Hội nghị Trung ương
10 quyết định nhiều vấn đề quan trọng.
Trước thềm chuẩn bị cho đại hội
đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng, Tổng
Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam Tô Lâm đã phát đi một
thông điệp về Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam như một lời hiệu triệu,
thúc giục tinh thần hành động, đổi mới sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu
trách nhiệm vì lợi ích chung để thực hiện khát vọng phát triển đất nước phồn
vinh, hạnh phúc, nhằm thực hiện thắng lợi các mục tiêu chiến lược đến năm 2030,
đưa Việt Nam trở thành nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập
trung bình cao, đến năm 2045 trở thành nước xã hội chủ nghĩa phát triển, có thu
nhập cao (1). Tư tưởng, quan điểm về kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, thể hiện
sâu sắc tầm nhìn và tư duy chiến lược của Đảng trong giai đoạn phát triển mới
của đất nước, là biểu hiện sinh động “ý Đảng, lòng dân” trong quyết tâm xây
dựng một nước Việt Nam hùng cường, dân giàu, nước mạnh, dân chủ công bằng, văn
minh, sánh vai với các cường quốc năm châu, đóng góp ngày càng nhiều cho hòa
bình, ổn định và phát triển của thế giới.
Sự vươn mình của dân tộc trong
kỷ nguyên mới là một sự nghiệp cách mạng to lớn mang tính toàn Đảng, toàn dân,
toàn diện, thể hiện khí phách và khát vọng của dân tộc, nhưng cũng là một sự
nghiệp khó khăn, đầy thách thức, đòi hỏi phải đưa sự nghiệp đổi mới lên một tầm
cao mới, với nhiều giải pháp cải cách mạnh mẽ, quyết liệt trên mọi lĩnh vực của
đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội, tạo ra những bứt phá mới để
tranh thủ tối đa thời cơ, vận hội phát triển, vượt qua các thách thức, nhằm đạt
mục tiêu chấn hưng đất nước trong kỷ nguyên mới.
Trong mọi giai đoạn lịch sử
trước đây, từ kỷ nguyên giải phóng dân tộc, giải phóng con người, giành và giữ
nền độc lập sau Cách mạng Tháng Tám 1945; kỷ nguyên đổi mới đất nước từ 1986 và
kỷ nguyên vươn mình của dân tộc sẽ được bắt đầu sau Đại hội lần thứ XIV sắp
tới, sự lãnh đạo, dẫn dắt của Đảng Cộng sản Việt Nam, sự quản lý điều hành của
Nhà nước, sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị là một trong những điều kiện,
nhân tố có ý nghĩa quyết định thắng lợi các mục tiêu đặt ra.
Qua gần 40 năm đổi mới, chúng
ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử... Đất nước chưa bao
giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay (2). Những thành tựu của gần 40
năm đổi mới là tiền đề, là nguồn vốn to lớn và quan trọng để đất nước bước vào
kỷ nguyên phát triển mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Tuy nhiên, bên cạnh
các thuận lợi, cơ hội, vẫn còn không ít khó khăn, thách thức, từ nguy cơ rơi
vào bẫy thu nhập trung bình, do hạn chế, yếu kém của nền kinh tế, từ 4 nguy cơ
đe dọa đến sự tồn vong của Đảng và chế độ mà Đảng đã chỉ ra từ Hội nghị giữa
nhiệm kỳ khóa VII còn tồn tại, có mặt còn gay gắt hơn; từ những biến động to
lớn, diễn biến nhanh chóng, phức tạp, khó dự báo của tình hình thế giới và khu
vực.
Bối cảnh, tình hình đất nước và
thế giới trong giai đoạn mới, đòi hỏi Đảng, Nhà nước và cả hệ thống chính trị
phải tiếp tục đổi mới mạnh mẽ cả về tổ chức và hoạt động, thực hiện hiệu quả vai
trò, trách nhiệm lãnh đạo, dẫn dắt, tổ chức, tập hợp, huy động sức mạnh của
toàn dân tộc thực hiện khát vọng xây dựng đất nước hùng cường “đàng hoàng hơn,
to đẹp hơn”, sánh vai với các cường quốc năm châu như mong muốn của Bác Hồ kính
yêu.
Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung
ương Tô Lâm, trong bài trao đổi tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh cho
các học viên Lớp bồi dưỡng, cập nhật kiến thức, kỹ năng đối với cán bộ quy
hoạch Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương khóa XIV đã chỉ rõ 7 định hướng chiến
lược đưa đất nước bước vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc; trong đó, có tới 4
định hướng chiến lược liên quan trực tiếp đến đổi mới hệ thống chính trị: Cải
tiến phương thức lãnh đạo của Đảng; tăng cường tính đảng trong xây dựng, hoàn
thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân; tinh gọn bộ
máy, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp chiến lược (3).
Điều này, cho thấy nhiệm vụ
tiếp tục cải cách mô hình tổ chức và hoạt động của từng thiết chế thành viên
của hệ thống chính trị và mô hình tổng thể của hệ thống chính trị vẫn là nhiệm
vụ trọng tâm để thực hiện thắng lợi công cuộc vươn mình của dân tộc trong kỷ
nguyên mới.
Hệ thống chính trị Việt Nam
được xây dựng trên cơ sở hệ thống chuyên chính vô sản, vốn được thiết kế để
thực hiện sứ mệnh, nhiệm vụ của chuyên chính vô sản trong giai đoạn kháng chiến
và thực hiện cải tạo xã hội chủ nghĩa, với nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung,
bao cấp trước đây đã có nhiều đổi mới, phát triển trong điều kiện của công cuộc
đổi mới đất nước, góp phần quan trọng vào việc giành được những thành tựu có ý
nghĩa lịch sử.
Nhiệm vụ tiếp tục cải cách mô
hình tổ chức và hoạt động của từng thiết chế thành viên của hệ thống chính trị
và mô hình tổng thể của hệ thống chính trị vẫn là nhiệm vụ trọng tâm để thực
hiện thắng lợi công cuộc vươn mình của dân tộc trong kỷ nguyên mới.
Tuy nhiên, ngay trong giai đoạn
đổi mới, hệ thống chính trị vẫn còn nhiều bất cập, hạn chế, tổ chức và hoạt
động của một số thiết chế trong hệ thống vẫn chưa thật sự ngang tầm với yêu
cầu, nhiệm vụ.
Tổ chức của hệ thống chính trị
vẫn còn khá cồng kềnh, nhiều tầng nấc, chức năng, nhiệm vụ của các tổ chức
thành viên vẫn còn tình trạng trùng lặp, chồng chéo. Việc hoàn thiện mô hình tổ
chức tổng thể của hệ thống chính trị cho phù hợp với tình hình thực tiễn còn
chậm, chưa đáp ứng yêu cầu. Sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và dân chủ xã
hội chủ nghĩa có lúc, có nơi chưa được quan tâm phát huy đầy đủ. Công tác xây
dựng, chỉnh đốn Đảng còn có hạn chế. Một bộ phận cán bộ, đảng viên phai nhạt lý
tưởng, giảm sút ý chí, ngại khó, ngại khổ, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo
đức, lối sống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; phương thức lãnh đạo của Đảng
đối với hệ thống chính trị còn chậm đổi mới, có mặt còn lúng túng. Cơ chế kiểm
soát quyền lực trong Đảng và Nhà nước chưa đầy đủ, đồng bộ, hiệu lực, hiệu quả (4). Công cuộc xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa vẫn còn những hạn chế, bất cập, có mặt chưa đáp ứng
yêu cầu phát triển, quản lý và bảo vệ đất nước trong tình hình mới. Tổ chức bộ
máy nhà nước, hệ thống pháp luật còn một số bất cập, chưa đáp ứng yêu cầu thực
tiễn (5). Việc đổi mới tổ chức, nội
dung và phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị -
xã hội có mặt chưa
theo kịp yêu cầu của tình hình mới, tình trạng hành chính hóa trong hoạt động
vẫn chậm được khắc phục. Chi phí cho tổ chức và hoạt động của bộ máy của hệ
thống chính trị nói chung, của bộ máy nhà nước nói riêng từ nguồn ngân sách nhà
nước khá lớn, ở một tỷ lệ rất cao (khoảng 70 %) ngân sách nhà nước hằng năm.
Những bất cập, hạn chế trong tổ
chức và hoạt động của Đảng, của bộ máy nhà nước và
các tổ chức chính trị - xã hội, nếu chậm được khắc phục sẽ ảnh hưởng tiêu cực
đến tiến trình vươn mình của dân tộc trong kỷ nguyên mới. Vấn đề đang đặt ra có
tính cấp thiết vẫn là tiếp tục cải cách mô hình tổ chức tổng thể của cả hệ
thống chính trị, một cách quyết liệt với mức độ, quy mô của một cuộc cách mạng
về tổ chức bộ máy, với quyết tâm chính trị cao hơn nữa, các giải pháp mạnh mẽ
hơn nữa, để mỗi tổ chức thành viên của hệ thống chính trị thật sự rõ về chức
năng, nhiệm vụ, trách nhiệm và thẩm quyền, tinh gọn về tổ chức bộ máy, hiệu
quả, hiệu lực về hoạt động để đáp ứng tốt yêu cầu lãnh đạo, dẫn dắt và tổ chức
công cuộc vươn mình của dân tộc trong kỷ nguyên phát triển mới.
Việc xây dựng, đổi mới, hoàn
thiên tổ chức bộ máy của các thiết chế trong hệ thống chính trị tinh gọn, hiệu
lực, hiệu quả trước yêu cầu mới, cần tập trung vào các vấn đề sau:
1. Tiếp tục xây dựng,
chỉnh đốn Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của
Đảng, với trọng tâm là đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng đối với
hệ thống chính trị
Để tiếp tục lãnh đạo, dẫn dắt
công cuộc vươn mình của dân tộc trong kỷ nguyên mới, Đảng ta phải tiếp tục tự
đổi mới mạnh mẽ tổ chức và hoạt động, thật sự trong sạch, thật sự vững mạnh,
ngang tầm với yêu cầu phát triển của đất nước trong thời đại mới. Quán triệt
nhất quán quan điểm “xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt”; kết hợp hài hòa,
chặt chẽ và có hiệu quả giữa xây dựng với chỉnh đốn Đảng, giữa xây dựng Đảng
với bảo vệ Đảng. Không ngừng nâng cao năng lực và đổi mới phương thức lãnh đạo,
cầm quyền của Đảng trong điều kiện mới. Tăng cường xây dựng Đảng về chính trị.
Hết sức coi trọng xây dựng Đảng về tư tưởng. Kiên định, vững vàng trên nền tảng
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đồng thời không ngừng bổ sung,
phát triển sáng tạo, phù hợp với thực tiễn Việt Nam, kiên định mục tiêu độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới, thực hiện nghiêm
nguyên tắc xây dựng Đảng (6).
Tập trung xây dựng Đảng về đạo
đức, đẩy lùi có hiệu quả tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức,
lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” để Đảng ta thật sự là
“đạo đức, là văn minh”, thật sự là một chính đảng liêm chính theo tư tưởng, đạo
đức và phong cách Hồ Chí Minh. Tiếp tục sắp xếp kiện toàn hệ thống tổ chức đảng
các cấp, tinh gọn bộ máy các cơ quan tham mưu của Đảng, nâng cao chất lượng,
hiệu quả công tác tham mưu trong các cơ quan đảng, ngang tầm với yêu cầu xây dựng,
chỉnh đốn Đảng trong điều kiện mới. Đổi mới mạnh mẽ công tác cán bộ để khắc
phục tình trạng “đúng quy trình nhưng không đúng người”. Tập trung xây dựng đội
ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, người đứng đầu các cấp đủ phẩm
chất, năng lực, uy tín, ngang tầm nhiệm vụ (7).
Tăng cường dân chủ, đoàn kết
thống nhất trong Đảng, xử lý hài hòa mối quan hệ giữa thực hành dân chủ, củng
cố kỷ luật, kỷ cương trong Đảng. Đổi mới mạnh mẽ, nâng cao hiệu lực, hiệu quả
công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh, ngăn
chặn, đẩy lùi tham nhũng, tiêu cực lãng phí với quyết tâm chính trị cao hơn,
hành động mạnh mẽ hơn, hiệu quả hơn theo đúng phương châm “Không có vùng cấm,
không có ngoại lệ”. Đặc biệt quyết liệt đấu tranh, ngăn chặn tình trạng lãng
phí cả trong khu vực công và khu vực tư, xem cuộc đấu tranh phòng, chống lãng
phí là quan trọng và cấp thiết như cuộc đấu tranh phòng chống tham nhũng, tiêu
cực.
Yếu tố then chốt bảo đảm cho
Đảng thật sự là “trí tuệ, lương tâm của thời đại”, là “đạo đức, là văn minh”
luôn là phương thức lãnh đạo. Chính vì vậy, trong suốt quá trình lãnh đạo cách
mạng, Đảng ta luôn đặc biệt quan tâm, đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền
của mình đối với Nhà nước và xã hội. Trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, việc
tiếp tục đổi mới, hoàn thiện phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng lại càng
trở nên quan trọng hơn bao giờ hết.
Trong kỷ nguyên vươn mình của
dân tộc, việc tiếp tục đổi mới, hoàn thiện phương thức lãnh đạo, cầm quyền của
Đảng lại càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết.
Để tiếp tục đổi mới phương thức
lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội trong bối cảnh đất nước và thế
giới hiện nay, cần tiến hành một số giải pháp sau:
Một là, đẩy mạnh công tác nghiên
cứu lý luận và tổng kết thực tiễn về phương thức lãnh đạo của Đảng trong điều
kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân và hội
nhập quốc tế ngày càng sâu rộng. Cần nghiên cứu sâu hơn, có hệ thống và toàn
diện hơn vấn đề đổi mới hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay, xác định rõ mô
hình hệ thống chính trị ở nước ta làm cơ sở cho đổi mới phương thức lãnh đạo
của Đảng.
Hai là, cần tiến hành tổng kết, đánh
giá toàn diện việc kiện toàn tổ chức bộ máy trong hệ thống chính trị để có giải
pháp đổi mới mạnh mẽ bộ máy của Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị-xã hội;
phân định rõ chức năng, nhiệm vụ và trách nhiệm của tổ chức đảng, tổ chức nhà
nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội, xác định cơ
chế vận hành các mối quan hệ giữa các tổ chức trong hệ thống chính trị, bảo đảm
cho mỗi một tổ chức trong hệ thống chính trị được tổ chức và hoạt động đúng với
vị trí, vai trò và trách nhiệm của mình.
Trước hết, bản thân Đảng phải
tự đổi mới mạnh mẽ cơ cấu tổ chức bộ máy của mình theo hướng tinh gọn và hiệu
quả. Mạnh dạn khắc phục tình trạng bộ máy đảng song trùng với bộ máy nhà nước,
chồng chéo chức năng, lẫn lộn trách nhiệm. Các cơ quan lãnh đạo của Đảng từ
Trung ương đến địa phương cần tăng cường sử dụng bộ máy nhà nước làm chức năng
tham mưu, đề xuất chủ trương, chính sách; đồng thời, tăng cường củng cố và nâng
cao năng lực các ban trực tiếp làm công tác xây dựng Đảng về chính trị, tư
tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ, nhằm bảo đảm cho Đảng ta thật sự là một tổ
chức chính trị gọn về cơ cấu, rõ về chức năng, linh hoạt trong lãnh đạo và sử
dụng có hiệu quả bộ máy của Nhà nước.
Ba là, Đảng lãnh đạo Nhà nước và
xã hội bằng cương lĩnh, chiến lược, các định hướng, chính sách. Do vậy, trong
giai đoạn phát triển hiện nay và những năm tiếp theo cần đổi mới và nâng cao
chất lượng xây dựng chiến lược, các định hướng chính sách của Đảng, đổi mới
cách ra nghị quyết và đổi mới nội dung của nghị quyết. Nội dung nghị quyết của
Đảng cần tập trung vào những vấn đề cơ bản, lâu dài, giải quyết những vấn đề
trọng đại của đất nước, xử lý những vấn đề cụ thể nhưng có ý nghĩa chính trị
quan trọng, quan hệ với nhiều tầng lớp xã hội, những vấn đề phức tạp trong quan
hệ quốc tế. Nội dung các nghị quyết của Đảng cần xác định rõ, cụ thể các quan
điểm, các giải pháp lớn, nhằm tạo ra khung chính trị để các cơ quan nhà nước
chủ động giải quyết các nhiệm vụ cụ thể; có như vậy, mới tránh được tình trạng
các quyết định của các cơ quan nhà nước về thực chất là lặp lại nghị quyết của
Đảng dưới một hình thức mới.
Để bảo đảm tính đúng đắn và phù
hợp với đường lối, chính sách của Đảng, cần tích cực khoa học hóa, dân chủ hóa
quy trình xây dựng chính sách, áp dụng nhiều hình thức lấy ý kiến của tầng lớp
nhân dân đối với đường lối, chính sách của Đảng, qua đó phát huy trí tuệ của
nhân dân, tiếp thu nguồn sáng tạo từ quần chúng, làm cho đường lối, chính sách
không chỉ là sự kết tinh trí tuệ của Đảng, mà còn là kết tinh trí tuệ, kinh
nghiệm và tình cảm của các tầng lớp nhân dân.
Bốn là, Đảng lãnh đạo xã hội bằng
Nhà nước và thông qua Nhà nước. Do vậy, một mặt phải tiếp tục cải cách mạnh mẽ
bộ máy nhà nước theo các yêu cầu và tiêu chí của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Theo đó, bộ máy nhà nước phải
được tổ chức tinh gọn, chuyên nghiệp hóa, nhằm thực hiện tốt chức năng lập
pháp, hành pháp và tư pháp. Mặt khác, phải tạo ra những chuyển biến thật sự
tích cực trong mối quan hệ giữa sự lãnh đạo của Đảng và vai trò quản lý, điều
hành của Nhà nước theo đúng phương châm: “Đảng lãnh đạo Nhà nước nhưng không
làm thay Nhà nước”. Để giải quyết mối quan hệ này, cần nghiên cứu một số giải
pháp:
1- Xây dựng và thực hiện phương án
nhất thể hóa các chức danh đứng đầu cơ quan lãnh đạo Đảng và Nhà nước ở Trung
ương và địa phương theo hướng: Người đứng đầu cấp ủy đồng thời là người đứng
đầu chính quyền cùng cấp; bố trí kiêm nhiệm ở một số chức vụ quan trọng giữa cơ
quan đảng và cơ quan nhà nước, tạo điều kiện tinh gọn hệ thống chính trị, nâng
cao hiệu lực, hiệu quả lãnh đạo của Đảng, sự quản lý, điều hành của Nhà nước.
2- Tinh gọn bộ máy tổ chức của
Đảng, theo hướng các cấp ủy từ Trung ương đến các cấp địa phương sử dụng hiệu
quả tổ chức bộ máy nhà nước trong vai trò là các cơ quan tham mưu trực tiếp cho
cấp ủy, đồng thời là cơ quan thực thi quyền lực nhà nước theo đúng các quy định
của Hiến pháp và pháp luật. Nghiên cứu hợp nhất một số cơ quan tham mưu của
Đảng tại mỗi cấp, hình thành các cơ quan tham mưu tổng hợp, tạo sự đồng bộ,
thống nhất trong tham mưu, thẩm định chủ trương, chính sách, nhằm tinh gọn tổ
chức bộ máy đảng tại mỗi cấp.
3- Tập trung kiện toàn, nâng
cao chất lượng hoạt động của các cấp ủy, cụ thể hóa các tiêu chuẩn cấp ủy viên,
xác định rõ quyền hạn, trách nhiệm của cấp ủy viên, đổi mới phương thức bầu cử
trong Đảng để Đại hội Đảng có thể bầu trực tiếp người đứng đầu cấp ủy trên cơ
sở cạnh tranh có số dư, bầu trực tiếp cơ quan kiểm tra của Đảng, xây dựng cơ
chế kiểm soát quyền lực trong Đảng, bảo đảm mọi quyền lực và thực thi quyền lực
trong Đảng đều được kiểm soát chặt chẽ.
Năm là, cần cụ thể hóa nguyên tắc Đảng
thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ trên cơ sở phát
huy mạnh mẽ dân chủ trong công tác cán bộ, đề cao trách nhiệm của cấp ủy, các
cơ quan nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội
đối với công tác này, bảo đảm quyền hạn và trách nhiệm của người đứng đầu cơ
quan, tổ chức trong tất cả các khâu của công tác cán bộ. Nghiên cứu xây dựng
các giải pháp đổi mới quy trình, cách thức Đảng giới thiệu những đảng viên ưu
tú có đủ năng lực, phẩm chất vào hoạt động trong các cơ quan lãnh đạo chính
quyền và đoàn thể nhân dân phù hợp Luật bầu cử của Nhà nước và điều lệ của các
tổ chức.
Trong điều kiện hiện nay, cần
có các giải pháp phát hiện, bồi dưỡng, sử dụng nhân tài, mạnh dạn giới thiệu
những người ngoài Đảng có đức, có tài tham gia vào bộ máy lãnh đạo, các cơ quan
nhà nước, các tổ chức chính trị-xã hội; đồng thời, kiên quyết đưa ra khỏi bộ
máy đảng, Nhà nước, các tổ chức đoàn thể những cán bộ, đảng viên không đủ năng
lực công tác, thoái hóa, biến chất, không được quần chúng tín nhiệm.
Sáu là, xây dựng và thực hiện các chế
độ trách nhiệm, đặc biệt là trách nhiệm chính trị, trách nhiệm đạo đức và trách
nhiệm pháp lý của các tổ chức đảng, các cơ quan nhà nước, các tổ chức chính
trị-xã hội, các cán bộ lãnh đạo đối với các công việc thuộc phạm vi lãnh đạo,
quản lý và hoạt động của mình. Phân biệt rõ trách nhiệm tập thể và trách nhiệm
cá nhân trong mỗi tập thể lãnh đạo, cá thể hóa trách nhiệm một cách cụ thể làm
cơ sở để truy cứu trách nhiệm cho từng tổ chức, tập thể và từng cá nhân cán bộ
lãnh đạo đối với từng quyết định sai lầm, từng hiện tượng vi phạm kỷ luật đảng,
vi phạm pháp luật của Nhà nước trong hoạt động của mỗi tổ chức đảng, mỗi cơ
quan, mỗi cán bộ, đảng viên. Nghiên cứu và áp dụng chế độ trách nhiệm liên đới
của tổ chức và cá nhân trong các trường hợp cơ quan cấp dưới hoặc cán bộ cấp
dưới thuộc quyền lãnh đạo, quản lý có các hành vi vi phạm quy định của Đảng,
pháp luật của Nhà nước gây hậu quả nghiêm trọng. Hoàn thiện quy trình truy cứu
trách nhiệm để có thể thực hiện thuận lợi vấn đề bỏ phiếu tín nhiệm, vấn đề từ
chức, miễn chức, cách chức trong thực tiễn.
Bảy là, đổi mới, tăng cường công
tác giám sát, kiểm tra của Đảng đối với hoạt động của bộ máy nhà nước, Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị-xã hội, các đoàn thể quần chúng trong
việc thực hiện đường lối, chính sách và các nghị quyết của Đảng trên tất cả các
lĩnh vực của đời sống xã hội. Có các giải pháp nâng cao trách nhiệm kiểm tra,
năng lực kiểm tra, giám sát của các cấp ủy, của người đứng đầu các cấp ủy đối
với các tổ chức đảng, các cơ quan, tổ chức nhà nước, các tổ chức chính trị-xã
hội trong việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị ở mỗi cơ quan, tổ chức. Đồng
thời, cần đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống các ủy ban kiểm
tra đảng, các cơ quan thanh tra nhà nước theo hướng mở rộng thẩm quyền, cơ cấu
lại tổ chức và phương thức hoạt động. Đa dạng hóa các hình thức kiểm tra, giám
sát bảo đảm công tác kiểm tra, giám sát vừa thường xuyên vừa có trọng tâm,
trọng điểm, bảo đảm thực hiện nghiêm chỉnh Điều lệ Đảng, pháp luật của Nhà
nước, không gây cản trở, phiền hà cho các đối tượng được kiểm tra; đồng thời,
chủ động phát hiện các vi phạm kỷ luật của Đảng, pháp luật của Nhà nước, xử lý
kiên quyết và đích đáng những cán bộ, đảng viên có hành vi vi phạm kỷ luật của
Đảng, pháp luật của Nhà nước ở bất kỳ cương vị nào.
Tám là, đổi mới mạnh mẽ phong cách lãnh
đạo của Đảng, khắc phục tình trạng quan liêu, hình thức, phô trương, lãng phí,
xa rời quần chúng, xa rời thực tiễn trong hoạt động của bộ máy đảng, nhà nước
và các đoàn thể quần chúng.
2. Sắp xếp, kiện toàn
bộ máy nhà nước, rõ về chức năng, tinh gọn về tổ chức, hiệu quả về hoạt động,
ngang tầm yêu cầu của kỷ nguyên phát triển mới
Để sắp xếp, kiện tôàn hợp lý tổ
chức bộ máy nhà nước trong giai đoạn phát triển mới cần tiếp tục đổi mới tư duy
về Nhà nước. Theo đó, tư duy lại vai trò của Nhà nước trong điều kiện hiện nay ở
nước ta, cần đổi mới nhận thức trên những vấn đề cơ bản sau:
1- Nhà nước là một thiết chế chính
trị trung tâm có vai trò đặc biệt quan trọng trong mọi lĩnh vực của đời sống
chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của đất nước. Tuy nhiên, dù vai trò của Nhà
nước quan trọng, to lớn đến nhường nào thì cũng không thể tạo ra một nhà nước
toàn trị, quyết định mọi vấn đề và bao cấp toàn xã hội. Vai trò của Nhà nước
luôn có giới hạn trong mối quan hệ với các thiết chế chính trị-xã hội thuộc hệ
thống chính trị, mối quan hệ với kinh tế thị trường, xã hội và mối quan hệ với
công dân.
2- Trong lĩnh vực kinh tế,
sự quản lý, tác động, điều tiết của Nhà nước vẫn là hết sức cần thiết, nhằm
kiểm soát sự vận hành của thị trường. Để thị trường vận hành hiệu quả, cần phải
có Nhà nước đủ mạnh để bảo đảm sự tuân thủ các nguyên tắc cạnh tranh. Tuy
nhiên, sự quản lý, kiểm soát của Nhà nước đối với thị trường không được phép
tạo ra nguy cơ hành chính hóa nền kinh tế, cũng như thay thế vai trò của thị
trường và các doanh nghiệp. Nhà nước phải tự hạn chế, giảm thiểu các biện pháp
can thiệp trực tiếp vào thị trường, thông qua việc ban hành pháp luật, tạo hành
lang pháp lý thông thoáng cho vận hành của thị trường, tăng cường các biện pháp
kiểm tra, giám sát, kiểm soát, bảo đảm tuân thủ pháp luật, quyền tự do kinh
doanh và cạnh tranh công bằng trên thị trường.
Nhà nước phải tự hạn chế, giảm
thiểu các biện pháp can thiệp trực tiếp vào thị trường, thông qua việc ban hành
pháp luật, tạo hành lang pháp lý thông thoáng cho vận hành của thị trường, tăng
cường các biện pháp kiểm tra, giám sát, kiểm soát, bảo đảm tuân thủ pháp luật,
quyền tự do kinh doanh và cạnh tranh công bằng trên thị trường.
3- Nghiên cứu sự thay đổi
trong vai trò của Nhà nước, cần được quán triệt cả hai xu hướng: Thứ nhất, tăng
cường sức mạnh của Nhà nước thông qua các biện pháp cải tổ mạnh mẽ bộ máy nhà
nước từ kết cấu và tổ chức quyền lực, thực hiện quyền của các nhánh quyền lực
đến việc cải cách nền hành chính quốc gia, cải cách tư pháp... làm cho Nhà nước
thực sự thích ứng với cơ chế kinh tế-xã hội mới để giải quyết có hiệu quả các
nhiệm vụ đặt ra của thời kỳ quá độ. Thứ hai là xu hướng phi nhà nước hóa, từng
bước loại bỏ dần sự can thiệp của Nhà nước vào những lĩnh vực quan hệ xã hội mà
tính chất của chúng không đòi hỏi sự can thiệp ấy, tăng cường các khả năng độc lập của các thiết chế chính trị
xã hội khác theo hướng giải phóng họ khỏi sự phụ thuộc (bảo trợ) của Nhà nước từ tài chính đến tổ chức.
4- Vai trò của Nhà nước trong cơ
chế kinh tế - xã hội mới, cần được nhận diện qua những nhiệm vụ cơ bản, mà một
nhà nước hiện đại và hiệu quả phải quan tâm thực hiện. Đó là xây dựng một hệ
thống pháp luật, tạo cơ sở pháp lý phù hợp cho sự vận động của dân chủ, kinh tế
- xã hội và tự do công dân; duy trì và thực thi một hệ thống chính sách không
thiên lệch trong sự ổn định kinh tế vĩ mô và điều hòa các quan hệ kinh tế; đầu
tư vào các dịch vụ công thiết yếu và cơ sở hạ tầng cơ bản; bảo vệ nhóm người dễ
bị tổn thương; bảo vệ môi trường và duy trì một nền an ninh trong mọi lĩnh vực.
5- Những nhiệm vụ mới, Nhà
nước phải thực hiện được thể hiện trong những yêu cầu mới của hoạt động lập
pháp, hành pháp và tư pháp. Hoạt động lập pháp của Nhà nước trong thời đại ngày
nay không hướng trọng tâm vào thể chế hóa quyền quản lý của bộ máy nhà nước (quyền
cai trị) mà phải hướng trọng tâm vào tạo dựng khuôn
khổ pháp lý vững chắc, ổn định cho một nền dân chủ xã hội và tự do của công
dân. Điều này có nghĩa là hoạt động lập pháp chuyển trọng tâm từ quy định quyền
của bộ máy nhà nước sang xác định nghĩa vụ và trách nhiệm của các cơ quan này,
từ quyền cho phép của công quyền sang quyền của công dân trong mối quan hệ với
Nhà nước.
Hoạt động hành pháp chuyển
trọng tâm từ vai trò quản lý sang vai trò của nền hành chính phục vụ, lấy quyền
và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân làm trung tâm và đích đến của hoạt
động hành pháp. Hoạt động tư pháp chuyển từ nhân danh Nhà nước sang nhân danh
luật pháp và công lý để phán quyết các vi phạm luật pháp và xử lý các tranh
chấp, xung đột pháp lý trong các lĩnh vực của đời sống xã hội. Sự thay đổi tính
mục tiêu, nội hàm hoạt động của lập pháp, hành pháp và tư pháp lẽ đương nhiên
phải cơ cấu lại chức năng, nhiệm vụ mối quan hệ và phương thức hoạt động của bộ
máy nhà nước từ Quốc hội, Chính phủ, các cơ quan tư pháp đến chính quyền địa
phương.
Bộ máy nhà nước và công chức
nhà nước phải kiên quyết vượt qua được tư duy của lối quản lý truyền thống “tư
duy quyền uy” tiến tới tư duy mới: tư duy nghĩa vụ, trách nhiệm, thay đổi cách
ứng xử từ “cho phép” sang “phục vụ” trong mối quan hệ với công dân. Nhà nước
với tính chất là “hình thức tổ chức của dân chủ” không có lợi ích tự thân, và
như vậy, càng không thể có khái niệm lợi ích, ý chí của bộ máy nhà nước, cơ
quan nhà nước. Lợi ích, ý chí của Nhà nước là lợi ích, ý chí của nhân dân theo
đúng tư tưởng Hồ Chí Minh: Một nhà nước của dân, do dân, vì dân. Yêu cầu quan
trọng và cốt yếu của dân chủ trong giai đoạn mới là phải đặt người dân vào vị
trí trung tâm của mọi hoạt động nhà nước. Như vậy, toàn bộ bộ máy nhà nước phải
được tổ chức trên nền tảng “phục vụ nhân dân”.
Tư duy mới về Nhà nước, tạo cơ
sở để đổi mới hiệu quả tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước trên tất cả
phương diện:
Về tổ chức bộ máy nhà
nước:
Trên cơ sở quy định của Hiến
pháp 2013, bộ máy nhà nước cần tiếp tục hoàn thiện theo các định hướng đã được
xác định tại Nghị quyết số 27- NQ/TW, ngày 9-11-2022, “Về tiếp tục xây dựng và
hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới”,
theo đó:
+ Tiếp tục đổi mới tổ chức và
hoạt động của Quốc hội theo hướng chuyên nghiệp, hiệu quả trong các hoạt động
lập pháp, giám sát và quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước. Toàn bộ
tổ chức và hoạt động của Quốc hội phải tuân thủ nghiêm các nguyên tắc của một
thiết chế dân chủ nghị trường, khắc phục những biểu hiện “hành chính hóa” trong
hoạt động Quốc hội. Đổi mới mạnh mẽ hoạt động lập pháp để tháo gỡ những nút
thắt về thể chế đang gây khó khăn cho sự phát triển. Cần kiên quyết chuyển đổi
tư duy xây dựng luật để vừa bảo đảm yêu cầu quản trị quốc gia hiện đại, hiệu
quả, vừa khuyến khích sáng tạo, giải phóng mọi nguồn lực xã hội cho phát triển.
Hoàn thiện, nâng cao kỹ thuật xây dựng luật theo hướng, luật chỉ quy định hành
lang pháp lý có tính nguyên tắc, tạo khuôn khổ thông thoáng cho việc điều chỉnh
các quan hệ xã hội, không luật hóa các nghị định, thông tư của Chính phủ, các
bộ. Quốc hội chỉ ban hành luật thuộc phạm vi thẩm quyền theo quy định của Hiến
pháp, bảo đảm thẩm quyền lập quy của Chính phủ để xử lý kịp thời, linh hoạt
những vấn đề của thực tiễn. Nghiên cứu sửa đổi, hoàn thiện luật bầu cử đại biểu
Quốc hội, đại biểu hội đồng nhân dân để năng cao chất lượng các đại biểu được
bầu vào Quốc hội, đủ phẩm chất, năng lực, trình độ, tầm nhìn trong thảo luận và
quyết định chính sách pháp luật. Sắp xếp hợp lý các cơ quan thuộc Quốc hội theo
nguyên tắc đa ngành, đa lĩnh vực, từ đó hợp nhất một số cơ quan quốc hội có
nhiệm vụ, chức năng gắn bó mật thiết với nhau để giảm bớt số lượng các ủy ban,
tinh gọn bộ máy của Quốc hội; đồng thời, đề cao vị trí, vai trò và trách nhiệm
của đại biểu Quốc hội, Hội đồng dân tộc, Ủy ban của Quốc hội trong ý nghĩa là
hai trụ cột cơ bản của Quốc hội.
+ Tiếp tục nghiên cứu làm rõ
hơn trách nhiệm của Chủ tịch nước để thực hiện đầy đủ chức năng nguyên thủ quốc
gia theo yêu cầu Nhà nước pháp quyền, thay mặt Nhà nước về đối nội, đối ngoại
và thống nhất các lực lượng vũ trang nhân dân, góp phần bảo đảm sự cân bằng và
kiểm soát trong thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.
+ Tiếp tục kiện toàn tổ chức
Chính phủ theo hướng tinh gọn, hợp lý, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu xây
dựng nền hành chính dân chủ, hiện đại. Phân định cụ thể nhiệm vụ và quyền hạn
của tập thể Chính phủ và các thành viên Chính phủ theo hướng: Chính phủ tập
trung vào thực hiện chức năng xây dựng thể chế, Thủ tướng Chính phủ tập trung
lãnh đạo, chỉ đạo nền hành chính quốc gia theo thẩm quyền của người đứng đầu
nền hành chính quốc gia; bộ trưởng chịu trách nhiệm về lĩnh vực quản lý nhà
nước do mình phụ trách, đúng vị của tư lệnh ngành. Tiếp tục tinh gọn cơ cấu tổ
chức bộ máy Chính phủ theo nguyên tắc bộ đa ngành, đa lĩnh vực, mỗi nhiệm vụ
quản lý chỉ do một bộ chịu trách nhiệm, tạo căn cứ để giảm bớt số lượng các bộ,
cơ quan ngang bộ so với số lượng hiện hành; tái cấu trúc lại các cơ quan thuộc
Chính phủ theo mô hình các cơ quan thực thi để khắc phục tình trạng lẫn lộn
chức năng hoạch định chính sách pháp luật và chức năng tổ chức thực thi chính
sách, phòng, chống nguy cơ lợi ích cục bộ, lợi ích nhóm “vừa đá bóng, vừa thổi
còi”.
Tập trung đẩy mạnh cải cách thủ
tục hành chính, cắt giảm mạnh mẽ các thủ tục hành chính đang gây khó khăn cho
người dân và doanh nghiệp, làm tăng chi phí hành chính, kéo dài thời gian, gây
lãng phí nguồn lực và cơ hội phát triển.
+ Xác định cơ chế bảo đảm tính
độc lập của hoạt động tư pháp theo hướng khẳng định tòa án có quyền và có trách
nhiệm chỉ căn cứ vào Hiến pháp và pháp luật để ra các phán quyết, không chịu
bất kỳ sự can thiệp nào từ phía các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức nhà
nước. Trong Nhà nước pháp quyền, chỉ duy nhất tòa án có chức năng xét xử, mọi
cá nhân, cơ quan, tổ chức phải có trách nhiệm tôn trọng phán quyết của tòa án;
đồng thời, cần nghiên cứu để tiếp tục đổi mới tổ chức hoạt động kiểm sát, điều
tra, thi hành án tương ứng với chức năng, nhiệm vụ được phân định rõ để vừa có
sự phân công, phối hợp, vừa kiểm soát lẫn nhau.
+ Cải cách mạnh mẽ chính quyền
địa phương phù hợp với các đặc điểm của nông thôn, đô thị, hải đảo. Phân định
rõ thẩm quyền của chính quyền trung ương và chính quyền địa phương, theo hướng
phân quyền mạnh cho chính quyền địa phương theo phương châm: Địa phương tự
quyết định các vấn đề của địa phương, địa phương tự làm, địa phương tự chịu
trách nhiệm. Hoàn thiện địa vị pháp lý của các cấp chính quyền địa phương theo
yêu cầu của pháp nhân công quyền, tạo cơ chế để chính quyền địa phương tự chủ
về tài chính, tổ chức bộ máy và biên chế công chức địa phương, đáp ứng yêu cầu
phát triển của từng địa phương. Tinh gọn bộ máy chính quyền địa phương, giảm
các cấp hành chính trung gian, đẩy mạnh sắp xếp lại các đơn vị hành chính các
cấp địa phương, tạo không gian và nguồn lực cho sự phát triển trong giai đoạn
mới. Tăng cường kiểm tra, giám sát của Trung ương đối với hoạt động của chính
quyền địa phương; đồng thời, phát huy tính chủ động, sáng tạo, tự chịu trách
nhiệm của chính quyền địa phương các cấp.
Về đội ngũ cán bộ,
công chức:
Nhà nước phải xây dựng cho được
bộ máy tinh gọn, hiệu lực hiệu quả, với đội ngũ cán bộ, công chức có phẩm chất,
năng lực và tính chuyên nghiệp cao. Mọi cơ quan, công chức đều phải được giao
nhiệm vụ rõ ràng. Việc đánh giá tổ chức, cán bộ, công chức phải căn cứ vào kết
quả hoàn thành nhiệm vụ. Phải hoàn thiện tiêu chí đánh giá và cơ chế kiểm soát
thực thi công vụ. Người đứng đầu cơ quan hành chính phải chịu trách nhiệm về
kết quả thực hiện chức năng nhiệm vụ được giao và phải được trao quyền quyết
định tương ứng về tổ chức cán bộ. Cần có quy hoạch, kế hoạch tổng thể về xây
dựng đội ngũ cán bộ, công chức; thực hiện việc quản lý cán bộ, công chức theo
hướng quản lý nguồn nhân lực công vụ. Cần nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ,
công chức cả về bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, năng lực lãnh đạo, chỉ
đạo, điều hành, quản lý nhà nước. Có chính sách đãi ngộ, động viên, khuyến
khích cán bộ, công chức hoàn thành nhiệm vụ và có cơ chế loại bỏ, bãi miễn
những người không hoàn thành nhiệm vụ, vi phạm kỷ luật, mất uy tín đối với nhân
dân.
3. Đổi mới mô hình tổ
chức và phương thức hoạt động, khắc phục tình trạng hành chính hóa, nhà nước
hóa của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội
Mô hình tổ chức của các tổ chức
chính trị-xã hội phải đa dạng và linh hoạt hơn, thích ứng với các môi trường cụ
thể của cơ quan nhà nước, sản xuất, kinh doanh, địa bàn dân cư. Tiếp tục sắp
xếp lại tổ chức bộ máy của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, của các tổ chức chính
trị-xã hội các cấp theo đúng tính chất của một tổ chức chính trị-xã hội đại
diện cho ý chí, nguyện vọng và lợi ích của người dân, không rập khuôn máy móc
theo mô hình cơ quan nhà nước. Tập trung xây dựng tổ chức bộ máy hợp lý tại cấp
trung ương và cấp cơ sở, tinh gọn thực chất và mạnh mẽ cơ cấu tổ chức tại cấp
trung gian, giảm đầu mối trực thuộc.
1- Về phạm vi hoạt động của
mỗi tổ chức, tập trung vào địa bàn, lĩnh vực trọng điểm của đối tượng vận động,
hoạt động sâu, nắm chắc quần chúng, tránh trùng lặp để mỗi địa bàn không nhiều
tổ chức cùng hoạt động.
2- Xây dựng cơ chế tài trợ
của ngân sách nhà nước thay cho việc cấp phát tài chính theo dự toán như cơ
quan nhà nước, nâng dần tính chủ động, tự chủ về tài chính của Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam và các tổ chức chính trị-xã hội.
3- Xây dựng đội ngũ cán bộ
trong bộ máy Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị-xã hội theo
hướng chuyên nghiệp, bảo đảm các điều kiện chính sách, chế độ để họ thật sự trở
thành những nhà hoạt động xã hội.
Trên cơ sở phân tích rõ tính
chất, đặc điểm và thực trạng của đội ngũ cán bộ Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và
các tổ chức chính trị-xã hội để tiến hành tiêu chuẩn hóa đội ngũ cán bộ này và
xây dựng hệ thống cơ chế quản lý cũng như chế độ, chính sách phù hợp, không rập
khuôn như đội ngũ cán bộ, công chức hành chính và không “công chức hóa” đội ngũ
cán bộ trong các tổ chức chính trị-xã hội, các tổ chức chính trị-xã hội nghề
nghiệp.
Xây dựng cơ chế, quy chế phối
hợp trên cơ sở làm rành mạch chức năng giữa Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam và các tổ chức chính trị-xã hội; bảo đảm tính độc lập tương đối về tổ
chức và kinh phí hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính
trị-xã hội. Trên cơ sở đó, có sự phân công, ràng buộc trách nhiệm cụ thể, giám
sát lẫn nhau giữa cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức
chính trị-xã hội, tạo sự vận hành đồng bộ, thông suốt của hệ thống chính trị,
mở rộng và phát huy dân chủ trong xã hội, nâng cao chất lượng của cả hệ thống
chính trị.
Xây dựng cơ chế, chính sách hợp
lý để hạn chế, chấm dứt xu hướng “nhà nước hóa”, “hành chính hóa” của Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị-xã hội, cũng như xu hướng “chính trị
hóa” của các tổ chức xã hội - nghề nghiệp một cách tràn lan, tốn kém về kinh
phí, mà kém hiệu quả, hoạt động chồng chéo. Đa dạng hóa các hình thức tập hợp
quần chúng, đồng thời củng cố, kiện toàn tổ chức và hoạt động của các tổ chức
chính trị - xã hội theo hướng thu gọn các “tổ chức cứng”, tinh gọn biên chế
chuyên trách, nâng cao chất lượng, hiệu quả của các phong trào, chú trọng địa
bàn cơ sở. Có hình thức phù hợp suy tôn các cá nhân tự nguyện cống hiến, hoạt
động trên lĩnh vực này, như các nhà hoạt động xã hội trong thời kỳ mới.
4. Dựa vào nhân dân để đổi mới hệ thống chính trị
Đây là tiền đề xã hội, là sự hậu
thuẫn từ cơ sở xã hội để đổi mới hệ thống chính trị. Đó là lòng dân, sức dân,
là tâm nguyện và ý chí quyết tâm của dân, sức mạnh được nhân lên bởi dân chủ và
quyền làm chủ của nhân dân được phát huy.
Như đã nói ở trên, dân chúng
ủng hộ đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước, tích cực tham
gia và gắn bó với các tổ chức và đoàn thể của mình bằng tổ chức và hoạt động,
tạo ra các phong trào thi đua yêu nước để xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ
Tổ quốc xã hội chủ nghĩa thì đó là nhân tố bảo đảm chắc chắn cho mọi thắng lợi.
Đó thực sự là điều kiện để đổi mới thành công hệ thống chính trị ở nước ta.
Đó thực sự là nguồn vốn xã hội
dồi dào, vô tận cần được khai thác để phục vụ nhân dân, để phát triển, bồi
dưỡng sức dân, vì hạnh phúc cuộc sống của nhân dân. Nguồn vốn xã hội đó phải
được thường xuyên nuôi dưỡng và phát triển. Hệ thống chính trị là hệ thống
chính trị của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Đổi mới hệ thống chính trị
phải dựa vào nhân dân, có nhân dân tham gia thì mới đổi mới thành công, mới
thực sự vững chắc, lâu bền.
Dựa vào nhân dân là một bài học
lịch sử lớn rút ra từ thực tiễn cách mạng nước ta và mãi mãi là một bài học có
ý nghĩa cấp thiết trên mỗi chặng đường phát triển đất nước. Quá trình đổi mới
hệ thống chính trị trong giai đoạn hiện nay, việc thấm nhuần sâu sắc bài học
này, có ý nghĩa to lớn và là một yếu tố bảo đảm sự thành công của đổi mới. Dựa
vào nhân dân, tức là vào vai trò và sức mạnh quyết định của nhân dân.
Để quần chúng nhân dân ủng hộ
và tham gia tích cực vào quá trình đổi mới chính trị thì phải hết sức chăm lo
tới lợi ích nhu cầu thiết thân, hằng ngày của dân chúng, như cơm ăn, áo mặc,
học hành, chỗ ở, đi lại, chăm sóc sức khỏe và mọi nhu cầu văn hóa tinh thần
khác. Đó là tự do, dân chủ, công bằng, bình đẳng, những giá trị rất cơ bản của
phát triển, của việc bảo đảm quyền của mọi người, mọi công dân. Phải làm cho
mọi thông tin đến với nhân dân, mọi chủ trương, quyết sách được thảo luận, bàn
bạc, góp ý, hiến kế. Những gì thuộc về tự quản cộng đồng, người dân phải được
trực tiếp quyết định, do nhân dân làm chủ.
Những hoạt động của Đảng, Nhà
nước, đoàn thể và hành vi của các cán bộ công chức phải có sự kiểm tra, giám
sát xã hội của nhân dân. Dân chúng trực tiếp (qua các phương tiện thông tin đại
chúng) hoặc gián tiếp (qua các tổ chức đại diện) tham gia vào việc tư vấn, phản
biện với các cơ quan của Đảng và Nhà nước. Lúc sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh
rất chú trọng nhắc nhở cán bộ phải gần dân, hỏi dân, học dân, nghe dân.
Chung quy lại, cần thực hành
dân chủ rộng rãi, tạo môi trường, điều kiện thuận lợi để nâng cao vai trò làm
chủ, rèn luyện năng lực làm chủ, phát huy tác dụng làm chủ của nhân dân, nhất
là trong việc xây dựng đường lối, đánh giá chính sách, lựa chọn cán bộ, chấn
chỉnh tổ chức, phát hiện và xử lý tham nhũng để làm trong sạch bộ máy, thể chế,
đoàn kết lực lượng nhân dân và tin tưởng ở năng lực của nhân dân, giải quyết
kịp thời những đề nghị chính đáng của nhân dân; đồng thời, luôn đem lại lợi ích
cho nhân dân. Đó là cách thức tốt nhất để nhân dân ủng hộ và tích cực tham gia
đổi mới hệ thống chính trị. Đổi mới chính trị và hệ thống chính trị dù là rất
khó khăn, phức tạp, nhưng nếu có nhân dân tham gia và tổ chức tốt mọi việc để
nhân dân tham gia thì chắc chắn sự nghiệp đổi mới hệ thống chính trị sẽ tất yếu
thành công.
(theo xaydungdang.org.vn)
(10 Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính
trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 122
(2) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr.
25
(3) Đăng Khoa - Nguyên Hạnh: “Tổng Bí thư Tô Lâm trao đổi chuyên đề
với Lớp bồi dưỡng cán bộ quy hoạch Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIV”, Báo
Nhân Dân điện tử, ngày 31-10-2024
(4) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr.
88
(5) Nghị quyết số 27-NQ /TW, ngày 9-11-2022, Hội nghị lần thứ sáu Ban
Chấp hành Trung ương khóa XIII, “Về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới”.
(6) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr.
40
(7) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 41