Thủ đô Hà Nội ngày càng khang trang, văn minh, hiện đại. Ảnh:
Nguyễn Quang
1. Trên thế giới, khái
niệm xã hội số đã được nhắc đến từ khá sớm, từ khi có sự ra đời của Internet và
không gian mạng, đặc biệt cho đến khi có sự ra đời của mạng xã hội và truyền
thông xã hội, thì xã hội số có không gian vô tận để phát triển.
Về
cơ bản, xã hội số là xã hội mà công nghệ được tích hợp và tham gia vào các khía
cạnh của cuộc sống. Ở đó, người dân có thể kết nối, tương tác, chia sẻ và sử dụng
các dịch vụ số, có hành vi và thói quen số và đặc biệt là kiến tạo văn hóa số
trên môi trường số. Xét theo nghĩa hẹp, xã hội số bao gồm công dân số và văn
hóa số, trong đó công dân số là những chủ thể hoạt động trên không gian số, có
khả năng sử dụng công nghệ trong các lĩnh vực trên mọi mặt của đời sống xã hôi
với các kỹ năng và phương thức sống mới như kỹ năng giao tiếp, hoạt động, dịch
vụ và truy cập không gian số để đáp ứng với nhu cầu xã hội của mình, có các hoạt
động xây dựng các giá trị, chuẩn mực xã hội mới, tiếp thu văn minh theo cách thức,
phương thức mới dựa trên công nghệ số. Bên cạnh đó, công dân số có các chuẩn mực
đạo đức trong môi trường số, có khả năng tự bảo vệ mình và bảo vệ cộng đồng, thực
hiện quyền và trách nhiệm công dân trên môi trường số.
Song
song với công dân số, văn hóa số ra đời dưới tác động của khoa học kỹ thuật và
công nghệ. Văn hóa số là phương thức và hoạt động văn hóa cuả cá nhân và cộng đồng
trên cơ sở ứng dụng công nghệ số, từ hoạt động sáng tạo, lưu giữ, truyền bá, tiếp
nhận, thưởng thức văn hóa; văn hóa số cũng là các quy tắc ứng xử, từ lối sống,
phương thức giao tiếp, làm việc… đến các chuẩn mực đạo đức, pháp luật của con
người trong môi trường số(1).
Một góc Hà Nội nhìn từ trên cao.
Công
nghệ số nói chung, hoạt động chuyển đổi số quốc gia nói riêng tạo ra một xã hội
mới với lượng tri thức đồ sộ của toàn nhân loại đã hình thành trong lịch sử và
sản sinh những giá trị xã hội mới trên nền tảng số. Bên cạnh đó, các phương tiện
truyền thông mới ra đời như truyền thông xã hội, truyền thông Internet với sự
đa dạng hóa của các kênh truyền thông như facebook, youtube, instagram, zalo…
đã trở thành các kênh thông tin, giao tiếp và trở thành hiện tượng xã hội mới,
là nơi công dân số hoạt động và cũng là nơi văn hóa số hình thành và phát triển.
2. Ở Việt Nam, kể từ khi
hoạt động chuyển đổi số quốc gia được Đảng và Nhà nước quan tâm chỉ đạo với đường
lối, chủ trương, hành lang pháp lý cụ thể thì vấn đề xây dựng xã hội số đã được
đặc biệt quan tâm.
Văn
kiện Đại hội XIII của Đảng xác định: “Phát triển nhanh và bền vững dựa chủ yếu
vào khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Phải đổi mới tư duy
và hành động, chủ động nắm bắt kịp thời, tận dụng hiệu quả các cơ hội của cuộc
Cách mạng công nghiệp lần thứ tư gắn với quá trình hội nhập quốc tế để cơ cấu lại
nền kinh tế, phát triển kinh tế số, xã hội số, coi đây là nhân tố quyết định để
nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh”(2).
Về
xã hội số, ngày 3/6/2020, Quyết định số 749/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ đặt
ra yêu cầu tạo điều kiện nhằm giúp người dân phát triển năng lực thích ứng với
xã hội số. Ngày 30/7/2021, Quyết định số 1373/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê
duyệt Đề án “Xây dựng xã hội học tập giai đoạn 2021-2030”, trong đó có Chương
trình “Xây dựng mô hình công dân học tập” trong điều kiện xã hội số. Quyết định
số 411/QĐ-TTg ngày 31/03/2022 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt “Chiến lược quốc
gia phát triển kinh tế số và xã hội số đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”
đã đưa ra khái niệm “xã hội số là xã hội tích hợp công nghệ số một cách tự
nhiên và mặc định vào mọi mặt của đời sống, người dân được kết nối, có khả năng
tương tác và thành thạo kỹ năng số để sử dụng các dịch vụ số, từ đó, hình thành
các mối quan hệ mới trong môi trường số, hình thành thói quen số và văn hóa số”.
Từ đây, có thể thấy nội hàm về xã hội số đã dần được hình thành để phù hợp với
bối cảnh mới của nước ta. Chuyển đổi số đã tạo ra một môi trường văn hóa mới của
con người, đó là môi trường số, môi trường trên internet, môi trường ảo, bên cạnh
môi trường thực mà chúng ta đã, đang sống quen thuộc. Môi trường số đòi hỏi có
văn hóa số, công dân số, con người thời đại số.
Tháp Rùa - Hồ Hoàn Kiếm.
Quyết
định số 411/QĐ-TTg ngày 31/3/2022 phê duyệt “Chiến lược quốc gia phát triển
kinh tế số và xã hội số đến năm 2025, định hướng đến năm 2030” cũng đã khẳng định
“Việt Nam cần nhanh chóng nắm bắt, hành động mạnh mẽ để phát triển kinh tế số
và xã hội số, phát triển thêm các ngành nghề kinh doanh mới, mở ra các thị trường
mới và tạo thêm nhiều nhu cầu việc làm mới, từ đó bứt phá vươn lên thay đổi thứ
hạng quốc gia”, theo đó, thể chế, hạ tầng, nguồn nhân lực, người dân đóng vai
trò quan trọng cho phát triển kinh tế số và xã hội số.
Phát
biểu chỉ đạo tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc tháng 11-2021, Tổng Bí thư Nguyễn
Phú Trọng yêu cầu: “xây dựng môi trường văn hóa số phù hợp với nền kinh tế số,
xã hội số và công dân số, làm cho văn hóa thích nghi, điều tiết sự phát triển bền
vững đất nước trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp lần thứ tư”(3). Trong bài viết « Chuyển đổi số phải thực sự
là một cuộc cách mạng đưa đất nước vươn mình vượt bậc trong kỷ nguyên mới” của
Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm cũng nhấn mạnh: “Tập trung xây dựng xã hội số,
số hóa toàn diện hoạt động quản lý nhà nước, cung cấp dịch vụ công trực tuyến mức
độ cao. Kết nối đồng bộ các cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, đất đai, doanh
nghiệp, tạo nền tảng tinh gọn bộ máy, cải cách thủ tục hành chính thực chất.
Phát triển kinh tế số tạo động lực mới cho tăng trưởng; thúc đẩy ứng dụng công
nghệ số trong mọi ngành, lĩnh vực, tạo ra các mô hình kinh doanh mới. Phát triển
công dân số, trang bị kiến thức, kỹ năng cần thiết để người dân tham gia hiệu
quả vào nền kinh tế số và xã hội số, bảo đảm không ai bị bỏ lại phía sau”(4).
Việt
Nam với hơn 100 triệu dân đang trong giai đoạn dân số vàng, với 69% dân số ở
trong độ tuổi lao động đang có những cơ hội thuận lợi cho tiến trình xây dựng
và phát triển, góp phần nâng cao tăng trưởng kinh tế cho đất nước. Song song
đó, số người dùng Internet và sử dụng công nghệ số trong xã hội đang ngày càng
tăng, người dân thích ứng nhanh với sự thay đổi của công nghệ. Đây cũng là tiền
đề và điều kiện thuận lợi để Việt Nam thúc đẩy và phát triển xã hội số thành
công. Xây dựng và phát triển xã hội số sẽ thúc đẩy hoạt động chuyển đổi số quốc
gia, tạo nên những cơ hội cho sự phát triển kinh tế, nâng cao năng suất lao động,
giảm chi phí cho người dân và tạo điều kiện và môi trường thuận lợi cho sự phát
triển của các ngành kinh tế mới như kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, thương mại
điện tử, dịch vụ số… Xã hội số cũng giúp nâng cao chất lượng cuộc sống của người
dân thông qua các dịch vụ thông tin, tiếp cận các tiện ích xã hội nhanh chóng
và hiệu quả hơn. Xã hội số cũng góp phần xây dựng và thúc đẩy giáo dục với sự
trợ giúp của Internet và không gian mạng, thúc đẩy chuyển đổi số trong giáo dục
và mở ra mô hình giáo dục mới hiện đại, thông minh và hướng tới người học, nhu
cầu của thị trường, của xã hội dựa trên các nền tảng số. Trong xã hội số, vấn đề
quản trị tài nguyên cũng là một cơ hội để Việt Nam chuyển mình trong kỷ nguyên
mới, với các công nghệ hiện đại như internet vạn vật, dữ liệu lớn, trí tuệ nhân
tạo, chuỗi khối… cũng tạo nên các sản phẩm mới, thúc đẩy văn hóa số phát triển.
Xã hội số tạo ra một môi trường để con người số có khả năng kết nối, giao lưu,
học hỏi và nâng cao kiến thức, tạo ra môi trường mới để tạo nên giá trị văn hóa
mới trên nhiều công cụ, kỹ thuật mới.
3. Hòa chung với tiến
trình chuyển đổi số quốc gia, Hà Nội cũng có những bước chuyển mình rõ nét cùng
đất nước. Với quy mô dân số và địa bàn rộng, Thành ủy, Ủy ban nhân dân (UBND)
Thành phố Hà Nội đã bắt đầu triển khai các hoạt động chuyển đổi số rất mạnh mẽ,
với Nghị quyết số 18-NQ/TU của Thành ủy Hà Nội về chuyển đổi số, xây dựng thành
phố Hà Nội thông minh đến năm 2025, định hướng đến năm 2030. Đồng thời UBND
Thành phố đã ban hành Kế hoạch số 239/KH-UBND ngày 27/9/2023 về chuyển đổi số,
xây dựng Thành phố Hà Nội thông minh đến năm 2025, định hướng đến 2030, xác định
rõ những chỉ tiêu, nhiệm vụ và giải pháp tổ chức thực hiện về phát triển kinh tế
số, xã hội số.
Đến
nay, 100 xã, phường, thị trấn trên địa bàn đã có hạ tầng cáp quang; hạ tầng mạng
băng rộng cáp quang đến hộ gia đình đạt tỷ lệ 93,15%; số thuê bao di động là
băng rộng đạt tỷ lệ 121%; số thuê bao băng rộng cố định trên 100 dân đạt tỷ lệ
27,3%; tỷ lệ hộ gia đình có sử dụng ít nhất 1 điện thoại thông minh đạt 122,7%;
tỷ lệ thuê bao di động sử dụng điện thoại thông minh trên tổng số thuê bao điện
thoại đi động đạt 81,7%... Thành phố đã ban hành Danh mục dữ liệu mở của Thành
phố năm 2023 để triển khai chia sẻ dữ liệu trong nội bộ cơ quan quản lý nhà nước
và người dân. Trung tâm dữ liệu chính của Thủ đô, các hệ thống thông tin phục vụ
người dân và phục vụ phát triển xã hội số đang được đưa vào vận hành. Các quy định,
quy chế cũng được Thành phố Hà Nội ban hành kịp thời. Bên cạnh đó, Thành phố
cũng đẩy mạnh các hoạt động xây dựng chương trình nông thôn mới để triển khai
mô hình nông thôn thông minh, xã thông minh.
Năm
2024, Thành phố Hà Nội cũng đã ra mắt ứng dụng công dân thủ đô số (iHanoi – Chạm
để kết nối), cung cấp những tiện ích phục vụ công tác chỉ đạo, điều hành và kết
nối giữa chính quyền với người dân và doanh nghiệp… Trong lĩnh vực chuyển đổi số
nói chung, phát triển xã hội số nói riêng, tới nay, toàn bộ hệ thống chính trị
của thành phố Hà Nội đã vào cuộc, nhận thức rõ vai trò của chuyển đổi số và các
nhiệm vụ đã được triển khai một cách đồng bộ.
Hà
Nội là một trong các tỉnh/thành phố đầu tiên đảm bảo đầy đủ các điều kiện kết nối
với cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư để phục vụ các dịch vụ công trực tuyến.
Các dịch vụ chuyển đổi số của Thành phố Hà Nội đã tạo điều kiện để người dân có
thể giao dịch mọi lúc, mọi nơi, đáp ứng yêu cầu về an toàn, an ninh, bảo mật dữ
liệu, trong đó tập trung vào các hệ thống thông tin giải quyết thủ tục hành
chính; hệ thống hóa đơn điện tử; cấp phiếu lý lịch tư pháp; thí điểm hệ thống hồ
sơ sức khỏe điện tử; hệ thống chi trả an sinh xã hội, chi trả lương hưu, trợ cấp
bảo hiểm xã hội không dùng tiền mặt… Các hoạt động này của Thành phố nhằm hướng
tới một môi trường số bền vững, an toàn, an ninh, tạo tiền đề để xã hội số phát
triển.
Tuy
nhiên, hiện nay còn nhiều người dân và các chủ thể khác trong xã hội ở Việt Nam
nói chung, ở Hà Nội nói riêng chưa nhận thức đầy đủ tầm quan trọng của xây dựng
xã hội số cũng như lợi ích của xã hội số mang lại. Bên cạnh đó, còn có sự không
đồng đều trong nhận thức về xã hội số; hệ thống thể chế, pháp lý còn có những hạn
chế, bất cập, chưa phù hợp với thực tiễn của xu thế xây dựng xã hội số trên thế
giới và Việt Nam. Hạ tầng kỹ thuật chưa đồng đều, còn có sự phân hóa xã hội dẫn
tới sự không đồng đều về nhận thức của người dân trên không gian số và xã hội số;
vấn đề an toàn, an ninh thông tin và an ninh phi truyền thống đang có những tác
động mạnh mẽ đến hoạt động xây dựng xã hội số; các mối đe dọa về an toàn, an
ninh thông tin ngày càng trở nên phức tạp và khó nắm bắt, khó quản lý; xu thế
và ranh giới của mối quan hệ giữa ảo - thật đang ngày càng trở nên mờ nhạt ; sự
phụ thuộc của con người vào không gian số ngày càng nhiều và làm nảy sinh nhiều
quan hệ phức tạp; các thông tin sai lệch gây hiểu lầm, gây chia rẽ trong xã hội,
đặc biệt các thông tin xấu độc đã và đang gây nên những hậu quả nghiêm trọng
cho xã hội.
4. Thực tiễn cho thấy,
xã hội số ở Việt Nam nói chung và Thủ đô Hà Nội nói riêng đã và đang có những
điều kiện để phát triển bền vững. Để thực hiện xây dựng xã hội số hiện đại,
phát triển bền vững theo chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng
và Nhà nước, Thành phố Hà Nội cần thực hiện số nhiệm vụ trọng tâm như sau:
Một là,
tăng cường các hoạt động đánh giá thực tiễn nhằm tham mưu, tư vấn cho Đảng và
Nhà nước nhằm hoàn thiện thể chế, chính sách, môi trường pháp lý về xã hội số.
Đây là nhiệm vụ có vai trò quyết định, then chốt cần được ưu tiên và lồng ghép
trong các quan điểm, chủ trương, đường lối cũng như kế hoạch, chiến lược, giải
pháp của Đảng và Nhà nước về xây dựng quốc gia số với ba trụ cột là chính phủ số,
kinh tế số và xã hội số. Cần hoàn thiện và tạo hành lang pháp lý để xã hội số
phát triển bền vững, phục vụ trực tiếp vào công cuộc xây dựng, bảo vệ và phát
triển đất nước.
Hai là,
xây dựng và phát triển kết cấu hạ tầng đồng bộ phục vụ chuyển đổi số quốc gia
nói chung, hạ tầng công nghệ thông tin của Thành phố Hà Nội nói riêng một cách
toàn diện, hiệu quả, hướng tới xây dựng chính phủ số, kinh tế số, xã hội số. Tập
trung phát triển mạng lưới Internet tốc độ cao, có độ bao trùm và hướng tới bền
vững cho tất cả mọi vùng, miền từ trung ương đến địa phương, từ biên giới đến hải
đảo, đảm bảo bao phủ internet và các dịch vụ số trên toàn quốc. Thúc đẩy chuyển
đổi số toàn diện trong mọi ngành, mọi lĩnh vực đảm bảo “trên dưới thống nhất, dọc
ngang thông suốt” trên môi trường số.
Ba là,
phát triển nền tảng số hiện đại, thể hiện rõ vai trò, vị thế của Thủ đô, ngang
tầm quốc tế, đáp ứng với nhu cầu của người dân của Thành phố và toàn xã hội.
Phát triển nền tảng số theo hướng đầu tư các giao dịch trực tuyến, đảm bảo chất
lượng dịch vụ, giảm chi phí và tăng năng suất lao động, cung cấp khả năng tạo,
lưu trữ và truy xuất dữ liệu một cách thuận tiện. Phát triển môi trường số an
toàn, an ninh và phát triển bền vững. Nền tảng số cần đáp ứng yêu cầu đảm bảo
an toàn, an ninh thông tin, an ninh mạng trên cơ sở nâng cao nhận thức, trách
nhiệm trên cơ sở sử dụng các thiết bị, dịch vụ công nghệ số an toàn, hợp pháp.
Bốn là,
phát triển và hoàn thiện hệ sinh thái số phục vụ mọi mặt hoạt động của đời sống
xã hội, hướng tới phát triển xã hội số bền vững. Hệ sinh thái này bao gồm các hệ
thống số trong khu vực chính phủ như dịch vụ công trực tuyến, cơ sở dữ liệu quốc
gia dân cư…; các hệ thống phục vụ kinh tế số như thương mại điện tử, hệ thống dữ
liệu doanh nghiệp, hệ thống hỗ trợ ra quyết định cho doanh nghiệp…; và các hệ
thống phục vụ xã hôi số như giáo dục, đào tạo trên không gian số, sáng tạo các
sản phẩm số, kinh doanh trên môi trường số, quản lý xã hội số, các chuẩn mực,
giá trị, đạo đức của con người số…
Bốn là,
phát triển văn hóa số hiện đại, tạo lập môi trường văn hóa mới của con người
“phù hợp với nền kinh tế số, xã hội số và công dân số”, đảm bảo xây dựng, kiến
tạo và văn hóa số ở nước ta để đảm bảo sự phát triển bền vững, gắn kết chặt chẽ
với các hoạt động về chính trị, xã hội nhằm đáp ứng nhu cầu của người dân và xã
hội. Phát triển ngành công nghiệp văn hóa vươn ra toàn cầu trên cơ sở ứng dụng
khoa học kỹ thuật và công nghệ số, thúc dẩy sự thích ứng của ngành công nghiệp
văn hóa với các sản phẩm sáng tạo trên không gian số.
Năm là,
phát triển con người số đáp ứng yêu cầu thực tiễn của sự phát triển. Thực hiện
đổi mới hoạt động giáo dục và đào tạo, hướng tới giáo dục và nâng cao nhận thức
của người dân về xã hội số để phát triển bền vững. Xây dựng xã hội học tập hướng
tới hoạt động học tập suốt đời với mục tiêu đảm bảo các năng lực cốt lõi với những
kỹ năng, kiến thức, phẩm chất mong muốn cần cho sự phát triển bền vững của xã hội
như kỹ năng tự học, học tập suốt đời; kỹ năng ngoại ngữ; kỹ năng công nghệ thông
tin; kỹ năng hợp tác, chia sẻ, tôn trọng con người và văn hóa của người khác hướng
tới phát triển hài hóa giữa năng lực và phẩm chất, giữa đức và tài với những
công cụ hiện đại, mọi lúc, mọi nơi.
Như
Chủ tịch nước, Tổng Bí thư Tô Lâm đã khẳng định, đất nước ta đang đứng trước vận
hội mới, vừa là thời cơ đồng thời cũng là thách thức trên con đường phát triển.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, với sự đồng lòng, chung sức của toàn Đảng, toàn dân
và cả hệ thống chính trị, chúng ta nhất định sẽ thực hiện thành công cuộc cách
mạng chuyển đổi số, hướng tới quốc gia số với các trụ cột chính phủ số, kinh tế
số, và xã hội số. Tạo ra bước đột phá trong phát triển lực lượng sản xuất và
hoàn thiện quan hệ sản xuất, đưa đất nước ta, dân tộc ta vươn mình vượt bậc
trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên của tiên tiến, văn minh, hiện đại.
(theo tuyengiao.vn)
(1) Nguyễn Duy Bắc, Xây dựng, kiến tạo và lan tỏa
văn hóa số ở nước ta hiện nay, Tạp chí Cộng sản,
https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/van_hoa_xa_hoi/-/2018/941602/xay-dung%2C-kien-tao-va-lan-toa-van-hoa-so-o-nuoc-ta-hien-nay.aspx
[truy cập 1/10/2024]
(2) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 214
(3) Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và
thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam,
Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2022, tr. 172
(4) Tô Lâm: Chuyển đổi số - động lực quan trọng
để đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới.
https://www.vietnamplus.vn/toan-van-bai-viet-ve-chuyen-doi-so-cua-tong-bi-thu-chu-tich-nuoc-to-lam-post973779.vnp