
75 năm Ngày
truyền thống Ban Đối ngoại Trung ương (1/11/1949 - 1/11/2024): Góp phần thúc đẩy
quan hệ quốc tế, nâng cao vị thế, uy tín của Việt Nam
Đặt vấn
đề
Trong bối cảnh toàn cầu hóa, đối ngoại có vị trí, vai trò
quan trọng trong việc đảm bảo an ninh, thúc đẩy phát triển và nâng cao vị thế đối
với mọi quốc gia - dân tộc. Tuy vậy, nếu như các nước lớn thường sử dụng đối
ngoại như một công cụ mở rộng ảnh hưởng, duy trì vị thế “lãnh đạo”, dẫn dắt ở
khu vực, toàn cầu, thì các nước vừa và nhỏ thường nhấn mạnh mục tiêu duy trì an
ninh và phát triển.
1. Vai trò của đối ngoại
trong việc bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa
Bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa là bảo vệ nền độc lập, chủ
quyền, toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ Đảng, Nhà nước
và Nhân dân trong thời bình, giữ nước từ khi nước chưa nguy; bảo vệ Tổ quốc một
cách chủ động. Bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa không phải là nhiệm vụ riêng của một
ngành, một lĩnh vực nào mà là nhiệm vụ chung của các cấp, các ngành, trong đó
có hoạt động đối ngoại, ngoại giao. Xét trên cả góc độ lý luận, thực tiễn lịch
sử đất nước và bối cảnh mới hiện nay thì đối ngoại có vị trí, vai trò lớn trong
việc bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa.
Ở góc độ lý luận, có thể thấy đối ngoại có vị trí, vai
trò đặc biệt trong việc thực hiện các mục tiêu của quốc gia nói chung, bảo vệ Tổ
quốc từ sớm, từ xa nói riêng. Từ đầu thế kỷ XX, V.I.Lênin đã cho rằng chính
sách đối ngoại là cánh tay nối dài của đối nội và không thể tách rời đối ngoại
với đối nội. Người khẳng định “Không có tư tưởng nào sai lầm hơn và có hại hơn
là tư tưởng tách rời chính sách đối ngoại khỏi chính sách đối nội”[4, tr.422]. Sau khi
giành được độc lập, Đảng ta đã xác định: “Sau vấn đề phòng thủ, ngoại giao là một
vấn đề cần yếu cho một nước độc lập”[2, tr.290]. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn
coi đối ngoại, ngoại giao (cùng với chính trị, quân sự) là một trong ba mặt trận
đấu tranh cơ bản để bảo vệ Tổ quốc. Phát biểu tại Hội nghị đối ngoại toàn quốc
ngày 14-12-2021, cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định: “bất kỳ quốc gia, dân
tộc nào trong quá trình hình thành và phát triển của mình đều phải xử lý hai vấn
đề cơ bản: đối nội và đối ngoại. Hai vấn đề này có mối quan hệ hữu
cơ, biện chứng, tác động qua lại, hỗ trợ lẫn nhau, tạo thế và lực cho nhau”[6, tr.20].
Lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam cho thấy,
ông cha ta rất coi trọng ngoại giao phòng ngừa để bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa.
Bên cạnh việc chủ động xây dựng lực
lượng quân đội, củng cố quốc phòng, an ninh, thì Việt Nam rất chú ý đến quan hệ
bang giao, hòa hiếu, hữu nghị với các nước láng giềng. Trong Binh thư yếu lược, Hưng Đạo Đại Vương Trần
Quốc Tuấn nhấn mạnh: “Hòa mục là đạo rất hay trong việc trị nước, hành
binh. Hòa ở trong nước thì ít phải dùng binh, hòa ở ngoài biên thì không sợ báo
động”[3, tr.47]. Nhà sử học Phan Huy Chú đã đúc kết: “Trong việc trị nước, hòa hiếu với
láng giềng là việc lớn”[1,
tr.533]. Thực tiễn lịch sử đối ngoại cho thấy các vương triều
phong kiến Việt Nam luôn coi trọng bang giao, giữ hòa khí với các nước láng giềng;
khiêm nhường với nước lớn phương Bắc, sẵn sàng nhận sắc phong, triều cống, bên
trong xưng đế, bên ngoài xưng vương; sau mỗi lần đánh thắng quân xâm lược,
vẫn chủ động hòa hiếu với kẻ thù để “dập tắt chiến tranh cho muôn đời”. Nhờ đó,
đất nước được hòa bình, ổn định, phát triển.
Hiện nay, cạnh tranh giữa các nước lớn diễn ra gay gắt,
tình hình chính trị, an ninh thế giới, khu vực diễn biến phức tạp, khó lường,
các vấn đề an ninh truyền thống có xu hướng trỗi dậy. Chiến tranh, xung đột tiếp
diễn (nổi bật là xung đột Nga - Ukraine ở châu Âu, Israel - Hamas ở Trung
Đông), chạy đua vũ trang ngày càng quyết liệt, nguy cơ chiến tranh hạt nhân
chưa bị đẩy lùi... Đồng thời, các vấn đề an ninh phi truyền thống nổi lên: biến
đổi khí hậu, tình trạng nước biển dâng, dịch bệnh có nguy cơ đe dọa sự tồn vong
của nhiều quốc gia - dân tộc, thậm chí cả nhân loại ở trước mắt cũng như lâu
dài (đại dịch COVID-19 gần đây là một ví dụ); vấn đề an ninh mạng đặt ra thách
thức đối với tất cả các quốc gia; các cuộc cách mạng sắc màu vẫn tiềm ẩn; các
cuộc đảo chính xảy ra ở nhiều nơi; chiến lược “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật
đổ vẫn hiện hữu... Thực tế cho thấy, không ít quốc gia đã rơi vào tình cảnh chiến
tranh, xung đột, bất ổn vì những hạn chế, sai lầm về đường lối, chiến lược đối
ngoại. Thực tiễn cho thấy, các thách thức bên ngoài và các thách thức của thời
đại gia tăng, đặt ra yêu cầu cần phát huy hơn nữa vai trò của đối ngoại trong
việc bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa, vai trò của đối ngoại trong
việc bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa được thể hiện trên nhiều khía cạnh. Một là, thông qua hợp tác, đối ngoại có
vai trò tạo lập và giữ vững môi trường hòa bình, ổn định ở khu vực, duy trì môi
trường an ninh bên ngoài cho đất nước. Hai
là, đối ngoại có vai trò huy động các nguồn lực bên ngoài để thực hiện
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển đất nước, củng cố sức mạnh quốc gia. Ba là, đối ngoại có vai trò giải quyết hiệu
quả các thách thức an ninh truyền thống và an ninh phi truyền thống. Bốn là, thông qua đấu tranh, đối ngoại góp
phần bảo vệ lợi ích chính đáng của quốc gia - dân tộc. Năm là, đối ngoại cho phép nâng cao vị thế
quốc gia trên trường quốc tế. Tầm quan trọng đó vừa tạo ra cơ sở vừa đặt ra yêu
cầu phát huy vai trò của đối ngoại trong việc bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ
xa.
2. Một số giải pháp phát huy
vai trò của đối ngoại trong bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa
Một là, giữ vững đường lối đối ngoại độc
lập, tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa, hội nhập quốc tế.
Hiện nay, cạnh tranh giữa các nước lớn, đặc biệt là cạnh
tranh Mỹ - Trung Quốc diễn ra quyết liệt, toàn diện, trên phạm vi toàn cầu; hai
bên đẩy mạnh tập hợp lực lượng thông qua các chiến lược lớn, sáng kiến lớn có
tính đối đầu nhau. Sự cạnh tranh đó đẩy các nước vừa và nhỏ vào tình thế phải
chọn bên. Việt Nam là quốc gia tầm trung nằm ở trung tâm khu vực Ấn Độ Dương -
Thái Bình Dương, có vị trí địa chiến lược quan trọng nên được nhiều nước lớn
chú ý, lôi kéo. Vì vậy, Việt Nam cần tiếp tục giữ vững đường lối đối ngoại độc
lập, tự chủ.
Độc lập, tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa và hội nhập
quốc tế không chỉ là nội dung của đường lối đối ngoại mà còn là một giải pháp để
bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, giúp Việt Nam giữ vững quyền tự quyết, không bị lệ
thuộc vào bên ngoài. Độc lập, tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa và hội nhập quốc
tế có mối quan hệ biện chứng với nhau, hỗ trợ và thúc đẩy lẫn nhau. Đa dạng
hóa, đa phương hóa quan hệ đối ngoại, hội nhập sâu rộng với khu vực, thế giới sẽ
giúp Việt Nam không phụ thuộc vào bất kỳ một thị trường, một đối tác nào, qua
đó tính độc lập, tự chủ được củng cố.
Hai là, đưa mối quan hệ song phương vào
chiều sâu và phát triển ổn định.
Đối với các quốc gia láng giềng, nhất là các nước có
chung đường biên giới (trên bộ, trên biển), cần tăng cường hợp tác toàn diện tất
cả các lĩnh vực; quản lý tốt mối quan hệ, không để căng thẳng, mâu thuẫn, tranh
chấp leo thang; chủ động giải quyết các vấn đề phát sinh; chú trọng xây dựng
các vùng biên giới hòa bình, ổn định, hợp tác, làm nền tảng cho quan hệ song
phương, qua đó tạo ra vành đai an ninh bên ngoài cho quốc gia. Đồng thời, cần
tăng cường kết nối hạ tầng giao thông, đường sắt, đường bộ để tạo thế đan xen lợi
ích vững chắc giữa Việt Nam với các nước láng giềng.
Đối với các nước lớn, cần xử lý khéo léo, hài hòa, tinh tế,
thận trọng, không chọn bên mà chọn chính nghĩa, công lý và lẽ phải. Tuyệt đối
tránh đối đầu với bất kỳ quốc gia nào. Mặt khác, với vị thế của một quốc gia
đang lớn mạnh, được xếp vào nhóm các nước tầm trung, Việt Nam cần đẩy mạnh quan
hệ hợp tác với các quốc gia tầm trung có cùng lợi ích, giá trị và chí hướng để
tạo lập cục diện mới có lợi cho hòa bình, đồng thời để phân tán rủi ro, giảm
thiểu sự phụ thuộc vào các nước lớn. Bên cạnh đó, với vị trí là một quốc gia
ven biển, chịu tác động lớn và trực tiếp do biến đổi khí hậu, tình trạng nước
biển dâng, nhất là vùng Đồng bằng sông Cửu Long rộng lớn của đất nước. Vì vậy,
Việt Nam cần đẩy mạnh hợp tác với các nước có năng lực và giàu kinh nghiệm xử
lý, ứng phó với vấn đề này.
Ba là, phát huy vai trò của ngoại giao
đa phương.
Ngoại giao đa phương là một hình thức ngoại giao ngày
càng được các nước quan tâm để giải quyết những thách thức của quốc gia, khu vực
cũng như toàn cầu. Ngoại giao đa phương được diễn ra công khai, dân chủ, các nước
vừa và nhỏ có cơ hội đưa ra tiếng nói của mình, do đó hạn chế sự áp đặt của các
nước lớn. Hơn nữa, thông qua ngoại giao đa phương, các nước vừa và nhỏ có cơ hội
góp phần vào việc định hình “luật chơi” chung, qua đó góp phần hóa giải các
thách thức an ninh và tìm kiếm cơ hội hợp tác mới.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa, ngoại giao đa phương ngày
càng sôi động, có vị trí, vai trò quan trọng đối với các quốc gia. Để ngoại
giao đa phương phát huy vai trò bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, Việt Nam cần đề
cao giá trị của luật pháp quốc tế, chủ động phát huy trí tuệ, sáng kiến để tạo
dựng luật chơi công bằng, bình đẳng. Mặt khác, cần chủ động đưa các thách thức
an ninh mà Việt Nam phải đối mặt ra các diễn đàn đa phương quốc tế nhằm tìm
cách giải quyết, đồng thời để tranh thủ sự ủng hộ của dư luận, bạn bè quốc tế.
Bốn là, xây dựng nền ngoại giao toàn diện,
hiện đại, vững mạnh.
Tiếp tục đẩy mạnh xây dựng nền ngoại giao toàn diện ở hai khía cạnh cơ bản là toàn
diện về chủ thể đối ngoại và toàn diện các lĩnh vực. Ở khía cạnh chủ thể, tiếp
tục kết hợp chặt chẽ giữa đối ngoại Đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân
dân từ trung ương đến các địa phương. Ở
khía cạnh các lĩnh vực, trên cơ sở nền tảng quan hệ ngoại giao rộng mở, tốt đẹp,
cần đẩy mạnh ngoại giao kinh tế, ngoại giao văn hóa, đối ngoại quốc phòng - an
ninh để phát huy vai trò, thế mạnh của từng lĩnh vực cũng như sức mạnh cộng hưởng
và sức mạnh tổng hợp của các lĩnh vực. Trong bối cảnh an ninh thế giới diễn biến
phức tạp, Việt Nam cần đẩy mạnh hợp tác an ninh với các quốc gia để giải quyết
những thách thức an ninh truyền thống cũng như an ninh phi truyền thống.
Trong thời đại khoa học - công nghệ phát triển hiện nay,
cần quan tâm xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác đối ngoại các cấp có
phẩm chất đạo đức tốt, năng lực chuyên môn, nghiệp vụ cao, ngoại ngữ tốt vì
“Cán bộ là cái gốc của mọi công việc”[5, tr.309] và “Muôn việc thành công hoặc
thất bại, đều do cán bộ tốt hoặc kém”[5, tr.280].
Để phát huy hơn nữa vai trò của đối ngoại, Việt Nam cần có kế hoạch
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ đủ năng lực để làm việc tại các tổ chức quốc tế, các
cơ quan trọng tài, tư vấn quốc tế để trực tiếp thực hiện nhiệm vụ tư vấn và đấu
tranh bảo vệ lợi ích của quốc gia - dân tộc.
Năm là, nâng cao hiệu quả công tác
thông tin đối ngoại.
Để làm tốt
công tác thông tin đối ngoại cần tăng cường công tác phối hợp giữa các cơ quan,
tổ chức trong hệ thống chính trị, các cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài và
các cơ quan báo chí trong thực hiện nhiệm vụ thông tin; xây dựng kênh phát
thanh, truyền hình đối ngoại quốc gia bằng tiếng nước ngoài ngang tầm khu vực
và thế giới; đổi mới công tác thông tin đối ngoại theo hướng chuyên nghiệp, hiện
đại, hiệu quả; quan tâm xây dựng lực lượng phản ứng nhanh trên không gian mạng
và truyền thông quốc tế; cần lan toả mạnh mẽ đến cộng đồng quốc tế những truyền
thống tốt đẹp của dân tộc, thành tựu của công cuộc đổi mới, tính ưu việt của chế
độ, đường lối, chủ trương và chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước, đồng thời,
đẩy mạnh đấu tranh phản bác thông tin sai trái, tiêu cực phương hại đến lợi ích
quốc gia - dân tộc.
Sáu là, làm tốt công tác dự báo, tham
mưu chiến lược.
Tình
hình thế giới diễn biến nhanh chóng, phức tạp, khó lường, đòi hỏi việc phân
tích dự báo cũng phải kịp thời, tương ứng, nhất là những vấn đề mang tính chiến
lược. Muốn
dự báo chuẩn xác, kịp thời, cần làm tốt công tác nghiên cứu, đánh giá, dự báo
chiều hướng vận động của cục diện thế giới, nhất là những biến chuyển sau những
biến cố, sự kiện lớn; nắm bắt chiến lược, sự điều chỉnh chính sách đối ngoại của
các nước lớn, các nước láng giềng để có đối sách kịp thời, phù hợp, hiệu quả.
Các cơ quan tham mưu cần phối hợp chặt chẽ để đánh giá một cách toàn diện,
khách quan, nhiều chiều, nhất là trong những vấn đề đối ngoại hệ trọng. Trên cơ
sở nghiên cứu, dự báo, chủ động đưa ra đối sách kịp thời, phù hợp hiệu quả, góp
phần bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa.
Việc nắm
bắt, dự báo chiến lược tình hình thế giới không hề đơn giản, đòi hỏi các nhà
phân tích, dự báo phải có tầm nhìn sâu rộng, năng lực suy luận lôgíc và có sự
nhạy cảm, nhạy bén trước các vấn đề đương đại. Do vậy, việc đào tạo, lựa chọn
và sử dụng hiệu quả đội ngũ chuyên gia về quan hệ quốc tế là việc làm rất cần
thiết, giúp Đảng và Nhà nước nâng cao năng lực dự báo của mình. Đây là quá
trình lâu dài, cần có nhiều khâu, nhiều bước sàng lọc, thử thách để lựa chọn được
đội ngũ chuyên gia đáp ứng tốt nhu cầu, nhiệm vụ công tác đối ngoại đặt ra hiện
nay.
Bảy là, chủ động, linh hoạt trong đối ngoại.
Hiện nay, chủ động, linh hoạt trong đối ngoại có ý nghĩa
quan trọng đối với việc bảo vệ Tổ quốc cả ở trước mắt và lâu dài, đây cũng là một
giải pháp để bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa. Việt Nam cần chủ động, linh hoạt
trong đối ngoại trên cơ sở giữ vững nguyên tắc độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội; linh hoạt điều chỉnh tùy theo từng vấn đề, từng thời điểm và tùy theo đối
tượng hay đối tác. Để chủ động, linh hoạt trong đối ngoại cần theo dõi sát diễn
biến tình hình khu vực và thế giới; nâng cao tinh thần cảnh giác trước âm mưu,
thủ đoạn của các thế lực thù địch, không để đất nước bị động, bất ngờ về chiến
lược; khắc phục những biểu hiện chủ quan, mất cảnh giác, nặng về lợi ích kinh tế
đơn thuần, trước mắt; biết mình, biết người, biết thời, biết thế; biết tiến, biết
thoái, tùy cơ ứng biến theo phương châm “dĩ bất biến, ứng vạn biến”, từ đó có
các đối sách phù hợp, hiệu quả.
Kết luận
Đối ngoại
có vị trí, vai trò quan trọng trong việc bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa. Điều đó
đã được khẳng định rất rõ trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt
Nam. Trong bối cảnh hiện nay, để phát huy vai trò của đối ngoại trong việc bảo
vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, Việt Nam cần luôn luôn kiên định đường lối đối ngoại
độc lập, tự chủ, hòa hình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; đa dạng hóa, đa
phương hóa; chủ động, tích cực hội nhập quốc tế; làm sâu sắc hơn các quan hệ
song phương, phát huy vai trò của ngoại giao đa phương; xây dựng nền ngoại giao
toàn diện, hiện đại, vững mạnh; làm tốt công tác nghiên cứu, dự báo chiến lược
và chủ động, linh hoạt theo phương châm “dĩ bất biến, ứng vạn biến”. Các giải
pháp trên sẽ phát huy những thành tựu đối ngoại đã đạt được, khắc phục hạn chế
còn tồn tại, phát huy vai trò của đối ngoại trong bối cảnh mới. Bản chất của
các giải pháp đó là sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
về đối ngoại, ngoại giao, truyền thống và kinh nghiệm đối ngoại của dân tộc, thực
hiện đường lối đối ngoại, ngoại giao toàn diện, hiện đại, mang đậm bản sắc ngoại giao “cây tre Việt Nam”.
Tài
liệu tham khảo:
[1] Phan
Huy Chú (2007), Lịch triều Hiến chương
loại chí, tập 2 Nxb.
Giáo dục, Hà Nôi,
[2] Đảng Cộng sản Việt Nam (2000), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 8 Nxb. Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
[3] Trần
Hưng Đạo (2002), Binh thư yếu lược,
Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội.
[4] V.I.Lênin (2005), Toàn tập,
tậph 32 Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nôi,.
[5] Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập,
tập 5 Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
[6] Nguyễn Phú Trọng (2023), Xây dựng và phát triển nền đối ngoại, ngoại giao Việt
Nam toàn diện, hiện đại, mang đậm bản sắc “cây tre Việt Nam”, Nxb.
Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.