Lần
đầu tiên Đảng ta ban hành một Nghị quyết chuyên đề về Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa, trong đó xác định các mục tiêu chủ yếu là: Xây dựng hệ thống pháp luật
hoàn thiện, được thực hiện nghiêm minh, nhất quán; thượng tôn Hiến pháp và pháp
luật, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ hiệu quả quyền con người, quyền công dân; quyền
lực nhà nước là thống nhất, được phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ, kiểm
soát hiệu quả; nền hành chính, tư pháp chuyên nghiệp, pháp quyền, hiện đại; bộ
máy nhà nước tinh gọn, trong sạch, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; đội ngũ cán bộ,
công chức, viên chức có đủ phẩm chất, năng lực, thực sự chuyên nghiệp, liêm
chính; quản trị quốc gia hiện đại, hiệu quả; đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước
nhanh, bền vững, trở thành nước phát triển, có thu nhập cao theo định hướng xã
hội chủ nghĩa vào năm 2045. Việc thực hiện thành công các mục tiêu này có ý
nghĩa rất quan trọng, là tiền đề vững chắc để đất nước phát triển bền vững
trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.
Thực
hiện Nghị quyết số 27-NQ/TW, trong gần 2 năm qua, chúng ta đã đạt được những kết
quả đáng khích lệ. Trong đó, xây dựng pháp luật có nhiều đổi mới, năng lực phản
ứng chính sách được nâng cao, góp phần tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, thúc đẩy sản
xuất, kinh doanh, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của Nhân dân, bảo đảm
quốc phòng, an ninh; công tác tổ chức thực hiện pháp luật ngày càng gắn kết hơn
với xây dựng và hoàn thiện pháp luật; cải cách hành chính, chuyển đổi số được đẩy
mạnh và có những kết quả nhất định; công cuộc phòng, chống tham nhũng, tiêu cực
được triển khai bài bản, thường xuyên và đạt được nhiều kết quả với tinh thần
không có vùng cấm, không có ngoại lệ, xử lý một vụ, cảnh tỉnh cả vùng, cả lĩnh
vực, qua đó giúp tăng cường một bước kỷ cương, trách nhiệm, tính nghiêm minh
trong thực thi công vụ.
Tuy
nhiên, việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam vẫn còn nhiều tồn tại, hạn chế. Nhận thức về tầm quan trọng của Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam có lúc, có nơi chưa đồng đều. Một số chủ
trương, định hướng lớn của Đảng chưa được thể chế kịp thời, đầy đủ hoặc đã thể
chế nhưng tính khả thi không cao; hệ thống pháp luật còn có quy định mâu thuẫn,
chồng chéo, chưa phù hợp với sự phát triển kinh tế, xã hội, chậm được bổ sung,
sửa đổi, thay thế. Cơ chế, chính sách, pháp luật chưa tạo dựng được môi trường
thực sự thuận lợi để thúc đẩy đổi mới sáng tạo, thu hút nguồn lực của các nhà đầu
tư trong và ngoài nước cũng như trong Nhân dân. Công tác sắp xếp, kiện toàn tổ
chức bộ máy hành chính Nhà nước tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, giảm đầu
mối, giảm cấp trung gian còn bất cập, một bộ phận còn cồng kềnh, chồng lấn giữa
lập pháp và hành pháp, chưa thực sự đáp ứng yêu cầu nâng cao hiệu lực, hiệu quả
quản lý. Một số bộ, ngành chưa đẩy mạnh phân cấp, phân quyền cho địa phương,
làm thay công việc của địa phương dẫn đến tồn tại cơ chế xin, cho, dễ nảy sinh
tiêu cực, tham nhũng. Công tác cải cách hành chính, chuyển đổi số, xây dựng
chính quyền điện tử, chính quyền số còn hạn chế. Tổ chức thực thi pháp luật,
chính sách vẫn là khâu yếu, còn một bộ phận cán bộ chưa chủ động, thiếu trách
nhiệm trong thực thi công vụ; tình trạng đùn đẩy, né tránh trách nhiệm, "đổ
lỗi" cho hệ thống pháp luật để không thực hiện chức trách, nhiệm vụ vẫn
còn tồn tại ở một số bộ, ngành, địa phương.
Những
tồn tại, hạn chế nêu trên đã làm suy giảm ý nghĩa, vai trò của Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trên thực tiễn.
Để
thực hiện các mục tiêu phát triển đất nước trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc
Việt Nam, đòi hỏi tiếp tục phải đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng
đối với Nhà nước và xã hội; phát huy quyền làm chủ của Nhân dân và xử lý hài
hòa mối quan hệ Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ và phát huy vị
trí, vai trò của từng nhân tố này trong quá trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trong đó cần chú ý các vấn đề cơ bản sau
đây:
Một
là, Đảng ta là Đảng cầm quyền, sự lãnh đạo của Đảng là tuyệt đối, trực tiếp,
toàn diện, bao trùm mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc
phòng, an ninh, đối ngoại… Đặc thù của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam là đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng. Do đó, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa là biện pháp, cách thức để thực hiện thành công mục tiêu của Đảng ta
đã được xác định trong Điều lệ Đảng: "xây dựng nước Việt Nam độc lập, dân
chủ, giàu mạnh, xã hội công bằng, văn minh, không còn người bóc lột người, thực
hiện thành công chủ nghĩa xã hội và cuối cùng là chủ nghĩa cộng sản". Đảng
lãnh đạo bằng đường lối, chính sách; lãnh đạo thể chế hóa đường lối, chính sách
thành pháp luật để quản lý Nhà nước và xã hội. Như vậy, pháp luật trong Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa cần phải liên tục được hoàn thiện để thể chế hóa đường
lối, chính sách của Đảng, phát huy dân chủ, vì con người, công nhận, tôn trọng,
bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Để thực hiện tốt công tác này
cần có cơ chế kiểm soát hiệu quả việc thể chế hóa đường lối, chủ trương, chính
sách của Đảng thành pháp luật của Nhà nước. Đồng thời, phải có quy trình xây dựng
pháp luật chặt chẽ, khoa học, dân chủ để chính sách, pháp luật thể hiện được đầy
đủ ý chí, nguyện vọng của nhân dân, bảo vệ lợi ích nhà nước, quyền và lợi ích hợp
pháp, chính đáng của tổ chức, cá nhân, khuyến khích đổi mới sáng tạo, thu hút mọi
nguồn lực cho sự phát triển; nhưng cũng phải linh hoạt để kịp thời phản ứng
chính sách, có giải pháp xử lý kịp thời các vấn đề thực tiễn phát sinh làm chậm
sự phát triển theo nguyên tắc bảo vệ, bảo đảm lợi ích của quốc gia, dân tộc là
trước hết và trên hết. Là cơ quan thực hiện quyền lập pháp, Quốc hội cần đóng
vai trò chủ đạo, có các giải pháp bảo đảm hệ thống pháp luật được ban hành đáp ứng
được các yêu cầu của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Ủy ban Thường
vụ Quốc hội cần phát huy vai trò là cơ quan có thẩm quyền giải thích pháp luật
để những vướng mắc trong thực thi các đạo luật được xử lý kịp thời, đáp ứng yêu
cầu của cuộc sống. Trong quá trình tổ chức thi hành pháp luật, Chính phủ cần
theo dõi, đánh giá tình hình thi hành pháp luật để kịp thời phát hiện những quy
định pháp luật mâu thuẫn, chồng chéo, chưa phù hợp với thực tiễn, cản trở đổi mới
sáng tạo, thu hút nguồn lực đầu tư, sản xuất, kinh doanh để có biện pháp xử lý,
không để một số điều luật trở thành điểm nghẽn cản trở thực hiện quyền con người,
quyền công dân và phát triển kinh tế - xã hội.
Hai
là, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, không ngừng
phát huy dân chủ để Nhân dân tham gia hoạt động quản lý Nhà nước theo quy định
của Hiến pháp và pháp luật. Trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, bộ máy nhà nước được tổ chức khoa học, quyền lực nhà nước là thống nhất,
có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp,
hành pháp và tư pháp. Hoạt động công vụ phải bảo đảm sự tuân thủ pháp luật, thực
hiện quyền hạn theo chức trách, thẩm quyền, có sự thanh tra, kiểm tra chặt chẽ.
Bên cạnh đó, với đặc điểm của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là
đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng thì các vị trí lãnh đạo trong bộ máy nhà nước được
cơ cấu các vị trí lãnh đạo cấp ủy đảng tương ứng chịu trách nhiệm lãnh đạo, chỉ
đạo hoạt động của cơ quan trong bộ máy nhà nước từ trung ương đến cơ sở, hình
thành cơ cấu lãnh đạo chặt chẽ của Đảng đối với hoạt động quản lý nhà nước. Từ
nguyên lý và thực tiễn này, để phát huy hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước đối
với xã hội bằng pháp luật trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
thì cần phải tăng cường đồng thời 2 yếu tố: Đức trị và pháp trị. Trong đó, yếu
tố "đức trị" là sự phát huy các ưu điểm, thế mạnh, vị trí, vai trò của
tổ chức cơ sở Đảng, tính tiên phong, nêu gương của cán bộ Đảng viên để dẫn dắt
yếu tố "pháp trị" là việc thực hiện quản lý xã hội bằng pháp luật. Sự
thượng tôn pháp luật là biểu hiện của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, vì
vậy, cán bộ đảng viên phải gương mẫu, đi đầu trong chấp hành và tuân theo pháp
luật. Bên cạnh đó, cơ quan nhà nước có trách nhiệm tổ chức thi hành pháp luật
trong lĩnh vực mình quản lý, do đó, đảng viên là công chức, viên chức cần tích
cực giải quyết công việc theo thẩm quyền và hoàn thành tốt nhiệm vụ; chủ động
phát hiện, tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn, nhất là các khó
khăn, vướng mắc trong thực thi pháp luật để kịp thời có giải pháp hoặc tham
mưu, báo cáo cấp có thẩm quyền xử lý. Hay nói cách khác, sẽ không có Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa trên thực tế nếu như cán bộ, đảng viên, cơ quan Nhà
nước thờ ơ, thiếu trách nhiệm, vô cảm với quyền lợi hợp pháp, chính đáng của
người dân, doanh nghiệp và sự phát triển kinh tế - xã hội.
Phát
huy đạo đức cách mạng của từng cán bộ đảng viên, tinh thần trách nhiệm, chủ động
của từng cơ quan, đơn vị trong bộ máy nhà nước thì các mục tiêu cải cách hành
chính, cải cách tư pháp được thực hiện; người dân, doanh nghiệp sẽ thực sự là
trung tâm, là đối tượng phục vụ theo nguyên tắc thượng tôn pháp luật thì pháp
luật sẽ đi vào cuộc sống, pháp luật điều chỉnh một cách toàn diện, đầy đủ mọi
quan hệ xã hội. Kết quả là, xã hội sẽ vận hành và phát triển theo đúng đường lối,
chính sách mà Đảng đã ban hành. Từ đó, đất nước ta sẽ đạt được các mục tiêu
phát triển kinh tế, xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh theo đúng Cương lĩnh và
mục tiêu phát triển đất nước đến năm 2030, năm 2045 mà Đảng ta đã đề ra.
Ba
là, trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nhân dân được xác định
là người làm chủ theo quy định pháp luật và vận hành theo nguyên tắc "dân
biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng". Tuy
nhiên, để có dân chủ thực chất thì bên cạnh việc phải có hệ thống pháp luật
hoàn thiện theo các tiêu chí của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thì sự vận
hành hiệu quả của hệ thống chính trị cũng phải đáp ứng, phù hợp với nguyên tắc
thượng tôn Hiến pháp, pháp luật. Cũng tương tự như trong quản lý nhà nước, vị
trí, vai trò của tổ chức cơ sở Đảng và sự phát huy tính tiền phong, gương mẫu,
đức hi sinh vì sự nghiệp chung của cán bộ đảng viên có ý nghĩa quan trọng trong
phát huy quyền làm chủ của nhân dân tham gia quản lý Nhà nước, quản lý xã hội.
Để
làm được điều này, cần đổi mới, nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ cơ sở Đảng,
đảm bảo hoạt động sinh hoạt chi bộ thực chất, hiệu quả. Bên cạnh việc triển
khai, quán triệt, học tập văn bản, nghị quyết của cấp trên như cách làm hiện
nay thì nội dung sinh hoạt chi bộ cơ sở Đảng cần nghiên cứu, bổ sung các chuyên
đề như: Nội dung pháp luật cần triển khai; các vấn đề mà thực tiễn pháp lý đặt
ra liên quan đến quyền lợi của người dân; vấn đề phát triển kinh tế - xã hội, bảo
đảm an ninh trật tự, an toàn cần giải quyết; các vấn đề dư luận xã hội, quần
chúng quan tâm cần định hướng về quan điểm, nội dung chính sách, pháp luật và đấu
tranh phản bác quan điểm sai trái của các thế lực thù địch… Để đạt được các mục
tiêu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam thì những vấn đề
thiết thực này cần được các cấp ủy thảo luận, quán triệt đến đảng viên ngay từ
cơ sở với tinh thần mỗi chi bộ là một tế bào của Đảng ta. Để Đảng vững mạnh thì
mỗi chi bộ cơ sở cần phát huy vai trò, đổi mới hoạt động sinh hoạt để có những
đóng góp thiết thực cho Đảng. Mỗi đảng viên là nhân tố quan trọng lan tỏa tinh
thần dân chủ và thượng tôn pháp luật đến nhân dân; để từ đó phát huy dân chủ
trong nhân dân, làm cho mọi cá nhân, tổ chức đồng tình, ủng hộ với đường lối,
chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và chủ động tuân thủ, thực thi pháp
luật.
Dưới
sự lãnh đạo của Đảng, dân chủ xã hội chủ nghĩa được phát huy, nhân dân là chủ
thể của quá trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, mỗi công dân tích cực, chủ động tham gia vào công tác xây dựng, hoàn
thiện pháp luật, có ý thức thượng tôn pháp luật thì sẽ tạo nên sức mạnh của cả
hệ thống chính trị để hoàn thành các mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội, bảo đảm
quốc phòng, an ninh và đưa đất nước bước vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt
Nam.
(theo tuyengiao.vn)