Đảng, người thầy xác định rõ, người học ít nhiều được trang bị kiến thức lý luận chính trị, chỉ là chưa được hệ thống chặt chẽ và bổ sung những lý luận mới, nhận thức mới đầy đủ. Vì vậy, người thầy cần giúp người học gợi nhớ lại, sắp xếp thành hệ thống và bổ sung những nhận thức mới, quan điểm mới chứ không sa đà vào cung cấp toàn bộ hệ thống kiến thức. Điều đó quyết định đến cách thức tổ chức dạy - học ở trên lớp của cả thầy và trò. Người thầy không dành nhiều thời gian để cung cấp kiến thức cũ, mà là giúp học viên nhớ lại kiến thức cũ, huy động kiến thức, thảo luận với nhau để hệ thống lại kiến thức. Trong quá trình đó, thầy hỗ trợ bổ sung, cập nhật kiến thức mới; người học chủ động, tích cực trao đổi, thảo luận hình thành hệ thống tri thức đầy đủ, cập nhật về chủ đề buổi học.

Đồng thời, mỗi học viên ở trường Đảng đều là chuyên gia trên một lĩnh vực nhất định, họ có nhiều kinh nghiệm công tác thực tế ở nhiều môi trường, bối cảnh, điều kiện công tác khác nhau. Vì thế, vận dụng các phương pháp tích cực để học viên trao đổi, thảo luận với nhau, tạo bầu không khí thân thiết, chí tình, cởi mở giúp học viên học được từ nhau, trao đổi, phổ biến cho nhau kinh nghiệm thực tế địa phương, vị trí công tác của mình. Học viên được cùng thầy, cùng bạn thảo luận, trao đổi tìm cách giải quyết, sáng tạo ra cách giải quyết mới, hiệu quả cho những vấn đề mà bản thân mong muốn được làm rõ, giúp giải quyết công việc được tốt hơn sẽ tạo ra động lực, sự hưng phấn đưa đến khai mở tâm trí và tăng cường khả năng tư duy, khả năng lập luận, hiệu quả huy động kiến thức, tăng cường ham muốn học tập, ham muốn hiểu biết và thể hiện hiểu biết của mình.

Điều đó, đòi hỏi sự tích cực ở người thầy, người thầy đổi mới sáng tạo trong tư duy, phương pháp, cách thức tổ chức giảng dạy - học. Nắm chắc mục tiêu, chuẩn đầu ra, người thầy đổi mới thiết kế nội dung, kế hoạch, tổ chức các phương pháp học tập tích cực. Tập trung giúp học viên nắm những vấn đề cốt lõi của bài học, giải quyết được những vấn đề, câu hỏi đặt ra từ thực tiễn công tác bằng tư duy phân tích, đánh giá, giải quyết sáng tạo vấn đề đặt ra trong thời gian học trên lớp. Hướng dẫn phương pháp tự học, chủ động đào sâu suy nghĩ trước và sau giờ trên lớp để giải quyết những vấn đề mới một cách sáng tạo, hiệu quả. Đặc biệt, hướng đến giúp người học lĩnh hội được tinh thần, phương pháp tiếp cận và tư duy, trên cơ sở lý luận gắn với bối cảnh thực tế, kinh nghiệm công tác mà đi đến giải quyết vấn đề của địa phương, đất nước một cách sáng tạo. Biến quá trình học của người học thành quá trình tự học, tự khai sáng suốt đời, thay thế cho các cách học, phương pháp học mang tính máy móc, thiếu chủ động gây nên tình trạng “ngại học”, “lười học” ở người học.

Trong kiểm tra, đánh giá kết quả học tập, người thầy luôn lưu ý việc ghi nhớ kiến thức, học vẹt, học máy móc không bao giờ quan trọng, không nên đặt ra, mà cần tập trung vào giải quyết những vấn đề học viên đặt ra từ thực tiễn, kết quả học viên vận dụng lý luận đề xuất phương hướng, giải pháp giải quyết vấn đề. Từ đó đổi mới hệ hệ thống câu hỏi kiểm tra, đánh giá theo hướng mở, phát huy tư duy tích cực, sáng tạo, khai mở những tiềm năng, kiến thức, kinh nghiệm của học viên.

Thứ tư, xây dựng hình ảnh người thầy trường Đảng là kiểu mẫu về tấm gương về đạo đức, lối sống, phong cách, lề lối làm việc.

Trong tổ chức giảng dạy để tăng cường tính tích cực, chủ động, khai mở tâm trí của người học, người thầy không chỉ tôn trọng, lắng nghe những tri thức lý luận, kiến thức thực tiễn, giúp họ hệ thống tri thức, giải quyết những vấn đề thực tiễn mà còn cần dành sự tôn trọng đặc biệt về phẩm chất, về lối sống, đề cao sự rèn luyện, thực hành đạo đức cách mạng, phong cách, lề lối làm việc khoa học, có kế hoạch và cùng với họ bồi dưỡng, rèn luyện làm cho những phẩm chất đó được tỏa sáng. Để làm tốt việc đó, bên cạnh sự giúp đỡ thường xuyên, chí tình, người thầy phải là tấm gương về đạo đức, lối sống, phong cách, lề lối làm việc để người học tin tưởng và làm theo. Tạo động lực mạnh mẽ cho sự tự khai phóng, thúc đẩy ham muốn học tập, rèn luyện để trở thành con người tốt hơn, nhân văn hơn, thực sự là những chiến sĩ tiên tiến của Đảng.

Thứ năm, xây dựng môi trường sư phạm trong trường Đảng thể hiện rõ sự văn minh, đạo đức, kỷ luật của Đảng. Trước hết, đó là những vấn đề về kỷ luật, kỷ cương trong tổ chức dạy và học. Người thầy đảm bảo giờ dạy, kế hoạch, giáo án, quản lý lớp theo đúng yêu cầu; luôn tôn trọng, giữ thái độ đúng mực, giúp đỡ, hỗ trợ học viên trong học tập. Tổ chức thi, đánh giá nghiêm túc, thực chất, với mục tiêu khắc phụ tình trạng ngại học, lười học lý luận chính trị, phát triển tư duy sáng tạo, khả năng vận dụng lý luận vào giải quyết vấn đề thực tiễn, không đánh đố người học. Người học giữ gìn kỷ luật lớp học, tích cực học tập, thảo luận chiếm lĩnh tri thức, xây dựng lớp học mà mọi học viên đều chung mục tiêu, luôn cùng nhau trao đổi, chia sẻ kiến thức, đưa ra những vấn đề mới, vấn đề khó để cùng bàn bạc tìm giải pháp giải quyết. Không gian, cảnh quan môi trường, các điều kiện cơ sở vật chất phục vụ sinh hoạt, học tập, rèn luyện sức khỏe đầy đủ, sạch, đẹp. Đội ngũ cán bộ hỗ trợ, phục vụ trong trường Đảng hướng đến người dạy, người học, tạo mọi điều kiện tốt nhất cho giảng dạy và học tập.

Một không gian học tập tốt, phục vụ người học, đáp ứng được các nhu cầu tìm tòi tri thức, rèn luyện sức khỏe sẽ giúp người học tự học, tự trau dồi tri thức hiệu quả hơn. Cùng với sự yêu thương, tôn trọng, không ngừng giúp đỡ của người thầy sẽ là động lực lớn để người học tích cực, chủ động và được khai mở tâm trí. Môi trường học tập càng nghiêm túc, nhân văn, càng hướng tới người học thì càng nhắc nhở người học về mục tiêu học, ý thức học, ý thức thực hiện kỷ cương, kỷ luật học tập là cơ sở để đổi mới sáng tạo trong tổ chức giảng dạy ở trường Đảng.

Kết luận

Tóm lại, ở trường Đảng, học viên là cán bộ, đảng viên của Đảng, đứng trong hàng ngũ của Đảng là để phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc chứ không phải để làm quan phát tài, đến trường nhằm học để làm người, làm việc, học để phụng sự nhân dân, Tổ quốc và nhân loại. Đó là chân lý, là yêu cầu, là mục tiêu để người cán bộ, đảng viên học ở trường Đảng, người thầy dạy ở trường Đảng khai phóng tiềm năng, phát huy tính tích cực, chủ động trong dạy và học. Đổi mới tư duy về cách dạy, cách học ở cả thầy và trò trên cơ sở quán triệt tinh thần, phương pháp của chủ nghĩa Mác - Lênin, phương pháp khai phóng Hồ Chí Minh, quan điểm, yêu cầu của Đảng là để phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc, góp phần vào sự nghiệp xây dựng Đảng, xây dựng đất nước.

 

Tài liệu tham khảo:

[1] Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb. Sự thật, Hà Nội.

[2] Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

[3] Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

[4] Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

[5] Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

[6] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập II, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.

[7] Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

[8] Nghị quyết số 37-NQ/TW ngày 9 tháng 12 năm 2014 của Bộ Chính trị Về công tác lý luận và định hướng nghiên cứu đến năm 2030, https://tulieuvankien.dangcongsan.vn

[9] Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 - khoá XII, https://thuvienphapluat.vn

[10] Giản Tư Trung (2023), Sư phạm khai phóng - Thế giới, Việt Nam & Tôi, Nxb. Tri thức, Hà Nội.


Ngày nhận: 29/05/2024 Ngày phản biện: 20/06/2024 Duyệt đăng: 16/07/2024

Đọc thêm

Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng trong tác phẩm "Sửa đối lối làm việc" đối với rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên hiện nay

Tác giả: TRẦN THỊ THIỀU HOA - ĐẶNG MINH PHỤNG

(GDLL) - Giáo dục đạo đức cho cán bộ, đảng viên là vấn đề được Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm trong quá trình xây dựng Đảng. Người thường xuyên nhắc nhở cán bộ, đảng viên phải rèn luyện, trau dồi, giữ vững đạo đức cách mạng. Trên cơ sở truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc, chắt lọc tinh hoa đạo đức nhân loại, Người phát triển và sáng tạo những giá trị đạo đức mới phù hợp với điều kiện Việt Nam. Bài viết tìm hiểu việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” đối với việc rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên hiện nay.

Bồi dưỡng, nâng cao năng lực, phẩm chất cho đội ngũ cán bộ tuyên giáo, nhà báo ở Việt Nam hiện nay

Tác giả: Ngô Quang Trung

(GDLL) - Bồi dưỡng, nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ tuyên giáo, nhà báo đóng vai trò hết sức quan trọng trong thực hiện nhiệm vụ chính trị của Đảng và Nhà nước hiện nay. Bài viết tập trung làm rõ những yêu cầu về năng lực, phẩm chất của cán bộ tuyên giáo, nhà báo trong bồi dưỡng nâng cao, quán triệt theo tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng. Trên cơ sở đó, đề xuất một số giải pháp nhằm bồi dưỡng, nâng cao năng lực, phẩm chất cho đội ngũ cán bộ tuyên giáo, nhà báo đáp ứng yêu cầu trong bối cảnh mới ở Việt Nam hiện nay.

Vận dụng sáng tạo hình thức đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng giai đoạn 1930-1945 vào thực tiễn ở Việt Nam hiện nay

Tác giả: BIỆN THỊ HOÀNG NGỌC

(GDLL) - Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo cuộc đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong suốt tiến trình cách mạng Việt Nam bằng nhiều phương thức phong phú, sáng tạo, hiệu quả. Bài viết trình bày sự sáng tạo, đa dạng hóa các hình thức đấu tranh phản bác các quan điểm chống phá nền tảng tư tưởng của Đảng giai đoạn 1930-1945 và một số vấn đề cần vận dụng trong đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng hiện nay.

Quan điểm Hồ Chí Minh về nâng cao trình độ dân trí cho nhân dân và sự vận dụng của Đảng trong thời kỳ đổi mới

Tác giả: NGUYỄN THỊ THU HUYỀN

(GDLL) - Trong bối cảnh một thế giới đang có nhiều đổi thay mạnh mẽ như hiện nay, việc nâng cao dân trí cho Nhân dân không chỉ là điều kiện để đem lại cuộc sống tốt đẹp cho mỗi người dân và xã hội mà hơn thế nữa, nó còn mang ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển bền vững và tiến bộ của đất nước. Vì vậy, bài viết tập trung phân tích một số quan điểm cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về nâng cao trình độ dân trí cho Nhân dân, từ đó chỉ ra sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam trong công cuộc đổi mới hiện nay.

Nhận diện và phản bác quan điểm sai trái, thù địch trên không gian mạng về vấn đề "tự do tôn giáo"

Tác giả: NGUYỄN GIA HÙNG - KIM THỊ MỘNG NHI

(GDLL) - Không gian mạng có thể được hiểu là một không gian ảo, nơi con người có thể thực hiện các hành vi xã hội mà không bị giới hạn về không gian và thời gian. Đây là nơi dễ bị kẻ xấu, các thế lực thù địch sử dụng nhằm thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật, đặc biệt là lợi dụng về vấn đề “tự do tôn giáo”. Bài viết bước đầu nhận diện các quan điểm sai trái, thù địch lợi dụng vấn đề “tự do tôn giáo” trên không gian mạng. Trên có sở đó, bài viết đưa ra các luận cứ nhằm đấu tranh và phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trên không gian mạng về vấn đề “tự do tôn giáo”.