
Ngày
12/5/2024, tại Quảng Ninh, Ủy ban Văn hóa, Giáo dục của Quốc hội chủ trì, phối
hợp với Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Ban Tuyên giáo Trung ương, Bộ
Văn hóa, Thể thao và Du lịch, tỉnh Quảng Ninh tổ chức Hội thảo Văn hóa năm 2024
với chủ đề: “Chính sách và nguồn lực cho phát triển thiết chế văn hóa, thể
thao". Ảnh: Thanh Vân-TTXVN (nguồn news.vnanet.vn)
Đặt vấn
đề
Trong cuốn sách: “Một số vấn đề lý luận về Chủ nghĩa xã hội
và con đường đi lên Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” của cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú
Trọng, bài viết “Quyết tâm chấn hưng và xây dựng thành công một nền văn hóa Việt
Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”, cố Tổng Bí thư đã chỉ ra 6 nhiệm vụ để
tiếp tục xây dựng, giữ gìn, chấn hưng nền văn hóa dân tộc, trong đó có luận đề:
“tôn trọng và bảo vệ sự biểu đạt đa dạng của văn hóa, của người dân, các dân tộc,
các vùng miền”[3, tr.171].
Đây là luận đề hết sức quan trọng trong xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt
Nam hướng tới sự đa dạng, mang sắc thái dân tộc đậm đà - nền tảng quan trọng
cho sự phát triển bền vững và thịnh vượng của đất nước trong giai đoạn hiện
nay.
1. Giá trị của đa dạng văn
hóa trong sự phát triển bền vững giai đoạn hiện nay
Đa dạng văn hóa thường được hiểu là sự tồn tại của nhiều
cách biểu đạt, nhiều dạng thức hay nền văn hóa khác nhau ở một vùng nói riêng
hoặc trên thế giới nói chung. Đa dạng văn hóa là đặc trưng của xã hội loài người
vì nó thể hiện sự thích ứng của con người đối với các điều kiện tồn tại của họ.
Trong giai đoạn hiện nay, đa dạng văn hóa không chỉ góp phần làm phong phú hơn
đời sống tinh thần mà nó còn trở thành động lực thúc đẩy sự phát triển của con
người và xã hội theo hướng bền vững. Ý nghĩa của đa dạng văn hóa có thể được
nhìn nhận ở một số khía cạnh sau:
Thứ nhất, đa dạng văn hóa là nguồn lực cho phát triển.
Bản chất
của văn hóa là sáng tạo, trong giai đoạn hiện nay, các quốc gia đều coi năng lực
sáng tạo của con người là nguồn lực quan trọng nhất cho sự phát triển. Đặc biệt,
có thể thấy rõ điều này ở một số các ngành công nghiệp văn hóa: thủ công mỹ nghệ,
nghệ thuật, biểu diễn, thời trang, điện ảnh, truyền hình, nhất là ở ngành du lịch
văn hóa. Sự sáng tạo và đa dạng văn hóa là điều kiện, chìa khóa tạo nên sự hấp
dẫn, thương hiệu và sức cạnh tranh cho các sản phẩm và dịch vụ văn hóa của từng
địa phương và quốc gia góp phần giải quyết công ăn, việc làm, tăng thu nhập cho
người dân, đóng góp GDP của đất nước. Tuy nhiên, nguồn lực cho tăng trưởng kinh
tế này chỉ được phát huy khi bảo tồn đa dạng văn hóa được đầu tư một cách đầy đủ.
Thứ hai, đa dạng văn hóa là cơ sở thúc đẩy hiểu biết lẫn nhau, tạo sự ổn
định và phát triển bền vững.
Mỗi cộng
đồng, dân tộc, trong quá trình phát triển đều sáng tạo và định hình một hệ thống
giá trị riêng. Hệ thống giá trị này có vai trò quan trọng trong việc gắn kết
các thành viên trong cùng cộng đồng, đồng thời cho phép con người có được ý thức
sâu sắc về cảm giác thuộc về cộng đồng. Không chỉ tạo nên vốn văn hóa, đa dạng
văn hóa còn là cơ sở tạo thành vốn xã hội khi tạo thành cơ chế để bảo vệ các
hình thức khác biệt của văn hóa. Nhờ đó, góp phần đem lại cảm giác làm chủ và
niềm tin vào các tổ chức cộng đồng, tạo nên sự ổn định của xã hội.
Thứ ba, đa dạng văn hóa là phương tiện thúc đẩy và bảo đảm an ninh
chính trị cũng như toàn vẹn lãnh thổ.
Văn hóa chính là “hoạt động sống” của mỗi cộng đồng, dân
tộc. Mà những hoạt động này lại có cơ sở từ các điều kiện tự nhiên, sinh kế, xã
hội đặc thù. Chính sự đa dạng trong lối sống sinh kế và văn hóa giúp các cộng đồng
dân tộc thiểu số sống ở các vùng núi cao, biên giới gắn kết cộng đồng, tăng cường
đại đoàn kết dân tộc, góp phần bảo vệ an ninh, quốc phòng, giữ đất đai, lãnh thổ.
Thứ tư, đa dạng văn hóa giúp bảo vệ cảnh quan, môi trường.
Mỗi cộng
đồng, dân tộc trong quá trình sinh tồn và phát triển đều phải khai thác, sử dụng
tài nguyên thiên nhiên. Trải qua quá trình lâu dài, họ đều tích lũy được những
tri thức cần thiết, tạo ra những cơ chế và phương thức tổ chức, khai thác, sử dụng
tài nguyên thiên nhiên một cách hiệu quả nhất giúp con người có thể tồn tại và
phát triển hài hòa, bền vững cùng môi trường tự nhiên. Vì vậy, đa dạng văn hóa
góp phần trong bảo tồn cảnh quan, môi trường, nhất là bảo vệ rừng và rừng đầu
nguồn.
2. Quan điểm của Đảng về
phát triển tính đa dạng trong văn hóa Việt Nam
Từ khi
ra đời và trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta luôn quan
tâm đến lĩnh vực văn hóa và coi đó là một trong những lĩnh vực quan trọng đảm bảo
cho sự phát triển bền vững của đất nước. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời
kỳ quá độ đi lên Chủ nghĩa xã hội (1991) đã khẳng định “nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm
đà bản sắc dân tộc” là một trong sáu đặc trưng của xã hội Xã hội chủ nghĩa mà
chúng ta đang xây dựng. Để có phương hướng chiến lược xây dựng và phát triển
văn hóa, thực hiện nhiệm vụ đã nêu trong Cương lĩnh năm 1998, Đảng ban hành Nghị
quyết Hội nghị lần thứ 5, Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII về “Xây dựng và
phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”. Tư tưởng
xuyên suốt của Nghị quyết này đều nhấn mạnh và khẳng định các giá trị bản sắc
văn hóa Việt Nam nói chung, trong đó văn hóa truyền thống, cội nguồn các dân tộc
chiếm một vị trí quan trọng trong xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam
hiện nay. Nghị quyết đã nêu 5 quan điểm chỉ đạo, 10 nhiệm vụ và 4 hệ thống giải
pháp, trong đó quan điểm thứ 3 khẳng định: “Nền văn hóa Việt Nam là nền văn hóa
thống nhất mà đa dạng trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam” [2, tr.54]. Từ quan
điểm chỉ đạo này, vấn đề bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa, nhất là văn
hóa các dân tộc thiểu số được coi là những nhiệm vụ cơ bản của sự nghiệp xây dựng
và phát triển nền văn hóa Việt Nam.
Sau 15
năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5, khóa VIII, đánh giá kết quả, hạn chế và
những yêu cầu đặt ra của sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa, tháng 6/2014,
Đảng tiếp tục ban hành Nghị quyết hội nghị lần thứ chín, Ban Chấp hành Trung
ương khóa XI về “Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu
cầu phát triển bền vững đất nước”. Nghị quyết Trung ương 9 tiếp tục kế thừa và
bổ sung nhiều quan điểm đã được nêu trong Nghị quyết Trung ương 5, khóa VIII; tTrong
đó tiếp tục khẳng định quan điểm: “Xây dựng nền
văn hóa Việt Nam tiến tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, thống nhất trong đa dạng của
cộng đồng các dân tộc Việt Nam, với các đặc trưng: Dân tộc, Nhân văn,
Dân chủ và Khoa học”[5,tr.23].
Nghị quyết nhấn mạnh nhiệm vụ giữ gìn và phát huy giá trị di sản văn hóa các
dân tộc thiểu số, nhất là tiếng nói, chữ viết, trang phục và lễ hội truyền thống.
Đại hội
lần thứ XIII của Đảng tiếp tục khẳng định mục tiêu xây dựng nền văn hóa tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc đồng thời đưa văn hóa lên tầm nhận thức mới với tư tưởng
xuyên suốt: “lấy giá trị văn hóa, con người Việt Nam là nền tảng, sức mạnh nội
sinh quan trọng, bảo đảm sự phát triển bền vững đất nước”, đã tạo ra những thay
đổi đáng kể trong chỉ đạo sự nghiệp xây dựng
và phát triển văn hóa. Và để triển khai Văn kiện Đại hội XIII của Đảng, đồng thời
khẳng định và tiếp thêm động lực cho quá trình tổ chức xây dựng và phát
triển văn hóa, ngày 24/11/2021, Hội nghị văn hóa toàn quốc được tổ chức tại Hà
Nội. Tại đây, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng có bài phát biểu rất sâu sắc, định
hướng những quan điểm chỉ đạo, nhiệm vụ và giải pháp lớn nhằm “chấn hưng và xây
dựng thành công một nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”.
Trong đó cũng đã khẳng định một trong những nhiệm vụ quan trọng là phải “tôn trọng
và bảo vệ sự biểu đạt đa dạng của văn hóa, của người dân, các dân tộc, các vùng
miền”[3, tr.171].
Thực hiện quan điểm của Đảng về văn hóa nói chung, nhất là
quan điểm bảo tồn sự đa dạng văn hóa, Nhà nước Việt Nam đã xây dựng và hoàn thiện
hệ thống pháp luật, đồng thời các ban hành chính sách nhằm thúc đẩy tôn trọng
đa dạng văn hóa vì sự phát triển bền vững. Hiến pháp năm 2013 khẳng định quyền
bình đẳng của các dân tộc, trong đó nhấn mạnh các dân tộc bình đẳng, đoàn kết,
tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ
dân tộc. Trong đó, khoản 3, điều 5 nhấn mạnh: “Các dân tộc có quyền dùng tiếng
nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc, phát huy phong tục, tập quán, truyền thống
và văn hóa tốt đẹp của mình”. Trong thời kỳ đổi mới, Nhà nước đã ban hành nhiều
chính sách nhằm bảo tồn sự đa dạng văn hóa các dân tộc: Chính sách bảo tồn,
phát huy tiếng nói, chữ viết các dân tộc thiểu số; chính sách bảo tồn và phát
huy các giá trị di sản văn hóa dân tộc...
Trong
nhiệm kỳ 2011-2015 và 2021-2025, Việt Nam đều được bầu vào Ủy ban Liên chính phủ
Công ước UNESCO về bảo vệ và phát huy sự đa dạng các biểu đạt văn hóa. Đồng thời,
Việt Nam cũng chủ động xây dựng Bộ Chỉ số văn hóa quốc gia để đo lường, đánh
giá một cách đầy đủ, chính xác những đóng góp của lĩnh vực văn hóa đối với sự
phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
3. Một số kết quả đạt được
trong phát triển đa dạng văn hóa Việt Nam thời gian qua
Theo số
liệu của Cục Di sản văn hóa (Bộ VHTTvà DL), tính đến hết nay, cả nước đã kiểm
kê được hơn 40.000 di tích lịch sử - văn hóa và danh lam thắng cảnh; trong đó
có 8 di tích được UNESCO ghi vào Danh mục di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới,
3 công viên địa chất toàn cầu, 3 thành phố sáng tạo (trong Mạng lưới các thành
phố sáng tạo của UNESCO), ngoài ra còn hơn 10.000 di tích đã được xếp hạng (119
di tích quốc gia đặc biệt, 3.551 di tích quốc gia, 6.340 di tích cấp tỉnh); hơn
64.000 di sản văn hóa phi vật thể được ghi danh, trong đó có 396 di sản văn hóa
phi vật thể đã được ghi vào Danh mục Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia và 14
di sản văn hóa phi vật thể đã được UNESCO ghi danh vào Danh mục Di sản văn hóa
phi vật thể đại diện của nhân loại; 7 di sản tư liệu được Chương trình Ký ức thế
giới ghi danh (3 di sản tư liệu thế giới, 4 di sản tư liệu khu vực châu Á -
Thái Bình Dương)[1].
Bên cạnh đó, cả nước cũng có gần 8.000 lễ hội phản ánh sự đa dạng, phong phú về
sắc thái văn hóa của các vùng, miền, dân tộc trên cả nước. Những kết quả đạt được
trong công tác bảo tồn các giá trị di sản văn hóa thời gian qua một mặt góp phần
định hình, củng cố bản sắc văn hóa dân tộc, đồng thời trở thành nguồn vốn tài
nguyên nhân văn để khai thác, tạo nên giá trị kinh tế, nâng cao mức sống, thay
đổi sinh kế bền vững của người dân ở các địa phương sở hữu di sản. Các di sản
văn hóa thế giới như: Quần thể Danh thắng Tràng An, Khu phố cổ Hội An hay di sản
văn hóa phi vật thể như: Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên, Dân ca Quan
họ Bắc Ninh, Đàn ca tài tử Nam bộ, Xòe Thái… sau khi được UNESCO ghi danh đã trở
thành các “thương hiệu”, “điểm đến” hấp dẫn du khách, mang lại nguồn thu không
nhỏ. Đơn cử trường hợp Ninh Bình, trước khi Quần thể Danh thắng Tràng An được
UNESCO ghi danh trung bình mỗi năm du lịch Ninh Bình đón khoảng 1 triệu lượt
khách. Tuy nhiên, kể từ sau khi Tràng An được ghi danh Di sản văn hóa và thiên
nhiên của thế giới 2014, với lợi thế là vùng đất có tài nguyên, địa hình đa dạng,
phong phú và vô cùng hấp dẫn trên nền cảnh quan đặc sắc cùng bề dày lịch sử văn
hóa nhân loại cũng như lịch sử văn hóa dân tộc Việt Nam, Du lịch Ninh Bình đã
trở thành điểm sáng trên bản đồ du lịch Việt Nam, nằm trong nhóm 15 điểm đến
hàng đầu, 10 tỉnh có lượng khách đến cao nhất cả nước, được nhiều chuyên trang
du lịch có uy tín trong nước và quốc tế đánh giá và bình chọn là điểm đến du lịch
hấp dẫn, hiếu khách và được yêu thích nhất. Trong 10 năm qua, tính bình quân tốc
độ tăng trưởng khách du lịch giai đoạn 2014 – 2023 tăng 17,93%/1 năm, doanh thu
bình quân tăng 20,73%/1 năm [4,
tr.12]. Năm 2023, toàn tỉnh đã đón trên 6,5 triệu lượt khách,
doanh thu du lịch đạt trên 6.500 tỷ đồng. Trong đó, danh hiệu Di sản Văn hóa và
Thiên nhiên thế giới Tràng An không chỉ trở thành tiềm năng lớn trong việc cải
thiện sinh kế cộng đồng, góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế bền vững của địa
phương, đồng thời, đã trở thành thỏi nam châm thu hút đầu tư của nhiều doanh
nghiệp, nhất là các doanh nghiệp đầu tư lĩnh vực kinh doanh phát triển du lịch
với nguồn vốn lên tới hàng nghìn tỷ đồng. Thương hiệu du lịch Ninh Bình đã nhận
được rất nhiều giải thường có giá trị: trở thành 10 điểm đến thân thiện nhất thế
giới do Traveller Review Awards 2023 do Booking.com bình chọn, là một trong 23
địa điểm du lịch tuyệt vời nhất năm 2023 lọt danh sách 10 điểm đến thân thiện
nhất thế giới; Vườn Quốc gia Cúc Phương 5 năm liên tiếp được vinh danh "Vườn
Quốc gia hàng đầu châu Á". Bên cạnh những thành công trong 10 năm qua,
Ninh Bình tiếp tục hướng tới đưa du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn và lấy
di sản hỗn hợp Quần thể danh thắng Tràng An làm nền tảng, nguồn lực và động lực
phát triển, để trở thành trung tâm văn hóa - lịch sử, du lịch của quốc gia và
quốc tế.
Không chỉ
tạo nên giá trị bản sắc và đem lại nguồn thu trực tiếp, việc khai thác giá trị,
sự đa dạng của nguồn lực di sản văn hóa còn kéo theo sự phát triển của nhiều
lĩnh vực khác như hoàn thiện kết cấu hạ tầng, mở rộng các dịch vụ, tăng cường các
dòng chảy hàng hóa, lao động... Từ từ đó tạo ra sự phát triển bao trùm và hài
hòa. Trong bối cảnh ngày càng nhiều cá nhân, doanh nghiệp, cộng đồng sử dụng
tài nguyên văn hóa vào hoạt động kinh doanh, tạo ra nhiều lợi nhuận, những
không gian di sản văn hóa không chỉ trở thành sản phẩm hàng hóa – văn hóa tạo
ra sự tăng trưởng kinh tế, mà còn góp phần lan tỏa giá trị của di sản, tạo nên
sự phát triển xã hội hài hòa, nhân văn và có bản sắc.
Tuy nhiên, bối cảnh toàn cầu hóa và quá trình giao lưu,
tiếp biến văn hóa đang diễn ra mạnh mẽ, sâu sắc hiện nay cũng đặt vấn đề đa dạng
văn hóa ở Việt Nam trước nhiều thách thức, đặc biệt là làm xói mòn và phai nhạt
bản sắc văn hóa dân tộc. Trước thách thức như vậy, để thúc đẩy sự đa dạng trong
biểu đạt văn hóa hướng tới mục tiêu phát triển bền vững và thịnh vượng ở nước
ta hiện nay
4. Một số giải pháp bảo vệ
và phát triển đa dạng văn hóa đóng góp vào sự phát triển bền vững ở Việt Nam
Thứ nhất, tiếp tục
tuyên truyền, quán triệt, nâng cao nhận thức cho cộng đồng, xã hội và người dân
về ý nghĩa và sự cần thiết của đa dạng văn hóa, coi đây là yếu tố then chốt để
bảo vệ bản sắc văn hóa dân tộc, tộc người.
Thứ hai, phát
huy vai trò của các chủ thể, nhất là người dân trong hoạt động bảo tồn, gìn giữ,
phát huy những di sản văn hóa vô giá của dân tộc, đồng thời, không ngừng sáng tạo
để làm giàu thêm “vốn văn hóa” của dân tộc trong thời đại mới. Tạo sự dân chủ
trong hoạt động sáng tạo, quảng bá, tiêu dùng, hưởng thụ các sản phẩm văn hóa
có chất lượng; tTạo điều kiện, khuyến khích sự sáng tạo của đội ngũ văn nghệ sĩ
để có nhiều tác phẩm có giá trị tư tưởng và nghệ thuật.
Thứ ba, tiếp tục bổ sung, hoàn thiện chính sách phát triển văn
hóa, khơi thông và huy động nguồn lực văn hóa cho phát triển đất nước; có cơ chế,
chính sách phù hợp để thu hút và trọng dụng nhân tài trong phát triển văn hoá.
Quan tâm đầu tư và nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống thiết chế văn hóa.
Thứ tư, xử lý
hài hòa giữa bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa các dân tộc với phát triển
kinh tế, du lịch bền vững ở các địa phương, góp phần quảng bá hình ảnh đất nước
và con người Việt Nam. Chú trọng thực hiện các chương trình phục hồi, bảo tồn một
số loại hình nghệ thuật truyền thống có nguy cơ mai một; giữ gìn và phát huy di
sản văn hóa các dân tộc thiểu số, các giá trị văn hóa nhân văn trong tôn giáo,
tín ngưỡng; Xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, văn minh, hiện đại phù hợp với
nền kinh tế số, văn hóa số, xã hội số, công dân số.
Thứ năm, chú trọng
phát triển các ngành công nghiệp văn hóa, đặc biệt phát triển sản phẩm du lịch
mang bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam. Tăng cường bảo hộ quyền tác giả, phát
triển công nghiệp văn hóa đi đôi với xây dựng, hoàn thiện thị trường văn hóa. Đẩy
mạnh việc giới thiệu, quảng bá hình ảnh đất nước, con người Việt Nam đến với bạn
bè thế giới thông qua các phương tiện truyền thông mới và các hoạt động giao
lưu văn hóa.
Thứ sáu, mở rộng
và nâng cao hiệu quả công tác xã hội hóa các hoạt động bảo vệ và phát huy giá
trị di sản văn hóa; tTôn trọng, phát huy các loại hình văn hóa đa dạng của từng
cộng đồng dân tộc, địa phương.
Kết luận
Sự đa dạng
về môi trường sinh thái vùng miền, dân tộc là cơ sở để tạo nên sắc thái đa dạng
của văn hóa Việt Nam. Đây chính là nền tảng tạo nên sự đoàn kết, gắn bó cộng đồng,
định hình bản sắc văn hóa dân tộc, nhưng đồng thời cũng tạo nên tính phong phú
trong định hướng sáng tạo - động lực và cội nguồn thúc đẩy sự tăng trưởng kinh
tế và sự phong phú về đời sống tinh thần, tình cảm, trí tuệ, đạo đức, nhân văn
– tạo nên sự phát triển bền vững và thịnh vượng của Việt Nam hiện tại và tương
lai.
Tài
liệu tham khảo:
[1] Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Cục Di sản văn hóa.
[2] Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Nghị quyết hội nghị lần thứ 5, Ban Chấp hành Trung ương khóa
VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
[3] Nguyễn Phú
Trọng (2022), Một số vấn đề lý luận
về Chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên Chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.
[4] UBND tỉnh Ninh Bình (2024), Báo cáo tổng
kết 10 năm thực hiện Nghị quyết 33-NQ/TW ngày 09/06/2014 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) về “Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt
Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước”.