Các đại biểu biểu quyết thông qua Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng Cộng
sản Việt Nam_Ảnh: TTXVN
Do
tính chất đặc thù về bối cảnh lịch sử và điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội
của đất nước ta, các chủ thể trong mô hình quản trị quốc gia của Việt Nam bao
gồm: hệ thống chính trị, hệ thống doanh nghiệp, hệ thống các tổ chức xã hội và
người dân, hệ thống cơ quan báo chí và truyền thông... Nghĩa là, mô hình quản
trị quốc gia của Việt Nam sẽ không phải mô hình đơn chủ thể, tuyệt đối hóa vai
trò quản lý đối với mọi lĩnh vực xã hội của một chủ thể duy nhất là nhà nước,
mà đòi hỏi có sự tham gia của nhiều chủ thể khác nhau trong quản trị các mặt,
các lĩnh vực vốn rất đa dạng của đời sống xã hội.
Tuy
nhiên, vai trò, vị trí và chức năng, nhiệm vụ của các chủ thể trong hệ thống
quản trị quốc gia sẽ không hoàn toàn như nhau, mà mỗi chủ thể sẽ có vai trò, vị
trí và thực hiện chức năng, nhiệm vụ khác nhau, thể hiện trong từng lĩnh vực và
điều kiện cụ thể. Do đó, vấn đề quan trọng là phải xác định rõ chức năng, nhiệm
vụ và mối quan hệ giữa các chủ thể, tránh bao biện làm thay hoặc chồng lấn chức
năng, nhiệm vụ, ảnh hưởng đến hiệu quả quản trị quốc gia.
Để
xây dựng, từng bước hoàn thiện mô hình quản trị quốc gia hiện đại, đổi mới và
không ngừng nâng cao hiệu quả quản trị quốc gia theo tinh thần Đại hội XIII đã
xác định, cần thực hiện đồng bộ các giải pháp cơ bản sau:
Một
là, nhất
quán quan điểm về mục tiêu xây dựng, đổi mới quản trị quốc gia của Việt Nam
theo hướng hiện đại, hiệu quả là nhằm phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, xây
dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN trong bối cảnh mới, phát triển
đất nước nhanh và bền vững, hiện thực hóa mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh”.
Mọi
hoạt động của các chủ thể trong hệ thống quản trị quốc gia suy cho cùng, đều
phải hướng đến mục tiêu trên, lấy đó làm tiêu chí quan trọng để đánh giá tính
hiệu quả của quản trị quốc gia ở Việt Nam hiện nay.
Quản
trị quốc gia hiện đại, hiệu quả đòi hỏi phải giải quyết thỏa đáng những vấn đề
nảy sinh trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội với một hệ thống
thể chế, quy trình, phương thức khoa học, dân chủ; qua đó, giảm thiểu sự mâu
thuẫn lợi ích, xung đột giá trị, tăng cường đồng thuận xã hội, sự hài hòa giữa
lợi ích cá nhân với lợi ích cộng đồng trên cơ sở bảo đảm cao nhất lợi ích quốc
gia dân tộc, góp phần quan trọng đưa nước ta trở thành nước phát triển theo
định hướng XHCN vào giữa thế kỷ XXI.
Hai
là, kế thừa có chọn lọc các nguyên tắc của quản trị tốt, với những giá trị cốt
lõi và tính ưu việt đã được cộng đồng quốc tế công nhận, cụ thể là:
Bảo
đảm sự tham gia của nhân dân, tăng cường sự đồng thuận. Huy động sự tham gia
tích cực của các chủ thể xã hội vào hoạt động quản trị quốc gia sẽ khai thác,
phát huy được tiềm năng, nguồn lực của mọi chủ thể, củng cố lòng tin của nhân
dân vào tính hiệu quả của quản trị. Mặt khác, việc nhân dân tham gia vào quá
trình hoạch định chủ trương, đường lối, quyết sách của các cấp chính quyền sẽ
góp phần bảo đảm dân chủ, tính hiệu quả và sự bền vững của quản trị quốc gia.
Nhà
nước pháp quyền: Nhà nước “có hệ thống pháp luật hoàn thiện, được thực hiện
nghiêm minh, nhất quán; thượng tôn Hiến pháp và pháp luật, tôn trọng, bảo đảm,
bảo vệ hiệu quả quyền con người, quyền công dân; quyền lực nhà nước là thống
nhất, được phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ, kiểm soát hiệu quả; nền hành
chính, tư pháp chuyên nghiệp, pháp quyền, hiện đại; bộ máy nhà nước tinh gọn,
trong sạch, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức
có đủ phẩm chất, năng lực, thực sự chuyên nghiệp, liêm chính; quản trị quốc gia
hiện đại, hiệu quả”(2).
Trách
nhiệm giải trình: Các cơ quan trong hệ thống chính trị, những người được giao
nắm giữ và thực thi quyền lực công phải chịu trách nhiệm và có nghĩa vụ giải
trình trách nhiệm của mình trước cấp trên, trước các cơ quan dân cử, tổ chức xã
hội, các chủ thể có liên quan và nhân dân về các chủ trương, chính sách, quy
định pháp luật và các quyết sách cũng như tính hiệu quả trong các hoạt động của
mình một cách rõ ràng, công khai.
Sự
minh bạch: Bảo đảm tính minh bạch trong hoạt động quản lý của Nhà nước; quá
trình hoạch định, ban hành và tổ chức triển khai thực hiện các quyết sách của
Nhà nước phải tuân thủ pháp luật, đồng thời bảo đảm quyền được tiếp cận thông
tin của các chủ thể khác. Thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, Nhà
nước chủ động công khai các thông tin liên quan đến quyền lợi trực tiếp của
doanh nghiệp và người dân, bảo đảm các thông tin về những quyết sách và hoạt
động của Nhà nước được công bố đầy đủ, cập nhật, công khai, dễ tiếp cận đối với
doanh nghiệp và các tầng lớp nhân dân.
Hiệu
lực, hiệu quả: Hiệu lực trong quản trị quốc gia, tức là việc bảo đảm các chính
sách, quy định, pháp luật được các chủ thể tiếp nhận và tuân thủ trên cơ sở của
sự đồng thuận. Hiệu quả của quản trị quốc gia đòi hỏi phải vừa khơi thông, phát
huy được các nguồn lực, vừa sử dụng hợp lý, tiết kiệm các nguồn lực cho sự phát
triển, bảo vệ môi trường sinh thái, đáp ứng tốt các nhu cầu của xã hội và người
dân.
Ba
là, kế thừa và phát huy vai trò tích cực của các thiết chế xã hội truyền thống,
phù hợp với yêu cầu đất nước trong bối cảnh thời đại mới.
Với
sự tồn tại lâu dài của cấu trúc làng xã cổ truyền Việt Nam trong lịch sử, mối
quan hệ giữa các cá nhân và giữa cá nhân với cộng đồng không chỉ được điều
chỉnh bởi pháp luật của Nhà nước mà còn chịu sự tác động và được điều chỉnh bởi
các quy phạm đạo đức và hệ thống lệ làng, hương ước.
Bên
cạnh những ảnh hưởng tiêu cực, như: tính cục bộ địa phương, cục bộ dòng họ; tư
tưởng địa vị ngôi thứ, tác phong gia trưởng, bệnh gia đình chủ nghĩa, các hủ
tục lạc hậu... dẫn đến xem nhẹ pháp luật, hạn chế và vi phạm quyền tự do cá
nhân, các thiết chế xã hội truyền thống cũng có những mặt tiến bộ nhất định, như:
đề cao tinh thần trách nhiệm của con người trước cộng đồng làng xã; tinh thần
dân chủ làng xã, vai trò tự quản của cộng đồng trong việc giữ gìn an ninh trật
tự, củng cố tinh thần đoàn kết, tương thân tương ái dựa trên tình làng nghĩa
xóm, giải quyết những tranh chấp và nhiều vấn đề tế nhị, phức tạp trong phạm vi
làng xã mà pháp luật của Nhà nước không thể vươn tới và bao quát hết.
Do
đó, quá trình xây dựng mô hình quản trị quốc gia hiện đại, hiệu quả ở Việt Nam
hiện nay đòi hỏi, phải vừa khắc phục ảnh hưởng tiêu cực, vừa kế thừa, phát huy
vai trò và ảnh hưởng tích cực của các thiết chế xã hội truyền thống, bảo đảm sự
gắn kết giữa hiện đại và truyền thống một cách hài hòa, hợp lý.
Bốn
là, tiếp tục tập trung giải quyết tốt “mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước
quản lý, nhân dân làm chủ”.
Đảng
Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam và các tổ chức chính trị -
xã hội đại biểu cho quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân, là những
bộ phận hợp thành hệ thống chính trị trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta,
đồng thời cũng là những chủ thể có vai trò quan trọng trong mô hình quản trị
quốc gia, tham gia vào các lĩnh vực của quản trị, có tác động và ảnh hưởng rất
lớn đến mục tiêu, hiệu quả của quản trị quốc gia. Trên cơ sở phân định rõ vai trò,
chức năng, nhiệm vụ của từng chủ thể mới có thể giải quyết thỏa đáng mối quan
hệ giữa các chủ thể đó để tránh bao biện làm thay, đồng thời khắc phục sự chồng
lấn về chức năng, nhiệm vụ, nâng cao năng lực và hiệu quả hoạt động của mỗi chủ
thể, qua đó góp phần xây dựng mô hình quản trị quốc gia hiện đại, hiệu quả ở
nước ta.
Trước
hết, cần xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh toàn diện, theo hướng “giữ vững
bản chất giai cấp công nhân của Đảng”; “Đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền
của Đảng”; “Xây dựng đội ngũ đảng viên và cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến
lược đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, ngang tầm nhiệm vụ”; đồng thời “Tiếp tục
đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, “lợi
ích nhóm”, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ... Củng
cố niềm tin, sự gắn bó của nhân dân với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ
nghĩa”(3) là
điều có ý nghĩa quyết định thành công của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
nói chung, tạo lập mô hình quản trị quốc gia hiện đại, hiệu quả ở Việt Nam nói
riêng.
Mặt
khác, cần tiếp tục xây dựng và không ngừng hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN
của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, bảo đảm cho Nhà nước thực sự là “Nhà
nước kiến tạo phát triển, liêm chính, hành động”. Để thực hiện điều đó, nhiệm
vụ trọng tâm đặt ra là phải “Hoàn thiện hệ thống pháp luật và cơ chế tổ chức
thực hiện pháp luật nghiêm minh, nhất quán; bảo đảm thượng tôn Hiến pháp và
pháp luật; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực pháp luật. Hoàn thiện cơ chế kiểm
soát quyền lực nhà nước, đẩy mạnh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; tiếp tục
đẩy mạnh cải cách hành chính, tăng cường phân cấp, phân quyền, làm rõ chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các tổ chức, cá nhân trong bộ máy nhà nước đi đôi
với nâng cao năng lực thực thi; xây dựng tổ chức bộ máy nhà nước tinh gọn, hoạt
động hiệu lực, hiệu quả. Ðẩy mạnh cải cách tư pháp, bảo đảm tính độc lập của
tòa án theo thẩm quyền xét xử, thẩm phán, hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân
theo pháp luật”(4).
Bên
cạnh đó, cần tiếp tục đẩy mạnh sự phân cấp, phân quyền một cách phù hợp, theo
hướng “Phân định rõ quyền hạn và trách nhiệm trong quản lý kinh tế, xã hội giữa
Trung ương và địa phương, bảo sự sự tập trung thống nhất quản lý của Trung ương
và phát huy tính chủ động, tự chịu trách nhiệm của các cấp chính quyền địa
phương. Hoàn thiện cơ chế phân cấp đầu tư, ngân sách, bảo đảm quản lý thống
nhất về quy hoạch phát triển và cân đối nguồn lực. Hoàn thiện tổ chức và hoạt
động của chính quyền địa phương bảo đảm phục vụ tốt nhất người dân, doanh
nghiệp”(5).
Xây
dựng Đảng, Nhà nước và hệ thống chính trị vững mạnh toàn diện, mục đích cuối
cùng là nhằm thực hành dân chủ, bảo đảm nhân dân thực sự là chủ thể và là trung
tâm của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc nói chung, xây dựng mô hình quản
trị quốc gia hiện đại, hiệu quả nói riêng. Do đó, cần nâng cao tính minh bạch,
trách nhiệm giải trình của các tổ chức và cá nhân, nhất là những người có trách
nhiệm cao trong hệ thống chính trị; bảo đảm phương châm “Dân biết, dân bàn, dân
làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng” được hiện thực hóa; lấy sự hài
lòng và tín nhiệm của nhân làm tiêu chí căn bản để đánh giá năng lực, hiệu quả
lãnh đạo, quản lý, điều hành của các cá nhân, tổ chức.
Năm
là, tiếp tục nghiên cứu và giải quyết tốt mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường
và xã hội, bảo đảm hài hòa lợi ích, phát huy tốt vai trò tích cực của mỗi chủ
thể.
Từ
thực tiễn của công cuộc đổi mới, xây dựng đất nước cho thấy, những mối quan hệ
lớn, phản ánh các quy luật mang tính biện chứng, cần tập trung giải quyết tốt
trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Một trong mười mối quan hệ lớn được Đại hội XIII
xác định là, phải “giải quyết mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội,
quan hệ giữa Nhà nước, doanh nghiệp và người dân”(6). Đây cũng chính là các yếu tố, các
chủ thể quan trọng cấu thành mô hình quản trị quốc gia của Việt Nam trong giai
đoạn hiện nay. Xác định đúng vai trò, vị trí, chức năng và giải quyết hợp lý
mối quan hệ giữa các chủ thể đó sẽ góp phần quan trọng vào việc xây dựng, từng
bước hoàn thiện mô hình quản trị quốc gia Việt Nam hiện đại, hiệu quả. Tuy
nhiên, việc đòi hỏi phải xác lập mối quan hệ “đối xứng”, “đồng đẳng”, ngang
bằng theo kiểu bình quân về vai trò và chức năng, quyền hạn giữa các chủ thể đó
sẽ là không phù hợp, phi thực tế.
Mối
quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội được biểu hiện trên nhiều phương
diện, như: mối quan hệ giữa chủ thể quản lý và các đối tượng quản lý, mối quan
hệ giữa các chủ thể cùng tham gia thị trường, mối quan hệ giữa nguồn lực nhà
nước với nguồn lực doanh nghiệp và nguồn lực xã hội, mối quan hệ giữa lợi ích
công với lợi ích doanh nghiệp và lợi ích cá nhân... Giải quyết hài hòa các mối
quan hệ trên sẽ góp phần phát huy lợi thế, đồng thời bổ sung, bù đắp các thiếu
hụt, khiếm khuyết để tối ưu hóa mục tiêu của quản trị quốc gia. Để giải quyết
tốt mối quan hệ trên, đòi hỏi phải xác định rõ vai trò, nhiệm vụ của từng chủ
thể, trên cơ sở đó mới có thể bảo đảm mỗi chủ thể thực hiện hiệu quả các vai
trò, nhiệm vụ để vừa bổ sung, hỗ trợ, vừa góp phần khắc phục các hạn chế, khiếm
khuyết của mỗi chủ thể.
Trong
mô hình quản trị quốc gia ở Việt Nam, Nhà nước có vai trò “xây dựng và hoàn
thiện thể chế, bảo vệ quyền tài sản, quyền kinh doanh, giữ ổn định kinh tế vĩ
mô, các cân đối lớn của nền kinh tế; tạo môi trường thuận lợi, công khai, minh
bạch cho các doanh nghiệp, các tổ chức xã hội và thị trường hoạt động; điều
tiết, định hướng, thúc đẩy kinh tế phát triển, gắn kết phát triển kinh tế với
phát triển văn hóa, xã hội, bảo đảm an sinh xã hội, đời sống nhân dân, bảo vệ
môi trường, bảo đảm quốc phòng, an ninh. Nhà nước quản lý nền kinh tế bằng luật
pháp, cơ chế, chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, các tiêu chuẩn...
phù hợp với các yêu cầu và quy luật của kinh tế thị trường”(7).
Yêu
cầu đặt ra là, phải phát huy vai trò của Nhà nước trong việc kiến tạo môi
trường thể chế thuận lợi, minh bạch trên cơ sở tôn trọng các quy luật khách
quan của thị trường, tạo điều kiện cho các loại hình doanh nghiệp hoạt động phù
hợp với quy luật thị trường, tuân thủ đúng pháp luật. Do đó, cần tập trung tháo
gỡ các điểm nghẽn theo hướng “Xây dựng khung khổ pháp luật, môi trường thuận
lợi thúc đẩy phát triển, khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, phát
triển kinh tế số;... Tập trung sửa đổi những quy định mâu thuẫn, chồng chéo,
cản trở phát triển kinh tế. Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, phân cấp,
phân quyền, ủy quyền gắn với tăng cường kỷ luật, kỷ cương, trách nhiệm cá nhân
và nâng cao trách nhiệm phối hợp giữa các cấp các ngành”(8).
Để
phát huy tốt vai trò của thị trường trong mô hình quản trị quốc gia ở nước ta,
cần xây dựng và hoàn thiện nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, bảo đảm “Thị
trường đóng vai trò quyết định trong xác định giá cả hàng hóa, dịch vụ; tạo
động lực huy động, phân bổ hiệu quả các nguồn lực; điều tiết sản xuất và lưu
thông; điều tiết hoạt động của doanh nghiệp, thanh lọc những doanh nghiệp yếu
kém”(9).
Cùng
với đó là phải phát huy vai trò của các tổ chức xã hội, tạo điều kiện và môi
trường, cơ chế để “các tổ chức xã hội, xã hội - nghề nghiệp tham gia hình thành
và điều tiết các quan hệ kinh tế thị trường”, bảo đảm “Các tổ chức xã hội có
vai trò tạo sự liên kết, phối hợp hoạt động, giải quyết những vấn đề phát sinh
giữa các thành viên; đại diện và bảo vệ lợi ích của các thành viên trong quan
hệ với các chủ thể, đối tác khác; cung cấp dịch vụ hỗ trợ cho các thành viên;
phản ánh nguyện vọng, lợi ích của các tầng lớp nhân dân với Nhà nước và tham
gia phản biện luật pháp, cơ chế, chính sách của Nhà nước, giám sát các cơ quan
và đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước trong việc thực thi pháp luật”(10).
Thực
tế cho thấy, Nhà nước, thị trường và xã hội là các chủ thể có vai trò quan
trọng trong quản trị quốc gia, mỗi chủ thể có thế mạnh riêng, song bản thân mỗi
chủ thể, do tính chất và đặc trưng nhiệm vụ khác biệt nên đều có những giới hạn
và khiếm khuyết nhất định. Giải quyết mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và
xã hội, bảo đảm sự phối hợp chặt chẽ, hiệu quả để có thể bổ sung cho nhau, khắc
phục các khiếm khuyết, bảo đảm tính hiệu quả trong xây dựng mô hình quản trị
quốc gia ở nước ta hiện nay đòi hỏi phải đặt lợi ích quốc gia dân tộc, vì sự
phát triển nhanh và bền vững đất nước lên trên hết; Nhà nước tác động vào thị
trường và xã hội trên cơ sở tôn trọng quy luật khách quan của thị trường và xã
hội, không làm những gì thị trường và xã hội đang làm hiệu quả; đồng thời bảo
đảm hài hòa giữa lợi ích công với lợi ích doanh nghiệp, lợi ích cá nhân. Phát
huy vai trò của người dân, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội -
nghề nghiệp và cộng đồng trong xây dựng, phản biện, giám sát thực hiện cơ chế,
chính sách, pháp luật.
Sáu
là, phát huy vai trò của các cơ quan báo chí và truyền thông trong xây dựng mô
hình quản trị quốc gia hiện đại, hiệu quả.
Các
cơ quan báo chí và truyền thông cũng là một trong những chủ thể quan trọng của mô
hình quản trị quốc gia ở Việt Nam, do đó cần phát huy vai trò, nâng cao trách
nhiệm, hiệu quả hoạt động của chủ thể này, nhất là trong bối cảnh của cuộc Cách
mạng công nghiệp lần thứ tư với sự bùng nổ thông tin trên không gian mạng hiện
nay.
Các
cơ quan báo chí và truyền thông có vai trò to lớn trong việc tuyên truyền, phổ
biến để toàn xã hội nhận thức sâu rộng về tính tất yếu và tầm quan trọng của
việc xây dựng mô hình quản trị quốc gia, đáp ứng yêu cầu của đất nước trong xu
thế mới của thời đại.
Mặt
khác, việc cung cấp các thông tin kịp thời, cập nhật, chính xác của các cơ quan
này sẽ góp phần kết nối các chủ thể trong hệ thống quản trị, tham gia vào quá
trình hoạch định chủ trương, đường lối, chính sách và đưa chủ trương, đường
lối, chính sách vào cuộc sống; đồng thời tạo môi trường thuận lợi cho việc tham
gia giám sát, phản biện xã hội đối với năng lực và hiệu quả hoạt động của các
chủ thể, qua đó nâng cao tính minh bạch và trách nhiệm giải trình của các chủ
thể đó trước nhân dân, góp phần đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực và
thúc đẩy dân chủ hóa các mặt của đời sống xã hội.
Do
vậy, cần nâng cao năng lực, ý thức trách nhiệm, đạo đức nghề nghiệp của những
người làm công tác báo chí, truyền thông; “Xây dựng nền báo chí, truyền thông
chuyên nghiệp, nhân văn và hiện đại... Tăng cường quản lý và phát triển các
loại hình truyền thông, thông tin trên internet. Kiên quyết đấu tranh, loại bỏ
các sản phẩm, thông tin độc hại, xuyên tạc, phản động, ảnh hưởng xấu đến ổn
định chính trị - xã hội, thuần phong mỹ tục”(11).
Bảy
là, đẩy mạnh ứng dụng thành tựu khoa học và công nghệ, nâng cấp nền tảng công
nghệ quốc gia, đẩy mạnh thực hiện chuyển đổi số quốc gia, xây dựng chính phủ
số, xã hội số để từng bước tạo lập mô hình quản trị quốc gia hiện đại, hiệu
quả.
Trong
bối cảnh của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư phát triển rất mạnh mẽ, tác
động to lớn, làm thay đổi cách thức tư duy, giải quyết vấn đề trên tất cả các
phương diện của cuộc sống, đòi hỏi mô hình quản trị quốc gia hiện đại phải là
mô hình quản trị thông minh, kết nối, chia sẻ thông tin, chia sẻ tri thức. Do
đó, cần đẩy mạnh ứng dụng các thành tựu khoa học và công nghệ mới có thể xây
dựng được một “thể chế thông minh, bộ máy quản trị thông minh, nhân lực quản
trị thông minh, phương thức quản trị thông minh, giám sát thông minh...”, tạo
điều kiện tối ưu cho việc giải phóng các nguồn lực, đổi mới sáng tạo, kết nối
chính quyền với doanh nghiệp, người dân vì mục tiêu phát triển kinh tế - xã
hội.
Mặt
khác, việc đẩy mạnh ứng dụng các thành tựu khoa học và công nghệ sẽ thúc đẩy
việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức có trình độ, năng lực và
tinh thần trách nhiệm; nâng cao hiệu quả giám sát, phản biện xã hội và trách
nhiệm giải trình của các chủ thể; công khai, minh bạch hoạt động của các cơ
quan, tổ chức, đơn vị; minh bạch tải sản, thu nhập của cán bộ, công chức, góp
phần phòng chống tham nhũng, tiêu cực; bảo đảm tính hiệu lực, hiệu quả của quản
trị quốc gia, củng cố niềm tin của nhân dân.
(Theo lyluanchinhtri.vn)
Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính
trị số 551 (1-2024)
Ngày nhận bài: 03-01-2024; Ngày bình
duyệt: 10-01-2024; Ngày duyệt đăng: 20-01-2024.
(1), (3), (6), (7),
(8), (9), (10), (11)
ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.I, Nxb
Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.203, 200, 100, 130-131, 132,
131, 131-132, 146.
(2)
https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/he-thong-van-ban/van-ban-cua-dang/nghi-quyet-so-27-nqtw-ngay-09112022-hoi-nghi-lan-thu-sau-ban-chap-hanh-trung-uong-dang-khoa-xiii-ve-tiep-tuc-xay-dung-va-9016.
(4) ĐCSVN: Nghị quyết Hội nghị lần thứ
sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới, Hà Nội,
2022.
(5) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2016, tr.311.