Nhận thức của Đảng ta
về mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc ngày càng toàn diện, đầy đủ hơn_ Ảnh minh
họa: baobacninh.com.vn
1. Mở đầu
Nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới
có nhiều đặc điểm mới và đặt ra những yêu cầu mới, đòi hỏi phải có tư duy lý
luận mới từ mục tiêu, nhiệm vụ đến quan điểm, phương châm chỉ đạo; sức mạnh,
lực lượng, phương thức tiến hành, gắn kết với xây dựng CNXH… Tư duy lý luận,
quan điểm và chủ trương mới của Đảng thể hiện trong Văn kiện Đại hội XIII của
Đảng là kết quả của sự kế thừa quan điểm, chủ trương của Đảng về bảo vệ Tổ quốc
trong nhiều thập kỷ và sự tổng kết thực tiễn 35 năm đổi mới đất nước. Để thực
hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc cần
nhận thức đầy đủ, sâu sắc và vận dụng sáng tạo các quan điểm, chủ trương mới
của Đảng trong tình hình mới, nhất là trong thực hiện các nhiệm vụ quốc phòng,
an ninh.
2. Chủ trương về quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc thể hiện
trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng
Một là, về mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình
mới
Nhận thức của Đảng ta về mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc ngày
càng toàn diện, đầy đủ hơn: Bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN không chỉ là bảo vệ
vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, mà còn
bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ XHCN; bảo vệ sự nghiệp đổi mới, công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc; bảo vệ an
ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội và nền văn hóa; giữ vững ổn định chính
trị và môi trường hòa bình, phát triển đất nước theo định hướng XHCN.
Khởi xướng và lãnh đạo mở đầu công cuộc đổi mới, Đại hội VI của
Đảng chỉ rõ: “Phát huy sức mạnh của cả hệ thống chuyên chính vô sản, sức mạnh
của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân, kết hợp chặt chẽ kinh tế, quốc phòng và
an ninh toàn dân, xây dựng hậu phương đất nước một cách toàn diện. Xây dựng
Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy và ngày càng hiện đại, có chất lượng
tổng hợp ngày càng cao, có tổ chức hợp lý, cân đối, gọn và mạnh, có kỷ luật
chặt chẽ, có trình độ sẵn sàng chiến đấu và sức chiến đấu cao. Tổ chức bảo vệ
chủ quyền và giữ vững an ninh các tuyến biên giới, vùng trời, vùng biển và hải
đảo”(1).
Đại hội XII của Đảng (năm 1991) mở rộng mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ “an ninh
chính trị” thành bảo vệ “an ninh quốc gia” và đề cập các nhiệm vụ “sẵn sàng ứng
phó với các mối đe dọa an ninh truyền thống và an ninh phi truyền thống; bảo
đảm an ninh, an toàn thông tin, an ninh mạng”(2).
Kế thừa tư duy đổi mới từ các kỳ Đại hội trước và xuất phát từ
thực tiễn, Đại hội XIII của Đảng xác định mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc là:
“bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ
quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân, chế độ xã hội chủ nghĩa, nền văn hóa và
lợi ích quốc gia - dân tộc; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định chính trị, an
ninh quốc gia, an ninh con người; xây dựng xã hội trật tự, kỷ cương, an toàn,
lành mạnh để phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa”(3).
Như vậy, nội hàm mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc tại Đại hội
XIII của Đảng đã phát triển, mở rộng nội dung bảo đảm an ninh con người. Đây là
vấn đề mới, quan trọng trong phát triển nhận thức lý luận của Đảng.
Hai là, về quan điểm, phương châm chỉ đạo bảo vệ Tổ quốc
Quan điểm, phương châm chỉ đạo nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc của Đảng
đã có những bổ sung đầy đủ hơn. Đại hội XIII của Đảng đã xác định rõ vai trò
lãnh đạo trực tiếp, tuyệt đối về mọi mặt của Đảng, quản lý tập trung, thống
nhất của Nhà nước đối với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc; mối quan hệ gắn bó giữa mục
tiêu bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc với
giữ vững ổn định chính trị và môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất
nước; kết hợp chặt chẽ hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; xây
dựng sức mạnh tổng hợp của đất nước; giữ vững độc lập, tự chủ, đồng thời chủ
động, tích cực hội nhập quốc tế, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế;
vận dụng đúng đắn quan điểm về đối tác, đối tượng; nắm chắc tình hình, chủ động
phòng ngừa, phát hiện sớm và triệt tiêu các nhân tố bất lợi, nhất là những nhân
tố bên trong có thể dẫn đến những đột biến.
“Đại hội XIII của Đảng xác định mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc là: “bảo
vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo
vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân, chế độ xã hội chủ nghĩa, nền văn hóa và lợi ích
quốc gia - dân tộc; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định chính trị, an ninh
quốc gia, an ninh con người; xây dựng xã hội trật tự, kỷ cương, an toàn, lành
mạnh để phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa”
Phương châm chỉ đạo nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc có nhiều điểm mới:
Kiên định về mục tiêu, nguyên tắc chiến lược; linh hoạt, mềm dẻo về sách lược;
kiên trì giải quyết bất đồng, tranh chấp, mâu thuẫn bằng biện pháp hòa bình,
trên cơ sở bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc, phù hợp với luật pháp quốc tế;
có đối sách phù hợp với từng đối tượng, từng tình huống. Kế thừa tư duy đổi mới
từ các kỳ Đại hội trước, Đại hội XIII của Đảng đã nhấn mạnh yêu cầu “kiên
quyết, kiên trì” trong phương châm chỉ đạo: “Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo
vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, vùng trời, vùng
biển; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển”(4). Một phương châm được
Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh là: “Xác định “chủ động phòng ngừa” là chính…
Có kế sách ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa. Nỗ lực
phấn đấu để ngăn ngừa xung đột, chiến tranh và giải quyết các tranh chấp bằng
các biện pháp hòa bình phù hợp với luật pháp quốc tế”(6).
Ba là, về sức mạnh, lực lượng bảo vệ Tổ quốc
Nhận thức về sức mạnh, lực lượng bảo vệ Tổ quốc đã có sự phát
triển, phù hợp với tình hình mới. Đảng ta đã khẳng định: Sức mạnh bảo vệ Tổ
quốc là sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn dân, của cả hệ thống chính
trị dưới sự lãnh đạo của Đảng, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại,
sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế, sức mạnh của lực lượng và thế trận
quốc phòng toàn dân với sức mạnh của lực lượng và thế trận an ninh nhân dân.
Bảo vệ Tổ quốc bằng sức mạnh tổng hợp của quốc gia cả về chính trị, quân sự,
ngoại giao, kinh tế, văn hóa, tư tưởng, quốc phòng, an ninh, của cả hệ thống
chính trị, sức mạnh của toàn dân trên cơ sở khối đại đoàn kết toàn dân tộc, lấy
sức mạnh của lực lượng vũ trang làm nòng cốt. Tất cả các sức mạnh đó được tập
hợp lại đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, sự đồng lòng,
thống nhất về quyết tâm và ý chí của toàn dân; trong đó, lấy sức mạnh chính
trị, tinh thần làm cốt lõi; đại đoàn kết toàn dân tộc làm động lực chủ yếu, thế
trận lòng dân làm nền tảng. Kế thừa tư duy đổi mới từ các kỳ đại hội và hội
nghị Trung ương trước, Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh: “Phát huy cao nhất sức
mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị kết hợp với sức mạnh
thời đại, tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế”(7) trong bảo vệ Tổ
quốc. Để tăng cường sức mạnh quốc phòng, giữ vững an ninh quốc gia và toàn vẹn
lãnh thổ, Đảng xác định: đây là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của Đảng, Nhà
nước và của toàn dân, trong đó Quân đội nhân dân và Công an nhân dân là lực
lượng nòng cốt.
Về xây dựng lực lượng vũ trang, Đại hội XIII của Đảng khẳng
định: “Tiếp tục xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính
quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, một số quân chủng, binh chủng, lực lượng tiến
thẳng lên hiện đại. Đến năm 2025, cơ bản xây dựng quân đội, công an
tinh, gọn, mạnh, tạo điều kiện vững chắc, phấn đấu năm 2030, xây
dựng Quân đội, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại”(8). Xây dựng Quân đội
nhân dân, Công an nhân dân bao gồm nhiều yếu tố, trong đó con người là yếu tố
quyết định nhất; vũ khí, phương tiện là yếu tố rất quan trọng. Đối với nhân tố
con người, tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, trước hết về bản lĩnh chính trị,
lòng trung thành vô hạn với Tổ quốc, với Đảng, nhân dân và chế độ XHCN. Chủ
động, tích cực hiện đại hóa vũ khí, trang bị cho các lực lượng vũ trang nhân
dân, trước hết là cho lực lượng hải quân, phòng không, không quân, lực lượng an
ninh, tình báo, cảnh sát cơ động.
Bốn là, về phương thức bảo vệ Tổ quốc
Nhận thức của Đảng về phương thức đấu tranh bảo vệ Tổ quốc đã có
những phát triển mới. Trong thời kỳ đổi mới đất nước, quan điểm của Đảng là sử
dụng tổng hợp và kết hợp chặt chẽ các phương thức đấu tranh vũ trang và đấu
tranh phi vũ trang; làm phong phú các hình thức đấu tranh phi vũ trang trong
bảo vệ Tổ quốc; kết hợp giữa bảo vệ với xây dựng, lấy xây dựng để bảo vệ; nhấn
mạnh phương thức đấu tranh phi vũ trang; đấu tranh chống “diễn biến hòa bình”
và phòng chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; phát triển quan
điểm bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, giữ nước từ khi nước chưa nguy, quan điểm
“tự bảo vệ” trong điều kiện mới. Các yếu tố, nội dung bảo vệ Tổ quốc đều phải
được chủ động tiến hành từ sớm, từ trước, duy trì thường xuyên, liên tục, về
mọi mặt trong thời bình. Quá trình xây dựng, củng cố, phát triển cũng là quá
trình triển khai các biện pháp phòng ngừa, bảo vệ, tự bảo vệ từ trước, từ sớm.
Phương thức đấu tranh phi vũ trang trong tình hình mới có những
hình thức, biện pháp diễn ra trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, tư
tưởng, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại; trong đó, đấu tranh
trên lĩnh vực tư tưởng - văn hóa là mũi nhọn, then chốt. Phương thức đấu tranh
vũ trang và đấu tranh phi vũ trang được Đảng xác định là kết hợp, sử dụng linh
hoạt và mềm dẻo, tạo thành sức mạnh tổng hợp trong bảo vệ Tổ quốc.
Năm là, về mối quan hệ giữa xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc
Đại hội XIII của Đảng yêu cầu thực hiện mối quan hệ giữa xây
dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN theo hướng cụ thể, hiệu quả hơn: “Cụ
thể hóa và thực hiện có hiệu quả quan hệ giữa hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong chiến lược phát triển kinh tế
- xã hội, chiến lược bảo vệ Tổ quốc; trong các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã
hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại; trong từng địa phương, vùng, địa bàn chiến
lược và trong từng nhiệm vụ, chương trình, kế hoạch cụ thể”(9).
3. Giải pháp vận dụng, thực hiện chủ trương của Đảng về bảo vệ
Tổ quốc trong tình hình mới
Một là, nhận thức đầy đủ vị trí, vai trò trọng yếu, thường xuyên
của nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc theo tinh thần Đại hội XIII
của Đảng
Xác định quốc phòng, an ninh là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên
là định hướng chính trị đối với toàn Đảng, toàn dân, toàn quân và cả hệ thống
chính trị trong nhiệm vụ củng cố, tăng cường quốc phòng, an ninh để đáp ứng yêu
cầu bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Đồng thời, đây cũng là cơ sở quan trọng
để thống nhất nhận thức và hành động trong toàn xã hội, đấu tranh phản bác,
chống lại các luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch nhằm hạ thấp vai trò
của quốc phòng, an ninh, từ đó âm mưu loại bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng đối với
sự nghiệp quốc phòng, an ninh, với lực lượng vũ trang. Trong công cuộc đổi mới,
phát triển kinh tế - xã hội vẫn được xác định là nhiệm vụ trung tâm, được ưu
tiên, nhưng không vì thế mà xem nhẹ nhiệm vụ củng cố quốc phòng, an ninh, bảo
vệ Tổ quốc. Cả lý luận và thực tiễn đều cho thấy, quốc phòng, an ninh được củng
cố tốt sẽ tạo môi trường hòa bình, ổn định và đó chính là điều kiện, cơ sở vững
chắc để phát triển kinh tế - xã hội; ngược lại, kinh tế - xã hội phát triển sẽ
tạo điều kiện cần thiết để đầu tư, tăng cường sức mạnh quốc phòng, an ninh. Các
vấn đề đặt ra trong xây dựng, phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc nảy sinh
thường xuyên, nên phải coi quốc phòng, an ninh là nhiệm vụ thường xuyên, không
được lúc nào lơi lỏng.
Hai là, cụ thể hóa và thực hiện tốt nhiệm vụ quốc phòng, an
ninh, bảo vệ Tổ quốc trong mọi ngành, mọi cấp
Nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc là bảo vệ toàn diện, đồng bộ trên tất cả
các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối
ngoại; thể hiện ở tất cả các ngành, các cấp; là công việc của tất cả các tổ
chức trong hệ thống chính trị và cả xã hội. Trong bối cảnh xung đột vũ trang,
an ninh trên thế giới và trong khu vực có nhiều biến động phức tạp; thiên tai,
dịch bệnh diễn ra với quy mô lớn, nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền, an ninh quốc gia,
an ninh con người cùng với việc xây dựng xã hội trật tự, kỷ cương, an toàn, lành
mạnh không những là đòi hỏi khách quan, mà còn là vô cùng cấp bách. Vì vậy, tất
cả các cấp, các ngành, các tổ chức - theo chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền - cần
nắm vững các quan điểm, chủ trương của Đảng, xây dựng chương trình, kế hoạch
củng cố quốc phòng, an ninh, thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc một cách cụ thể,
thiết thực, tránh hình thức.
Ba là, thực hiện tốt phương châm, phương thức bảo vệ Tổ quốc
trong điều kiện và tình hình mới
Tình hình thực tế đang và tiếp tục diễn biến phức tạp, có thể có
những bất trắc khó lường, nên cần thực hiện tốt phương châm mà Đảng đã đề ra
là: chú trọng dự báo tình hình, chủ động phòng ngừa diễn biến xấu từ sớm, từ
xa; giải quyết các vấn đề phát sinh bằng biện pháp hòa bình trên cơ sở kiên
quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn
vẹn lãnh thổ, vùng trời, vùng biển; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để
phát triển; trong bất kỳ tình huống nào và với đối tượng nào cũng cần thực hiện
tốt phương châm “dĩ bất biến, ứng vạn biến”.
Bốn là, tích cực, chủ động xây dựng lực lượng, sức mạnh quốc
phòng, an ninh để bảo vệ Tổ quốc
Cơ bản và quyết định là xây dựng, phát huy sức mạnh của toàn
dân. Kế thừa kinh nghiệm trong lịch sử về vai trò của nhân dân, cùng những phát
triển nhận thức về vai trò của nhân dân trong các nghị quyết của Đảng, cần phát
huy mạnh mẽ dân chủ XHCN với phương châm dựa vào dân, “dân là gốc”, nhân dân là
trung tâm, là chủ thể; đồng thời, khơi dậy, phát huy ý chí tự lực, tự cường,
truyền thống lịch sử, ý chí kiên cường, bất khuất, truyền thống văn hóa tốt đẹp
của dân tộc, phát huy cao độ sức mạnh con người Việt Nam, sức mạnh khối đại
đoàn kết dân tộc, “thế trận lòng dân”, tăng cường đồng thuận xã hội, củng cố,
nâng cao niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, với chế độ XHCN, thực
hiện tiến bộ và công bằng xã hội, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và
tinh thần của nhân dân, củng cố sự đoàn kết toàn dân, tạo nên sức mạnh tổng hợp
qua đó thực hiện thắng lợi nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc.
Về phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, cần nhận thức đầy đủ,
sâu sắc hơn về vai trò của khối đại đoàn kết toàn dân tộc; có cơ chế phát huy
cao độ vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội trong tuyên
truyền, tập hợp, tổ chức, động viên nhân dân; coi trọng ý kiến đóng góp của
nhân dân; tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân và
giữa Nhân dân với Đảng, Nhà nước; cảnh giác, chủ động, tích cực đấu tranh chống
các âm mưu, thủ đoạn chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc của các thế lực thù
địch và các phần tử xấu; v.v..
Xây dựng và phát huy sức mạnh tổng hợp của đất nước, của quốc
gia trong bảo vệ Tổ quốc. Đảng luôn xác định sức mạnh bảo vệ Tổ quốc là sức
mạnh tổng hợp của quốc gia, sức mạnh của toàn thể dân tộc Việt Nam, sức mạnh
toàn diện của các lĩnh vực trong đời sống xã hội. Để có được sức mạnh đó cần
tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, vai trò quản lý của Nhà nước, vai trò của
Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân trong khối đại
đoàn kết toàn dân tộc. Cần đẩy mạnh phát triển kinh tế, phấn đấu đạt được các
mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội mà Đại hội Đảng đã đề ra, kết hợp chặt chẽ
giữa phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội với tăng cường quốc phòng, an ninh,
tạo nền tảng vật chất vững chắc cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong
tình hình mới. Đặc biệt, cần phát huy vai trò của văn hóa - nền tảng tinh thần
của xã hội, coi đó là động lực để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; coi trọng củng
cố, phát triển hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa và chuẩn mực con người
Việt Nam, xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, tích cực quảng bá văn hóa Việt
Nam ra thế giới. Thực hiện tốt đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng, Nhà
nước, góp phần xây dựng môi trường hòa bình, hữu nghị, hợp tác, không ngừng
nâng cao vị thế, uy tín quốc tế của đất nước. Trong quá trình thực hiện công
tác đối ngoại phải coi đối ngoại để phát triển đất nước là trọng tâm, nâng cao
vị thế đất nước là quan trọng, bảo vệ đất nước là trọng yếu, đặc biệt coi trọng
đối ngoại về văn hóa, khoa học công nghệ, quốc phòng, an ninh.
Trong bối cảnh tình hình thế giới, khu vực xuất hiện các hình
thái, phương thức, loại hình chiến tranh mới, các thế lực thù địch đã và sẽ
tiếp tục xuyên tạc, cho rằng đường lối quốc phòng toàn dân, chiến tranh nhân
dân là lỗi thời, lạc hậu, vì hiện nay đã có các loại vũ khí hiện đại, công nghệ
cao, không thể dùng chiến tranh nhân dân. Thực tiễn đã chứng minh, nếu nước ta
xây dựng được một nền quốc phòng toàn dân và nền an ninh nhân dân vững mạnh,
thì không một thế lực nào có thể đánh bại được. Theo đó, cần xây dựng sức mạnh
toàn dân, toàn diện trên tất cả các lĩnh vực, bảo đảm sức mạnh vững chắc ngay
trong thời bình, sẵn sàng chuyển thành thế trận chiến tranh nhân dân ngay khi
có chiến tranh, xung đột xảy ra. Xây dựng Quân đội nhân dân và Công an nhân dân
cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại, tinh, gọn, mạnh, tiến lên hiện đại,
không ngừng nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu, bảo đảm cho Quân
đội nhân dân, Công an nhân dân thực hiện tốt vai trò là nòng cốt trong sự
nghiệp bảo vệ Tổ quốc.
4. Kết luận
Để thực hiện tốt nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, cần nắm vững quan
điểm, chủ trương mới của Đảng về mục tiêu, nội dung, phương châm, phương pháp,
xây dựng lực lượng, sức mạnh… bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Trên cơ sở
đó, cần cụ thể hóa các quan điểm, chủ trương của Đảng thành các chương trình,
kế hoạch vận dụng phù hợp, sáng tạo, đạt hiệu quả cao ở từng cơ quan, đơn vị,
địa phương. Trong bối cảnh quốc tế và khu vực có những biến động khó dự báo,
cần triệt để phát huy các thuận lợi, cơ hội, vượt qua khó khăn, thách thức,
kiên trì đường lối quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân, phát huy cao độ sức
mạnh tổng hợp quốc gia, giữ vững độc lập, tự chủ và môi trường hòa bình, ổn
định để phát triển đất nước, đồng thời chủ động chuẩn bị về mọi mặt, ngăn chặn
có hiệu quả các nguy cơ xung đột và chiến tranh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc từ
sớm, từ xa.
(theo lyluanchinhtri.vn)
Ngày nhận bài:
7-11-2024; Ngày bình duyệt: 9-11-2024; Ngày duyệt đăng: 13-11-2024.
Email tác giả:
tranquocduong64@gmail.com
(1) ĐCSVN: Văn
kiện Đảng Toàn tập, t.47, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2006,
tr.372.