
Hội thảo Logistic xanh - nâng cao năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp XNK ĐBSCL (nguồn news.vnanet.vn)
Đặt vấn đề
Sau ảnh hưởng bất ngờ của đại dịch Covid-19, thương mại
trong nước cũng như toàn cầu gặp nhiều khó khăn cùng với những rủi ro, bất ổn về
kinh tế, chính trị. Theo đó, nguồn cung ứng về hàng hóa, nguyên vật liệu đáp ứng
nhu cầu khách hàng bị thiếu hụt gia tăng, dẫn đến tình trạng đứt gãy chuỗi cung
ứng. Logistics - hoạt động “xương sống” của chuỗi cung ứng cũng bị ảnh hưởng
mạnh mẽ. Trước thực trạng đứt gãy của chuỗi cung ứng, logistics được đặt ra
yêu cầu khắc phục những vấn đề nảy sinh, vượt qua những khó khăn, thách thức và
tận dụng cơ hội chuyển đổi phương pháp tổ chức và tăng cường sức cạnh tranh cho
các doanh nghiệp, từ đó khẳng định vị thế của mình trong xu thế chuyển đổi số.
Đối với lĩnh vực logistics, chuyển đổi số trong logistics là quá trình ứng dụng
các công nghệ số, kỹ thuật số vào quy tình, mô hình, và hoạt động logistics để
nâng cao hiệu quả, hiệu suất, tính linh hoạt và khả năng ứng phó của chuỗi cung
ứng.
Tại Việt Nam, vai trò của chuyển đổi số trong logistics
được Chính phủ đặc biệt quan tâm. Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt “Chương
trình chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”, trong đó
hoạch định logistics là một trong tám ngành được ưu tiên chuyển đổi số trước[3]. Bên cạnh đó, “Kế
hoạch hành động nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển dịch vụ logistics Việt
Nam với tầm nhìn đến năm 2045” cũng được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt trong
Quyết định số 200/QĐ-TTg và 221/QĐ-TTg, trong đó việc nghiên cứu, ứng dụng và
chuyển giao công nghệ, đẩy mạnh chuyển đổi số trong dịch vụ logistics cũng là
nhiệm vụ để phát triển ngành logistics Việt Nam.
1. Logistics và vai trò của logistics đối với phát triển kinh tế
Thuật ngữ
logistics xuất hiện từ những năm đầu thế kỷ 17 với nguồn gốc từ từ “logistique”
với gốc từ là “loger” có nghĩa là trại lính. Đây là một từ Pháp cổ, sử dụng
trong quân đội Pháp với ý nghĩa nhấn mạnh sự thành công của một chiến dịch quân
sự không chỉ nằm ở lực lượng binh lính tinh nhuệ, ở vũ khí hiện đại mà còn ở khả
năng đáp ứng của hậu cần về lương thực, quân trang... Bộ phận chịu trách nhiệm
các công việc hậu cần này được gọi là ngành hậu cần quân đội – “một chuyên
ngành của khoa học và chiến dịch quân sự thực hiện chức năng mua, cung ứng và bảo
trì thiết bị, vận chuyển binh lính, cung cấp phương tiện và quản lý các công việc
liên quan”[6].
Ban đầu
khi mới xuất hiện, logistics được hiểu là quản lý việc di chuyển và lưu trữ của
nguyên vật liệu đi vào doanh nghiệp; hàng hóa đang gia công tại doanh nghiệp;
thành phẩm/sản phẩm đi ra khỏi doanh nghiệp. Sau đó, trong quá trình phát triển,
các định nghĩa về logistics dần dần được đưa ra. Edward Frazelle (2003) - tác
giả cuốn “Supply chain strategy” cho rằng logistics là dòng chảy của nguyên vật
liệu, thông tin và tiền tệ giữa người tiêu dùng và nhà cung cấp[7].
Theo từ
điển Cambridge, logistics được định nghĩa là “the process of planning and
organizing to make sure that resources are in the places where they are needed,
so that an activity or process happens effectively”[8], tức là quá trình lập kế hoạch và tổ chức để đảm bảo
các nguồn lực luôn ở đúng nơi cần thiết, do vậy hoạt động hoặc quy trình diễn
ra một cách hiệu quả.
Định
nghĩa về logistics đầy đủ nhất cũng như được sử dụng nhiều nhất là định nghĩa của
Hội đồng Quản trị Logistics Hoa Kỳ (1988), logistics là quá trình lên kế hoạch,
tổ chức thực hiện và kiểm soát một cách hiệu quả việc luân chuyển và lưu trữ
hàng hóa, dịch vụ và thông tin liên quan từ điểm xuất phát đến điểm tiêu thụ nhằm
mục đích đáp ứng yêu cầu của khách hàng[4].
Trong bối
cảnh mới, logistics có vai trò to lớn đối với phát triển kinh tế. Điều đó biểu
hiện:
Một là, logistics có vai trò quan trọng đối với nền kinh tế
quốc dân.
Theo Báo
cáo về chỉ số Năng lực logistics theo quốc gia năm 2022 của Agility - nhà cung
cấp dịch vụ vận tải và hậu cần kho vận hàng đầu thế giới, thị trường logistics
Việt Nam xếp thứ 11 trong nhóm 50 thị trường logistics mới nổi toàn cầu. Cũng
theo báo cáo này, năm 2023 Việt Nam lọt tốp 10 thị trường logistics mới nổi
trên thế giới và đứng thứ 4 Đông Nam Á, sau Malaysia, Indonesia và Thái
Lan.
Logistics
phát triển thúc đẩy các hoạt động thương mại quốc tế, mua bán, trao đổi hàng
hóa quốc tế được diễn ra thuận lợi hơn, có nhiều cơ hội mở rộng quy mô sản xuất
kinh doanh, mang lại nguồn lợi lớn, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.
Logistics tạo ra các giá trị gia tăng bằng cách tạo ra các tiện ích. Logistics
cung cấp đúng sản phẩm với đúng số lượng, đúng điều kiện tới đúng địa điểm,
đúng thời gian, đúng khách hàng với đúng chi phí. Trong đó, đúng thời gian và
đúng địa điểm là hai giá trị cốt lõi mang lại giá trị gia tăng của
logistics.
Việc vận
chuyển, lưu thông này được thực hiện bởi hoạt động vận tải trong logistics. Hoạt động vận tải đường biển đảm nhận trên
85% khối lượng hàng hóa di chuyển giữa các quốc gia toàn cầu, còn tại Việt Nam
là khoảng 95%[6].
Theo thống kê của Cục Hàng không Việt Nam, năm 2023 hoạt động vận chuyển hàng
hóa bằng đường không đạt 1,1 triệu tấn, giảm 9,3% so với 2022, bằng 87,3% so với
với năm 2019 (thời điểm trước dịch Covid-19), sang năm 2024 dự kiến sản lượng
hàng hóa vận chuyển ước tính đạt 1,16 triệu tấn (tăng 4,8% so với năm 2023),
trong đó, hàng hóa nội địa là 210 nghìn tấn (tăng 10,5% so với năm 2023), hàng
hóa quốc tế là 950 nghìn tấn (tăng 3,6% so với năm 2023)[5].
Có thể thấy,
logistics là mối liên kết kinh tế toàn bộ quá trình sản xuất, lưu thông, và
phân phối hàng hóa. Nền kinh tế phát triển liên tục, nhịp nhàng, đồng bộ khi
dây chuyền logistics cũng hoạt động liên tục, nhịp nhàng.
Hai là, logistics góp phần to lớn trong hoạt động sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp.
Logistics
giải quyết hiệu quả đầu ra và đầu vào của doanh nghiệp, tối ưu hoá quá trình vận
chuyển nguyên, vật liệu đầu vào, vận chuyển và phân phối hàng hoá, dịch vụ đầu
ra tới người tiêu dùng, bảo đảm hàng hóa vận chuyển và phân phối kịp thời và
chính xác. Logistics giúp nhà quản lý doanh nghiệp nâng cao năng lực quản lý,
kiểm soát và đưa ra các quyết định chính xác giúp giảm chi phí trong sản xuất,
phân phối hàng hóa, gia tăng khả năng cạnh tranh cho doanh nghiệp bằng cách xây
dựng những phương án tối ưu trong dự trữ, vận chuyển, mua hàng...
Bên cạnh
đó, việc áp dụng các công nghệ hiện đại trong logistics như Internet vạn vật,
thực tế ảo, xe tự lái và drones, trí tuệ nhân tạo/máy học, chuỗi khối, điện
toán đám mây, tracking & tracing,... giúp tối ưu hóa hoạt động logistics,
tăng cường tự động hóa kho bãi, cung cấp thông tin chi tiết, dự báo nhu cầu, quản
lý vận hành theo thời gian thực tế, từ đó giảm chi phí và nâng cao hiệu quả hoạt
động của doanh nghiệp.
2. Cơ hội và thách thức trong chuyển đổi số ngành logistics Việt
Nam
2.1. Cơ hội từ chuyển đổi số
Thứ nhất, đối với
môi trường vĩ mô, nhiều chiến lược, văn bản pháp lý quy định hướng thúc đẩy
phát triển logistics và chuyển đổi số trong logistics Việt Nam được Đảng và Nhà
nước ban hành. Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng thông qua Chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội 10 năm 2021 – 2030 nhấn mạnh “Đẩy mạnh cơ cấu lại các ngành dịch
vụ dựa trên nền tảng công nghệ hiện đại, công nghệ số, phát triển các loại dịch
vụ mới, xây dựng hệ sinh thái dịch vụ trong các lĩnh vực tài chính, ngân hàng,
bảo hiểm, pháp lý, y tế, giáo dục - đào tạo, viễn thông và công nghệ thông tin,
logistics và vận tải, phân phối...”[1]
Cụ thể,
Quyết định 749/QĐ-TTg năm 2020 phê duyệt Chương trình chuyển đổi số quốc gia đến
năm 2025, định hướng 2030 xác định logistics là một trong tám ngành được ưu
tiên chuyển đổi số trước. Quyết định
942/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược chính phủ điện tử, hướng tới chính phủ số 2021
– 2025. Quyết định 221/QĐ-TTg xác định một trong những nhiệm vụ nâng cao năng lực
cạnh tranh và phát triển dịch vụ logistics Việt Nam đến năm 2025 là chuyển đổi
số trong logistics. Logistics là một trong những ngành then chốt, “mạch máu” của
nền kinh tế quốc dân, cần được đầu tư mạnh mẽ, cần được số hóa để đáp ứng,
thích nghi với bối cảnh thị trường hiện nay, hỗ trợ cho các ngành nghề khác
phát triển.
Chính phủ
với nhiều các chính sách để hỗ trợ cho các doanh nghiệp logistics phát triển sẽ
là nền tảng, cơ sở vững chắc, tạo động lực cho lĩnh vực logistics phát triển
môi trường kinh tế vĩ mô, môi trường chính trị ổn định với các chính sách tạo
điều kiện thuận lợi cho lĩnh vực logistics cũng đang thu hút đầu tư từ các nhà
đầu tư với tiềm lực về tài chính và có kinh nghiệm quản trị.
Thứ hai, các
doanh nghiệp logistics bước đầu đã có nhận thức về tầm quan trọng, mục tiêu, động
cơ thực hiện chuyển đổi số. Điều này là cơ sở quyết định sự thành công trong việc
triển khai các giải pháp chuyển đổi số trong từng doanh nghiệp logistics. Hội
nghị Ban Chấp hành Hiệp hội Doanh nghiệp dịch vụ logistics Việt Nam vào tháng
5/2020 đã ra các nghị quyết tiến hành các dự án liên quan đến chuyển đổi số.
Mức độ nhận
thức của các doanh nghiệp tương đối cao, khoảng 79,8% doanh nghiệp logistics
cho rằng chuyển đổi số là quan trọng đối với hoạt động sản xuất kinh doanh,
72,9% doanh nghiệp dịch vụ logsitcs quan tâm đến vấn đề chuyển đổi số, coi chuyển
đổi số là một trong những trụ cột phát triển doanh nghiệp[3]. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp cũng đưa
ra các động cơ tiến hành chuyển đổi số như tăng hiệu quả kinh doanh của doanh
nghiệp, giảm chi phí cung cấp cho khách hàng, giản chi phí kinh doanh hiệu quả,
giữ tối đa thị phần của doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp hợp tác với đối tác để
triển khai hiệu quả chuyển đổi số,...
Thứ ba, sự tác
động tích cực từ quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Tính đến tháng 5/2024, Việt
Nam đã ký kết, thực thi và đang đàm phán 19 Hiệp định thương mại tự do, trong
đó, 16 Hiệp định đã ký kết và thực thi, 3 Hiệp định đang đàm phán[10]. Điều này, mang
đến cho Việt Nam nhiều cơ hội, đặc biệt cho ngành logistics nói chung và chuyển
đổi số trong logistics nói riêng. Đặc biệt, Hiệp định Thương mại tự do giữa Việt
Nam và Liên minh châu Âu hiệu lực từ ngày 1/8/2020 đã mở ra cánh cửa mới, cơ hội
mới, triển vọng mới cho xuất khẩu của Việt Nam, đa dạng hóa thị trường và mặt
hàng xuất khẩu. Hiệp định đã tạo điều kiện phát triển cho các doanh nghiệp xuất
nhập khẩu, doanh nghiệp logistics, từ đó hỗ trợ tích cực cho sự phát triển của
chuyển đổi số trong lĩnh vực logistics để đáp ứng yêu cầu thị trường trong nước
và nước ngoài.
2.2. Một số
thách thức từ chuyển đổi số đặt ra
Đối với nguồn lực tài chính, Việt Nam hiện nay có khoảng 97% doanh nghiệp nhỏ và vừa. Tuy
nhiên, các doanh nghiệp nhỏ và vừa hầu hết gặp khó khăn về vốn, cụ thể tính đến
cuối tháng 6/2023 các doanh nghiệp này có dư nợ đạt gần 2,3 triệu tỷ đồng, tăng
gần 4% so với cuối năm 2022, chiếm khoảng 18,5% dư nợ nền kinh tế[12]. Nguyên nhân chủ
yếu do ảnh hưởng của đại dịch Covid-19 và tác động của tình hình thế giới, đơn
hàng sụt giảm, đầu ra khó khăn, chi phí nguyên, nhiên, vật liệu cao..., hoạt động
sản xuất kinh doanh cũng bị ảnh hưởng. Vì lí do thiếu vốn, các doanh nghiệp cho
rằng việc chuyển đổi số chủ yếu dành cho các doanh nghiệp lớn, họ chỉ ưu tiên đầu
tư vào các hoạt động tăng trưởng ngắn hạn. Đây là thách thức lớn trong chuyển đổi
số trong logistics.
Theo Báo
cáo Logistics Việt Nam 2023, đối với mức đầu tư cho chuyển đổi số, chỉ có 12,1%
doanh nghiệp logistics có thể đầu tư hơn 2 tỷ đồng, 11,4% doanh nghiệp
logistics có thể đầu tư từ 1 - 2 tỷ đồng, 38,6% doanh nghiệp logistics có thể đầu
tư 100 triệu đến 1 tỷ đồng cho chuyển đổi số, còn lại 37,9% doanh nghiệp
logistics chỉ có thể đầu tư dưới 100 triệu đồng. Mức đầu tư này là một con số rất
hạn chế cho công tác chuyển đổi số[3].
Đối với nguồn lực nhân sự, chuyển đổi số đòi hỏi doanh nghiệp phải có nguồn nhân lực có
trình độ về công nghệ thông tin, có khả năng triển khai các dự án về công nghệ
và năng lực tiếp nhận, làm việc trong môi trường số. Nhìn chung, nhiều vị trí
trong các doanh nghiệp ngành logistics từ cấp cao xuống cấp thấp đều hạn chế
trong năng lực về công nghệ, nhất là về chuyển đổi số. Bộ phận phụ trách về
công nghệ thông tin trong các doanh nghiệp thường có số lượng hạn chế, trình độ
ở mức cơ bản. Họ còn hạn chế kiến thức và kỹ năng về các công nghệ khoa học – kỹ
thuật mới. Báo cáo Logistics Việt Nam 2023 thực hiện khảo sát cho thấy số lượng
doanh nghiệp ngành logistics có trên 10 nhân sự công nghệ thông tin chiếm 1,1%,
có từ 6 – 10 nhân sự công nghệ thông tin chiếm 2,6%, có từ 3 – 5 nhân sự công
nghệ thông tin chiếm 7,1%, có 1 – 2 nhân sự công nghệ thông tin chiếm 56,7% và
không có nhân sự công nghệ thông tin chiếm 32,5%[3]. Đây cũng là khó khăn cho các doanh
nghiệp muốn tham gia vào chuyển đổi số.
Đối với tiềm lực về công nghệ, hiện nay phần lớn các công ty cung cấp các giải pháp công
nghệ trong lĩnh vực logistics như SmartLog,
Abivin, DTK Logistics Solution,… chủ yếu
cung cấp các giải pháp đơn lẻ, chưa kết nối thành nền tảng số cho ngành
logistics trên cả nước. Khoảng 46% doanh nghiệp hiện đang ứng dụng các loại
hình công nghệ[2].
Đặc biệt, các doanh nghiệp nhỏ và vừa gặp khó khăn trong lựa chọn công nghệ phù
hợp với doanh nghiệp của mình. Theo nghiên cứu của Hiệp hội Doanh nghiệp dịch vụ
logistics Việt Nam, đối với các hội viên, 41,9% doanh nghiệp ứng dụng hệ thống
quản lý giao nhận, 38,5% doanh nghiệp ứng dụng hệ thống theo dõi và truy xuất,
37,6% doanh nghiệp ứng dụng hệ thống quản lý vận tải, 27% doanh nghiệp ứng dụng
hệ thống soi mã vạch, 26,4% doanh nghiệp ứng dụng hệ thống quản lý nhân sự[11].
Hiện nay, phần lớn các doanh
nghiệp ngành logistics mới chỉ dừng ở mức độ số hóa, tức là quy trình hiện đại
hóa, chuyển từ cách làm việc thông thường sang hệ thống kỹ thuật số. Mức độ ứng
dụng khoa học - công nghệ chưa cao, nhiều phần mềm với tiêu chuẩn quốc tế chưa
được ứng dụng nhiều.
3. Một số khuyến nghị cho chuyển đổi số ngành logistics tại Việt
Nam
Thứ nhất, bổ sung,
hoàn thiện chính sách, pháp luật về logistics, tạo cơ sở pháp lý thuận lợi cho
hoạt động logistics. Tiếp tục sửa đổi, ban hành mới các chính sách, pháp luật
điều chỉnh logistics. Vững vàng, có thể bao quát toàn diện logistics, nội luật
hóa các cam kết quốc tế về logistics.
Thứ hai, xây dựng và ban hành các chính sách hỗ trợ thúc đẩy
ngành logistics phát triển. Đồng thời, xây dựng chính sách hỗ trợ phát triển
logistics tại địa phương hiệu quả, phù hợp với đặc điểm kinh tế - xã hội của từng
tỉnh/thành phố. Rà soát các cam kết quốc tế về logistics tại Tổ chức Thương mại
Thế giới, các hiệp định thương mại tự do,... từ đó hỗ trợ doanh nghiệp nâng cao
năng lực đàm phán, ký kết, thực hiện hợp đồng, xử lý tranh chấp liên quan đến
hoạt động logistics... Đặc biệt, cần lưu ý tới các chính sách tiêu chuẩn
logistics chung của quốc gia.
Thứ ba, tiếp tục
hoàn thiện kết cấu hạ tầng logistics, bảo đảm tính đồng bộ của hạ tầng giao
thông và dịch vụ vận tải với mục tiêu phát triển ngành logistics theo tinh thần
Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XIII đã xác định xây dựng kết cấu hạ tầng đồng
bộ là một trong ba đột phá chiến lược để phát triển đất nước.
Thứ tư, tiếp tục
phát triển thị trường logistics. Đẩy mạnh xúc tiến thương mại cho logistics
thông qua việc đăng cai, tổ chức các hội thảo, hội chợ, triển lãm quốc tế về
logistics. Học hỏi kinh nghiệm nước ngoài trao đổi cơ hội đầu tư, hợp tác về
phát triển logistics. Tập trung cải thiện cơ sở hạ tầng logistics gắn với
thương mại điện tử, kết hợp logistics với thương mại điện tử theo xu hướng phát
triển trên thế giới và khu vực.
Thứ năm, đẩy mạnh
hợp tác quốc tế trong ngành logistics. Tiếp tục mở rộng kết nối hạ tầng
logistics với các nước trong khu vực ASEAN, Đông Bắc Á và các khu vực khác trên
thế giới nhằm phát huy tác dụng của vận tải đa phương thức, vận tải xuyên biên
giới.
Thứ sáu, cần chú
trọng đến vấn đề an ninh mạng. Chuyển đổi công nghệ số đem lại nhiều lợi ích,
tuy nhiên việc ứng dụng nó cũng đem lại nhiều rủi ro. Vì vậy, cần tăng cường hợp
tác và nâng cao năng lực trong lĩnh vực an ninh mạng khi xây dựng và triển khai
chiến lược ứng dụng công nghệ.
Thứ bảy, tập trung
phát triển logistics thông minh dựa trên nền tảng của tiến bộ khoa học, công
nghệ, đổi mới sáng tạo, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong ngành
logistics, tận dụng và khai thác tối đa hiệu quả của quá trình chuyển đổi số để
phát triển ngành logistics.
Kết luận
Logistics
là một ngành quan trọng trong cơ cấu tổng thể nền kinh tế quốc dân, đóng vai
trò hỗ trợ, kết nối và thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của cả nước cũng
như từng địa phương, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế. Từ
đánh giá và nhận diện lợi ích, cơ hội và thách thức trong lĩnh vực logistics và
chuyển đổi số ngành logistics Việt Nam, bước đầu có thể hàm ý một số biện pháp
nhằm thúc đẩy ngành dịch vụ này: bổ sung, hoàn thiện chính sách, pháp luật về
logistics, tạo cơ sở pháp lý thuận lợi cho hoạt động logistics, xây dựng và ban
hành các chính sách hỗ trợ thúc đẩy ngành logistics phát triển; tiếp tục hoàn
thiện kết cấu hạ tầng logistics, bảo đảm tính đồng bộ của hạ tầng giao thông và
dịch vụ vận tải; tiếp tục phát triển thị trường logistics; chú trọng đến vấn đề
an ninh mạng; phát triển logistics thông minh dựa trên nền tảng của tiến bộ
khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin
trong ngành logistics, tận dụng và khai thác tối đa hiệu quả của quá trình chuyển
đổi số để phát triển ngành logistics... Chuyển đổi số trong logistics là một
quá trình tất yếu mà các doanh nghiệp logistics cần phải bắt nhịp để có thể cạnh
tranh trong thời đại mới nhằm thúc đẩy nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện
nay định hướng xã hội chủ nghĩa.
Tài
liệu tham khảo:
[1] Ban
Chấp hành Trung ương Đảng (2021), Chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021 – 2030, https://tulieuvankien.dangcongsan.vn
[2] Bộ Công Thương (2022), Báo cáo
Logistics Việt Nam 2022 – Logistics xanh, Nxb. Công Thương, Hà Nội.
[3] Bộ Công Thương (2023), Báo cáo
Logistics Việt Nam 2023, Chuyển đổi số trong Logistics, Nxb. Công
Thương, Hà Nội.
[4] Hoàng Văn Châu (2009), Giáo trình
Logistics và vận tải quốc tế, Nxb. Thông tin và Truyền thông, Hà Nội.
[5] Cục Hàng không Việt Nam (2023), Cục
Hàng không Việt Nam tổng kết công tác năm 2023 và triển khai kế hoạch công tác
năm 2024, https://caa.gov.vn
[6] Đỗ Quốc Dũng (2015), Giáo trình
Giao nhận, vận tải và bảo hiểm,
Nxb. Tài chính, Hà Nội.
[7] Edward Frazelle (2003), Supply Chain
Strategy (Logistics Management Library), New York: McGraw - Hill.
[8] Logistics,
https://dictionary.cambridge.org
[9] Vũ Phương Nhi (2020). Việt Nam phấn
đấu thuộc nhóm 50 nước dẫn đầu về Chính phủ điện tử,
https://mof.gov.vn
[10] Trung tâm WTO và Hội nhập (2024), Infographics:
Tổng hợp các FTA của Việt Nam tính đến tháng 05/2024,
https://media.chinhphu.vn
[11] Nguyễn Văn Vân, Nguyễn Xuân Quyết (2023), Ứng dụng công nghệ thông tin
của các doanh nghiệp logistics Việt Nam, https://tapchicongthuong.vn
[12] Nguyễn Anh Việt (2023), Tháo gỡ khó khăn về vốn cho doanh nghiệp nhỏ và vừa,
https://www.qdnd.vn