Thứ Ba, ngày 15/04/2025, 10:58

Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và phát triển văn hóa

Trần Thị Thủy - Nguyễn Thị Quyết
Trường Đại học Thủ Dầu Một. - Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh.

(GDLL) Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và phát triển văn hoá là những định hướng lớn trong chiến lược phát triển kinh tế, phát triển văn hoá hướng đến sự phát triển ổn định, bền vững của đất nước. Bài viết làm rõ những quan điểm của Đảng trong thời kỳ Đổi mới về mối quan hệ này, từ đó đánh giá tình hình thực hiện quan điểm của Đảng trong thực tiễn. Trên cơ sở đó, bài viết đề xuất một số biện pháp cơ bản giải quyết mối quan hệ này, góp phần đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam.

 

Văn hóa soi đường: Hội thảo văn hóa "Chính sách và nguồn lực cho phát triển thiết chế văn hóa, thể thao" (nguồn news.vnanet.vn)

 

Đặt vấn đề

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung và phát triển năm 2011) đã chỉ ra các phương hướng cơ bản để thực hiện mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ ở nước ta là phải đặc biệt chú trọng nắm vững và giải quyết tốt các mối quan hệ lớn: giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hoá, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Từ đó Đảng ta khẳng định: “Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực phát triền bền vững đất nước. Văn hoá phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội”[5; tr.48]. Do vậy, giải quyết mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và phát triển văn hoá có ý nghĩa rất quan trọng bảo đảm sự phát triển ổn định, bền vững của đất nước, góp phần xây dựng những con người mới xã hội chủ nghĩa, có tư tưởng xã hội chủ nghĩa, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

1. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Namvề mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và phát triển văn hoá

Kinh tế và văn hoá là hai lĩnh vực rất cơ bản của xã hội, phản ánh mối quan hệ tương tác giữa con người với hoạt động lao động sản xuất ra của cải vật chất để phục vụ nhu cầu đời sống con người, đến lượt mình văn hoá lại góp phần thoả mãn, nâng cao đời sống văn hoá tinh thần con người. Ngay trong văn kiện Đại hội VIII của Đảng đã chỉ rõ: “Tăng trưởng kinh tế gắn với cải thiện đời sống nhân dân, phát triển văn hoá, giáo dục, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường”[1, tr.85]. Như vậy, ngay từ rất sớm Đảng ta đã sớm nhận ra mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và văn hoá được tiến hành song song, đồng thời với nhau. Văn hoá là lĩnh vực thuộc kiến trúc thượng tầng được củng cố, xây dựng, phát triển trên cơ sở hạ tầng của xã hội. Cơ sở hạ tầng phát triển góp phần thúc đẩy văn hoá thâm nhập ngày càng tích cực vào trong đời sống con người. Như lời Chủ tịch Hồ Chí Minh từng chỉ dạy: “Muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội thì phải phát triển kinh tế và văn hoá. Vì sao không nói phát triển văn hoá và kinh tế? Tục ngữ ta có câu: có thực mới vực được đạo; vì thế kinh tế phải đi trước”[9, tr.470].

Trong quá trình dựng xây, kiến thiết đất nước, Đảng đã kế thừa, vận dụng linh hoạt, sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển kinh tế và văn hoá, bổ sung, phát triển phù hợp với đặc điểm tình hình, yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng đặt ra ở mỗi giai đoạn, thời điểm khác nhau. Tăng trưởng kinh tế không phải là mục tiêu duy nhất, cuối cùng, mà phát triển kinh tế gắn liền với xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, thực hiện tốt nhất chính sách xã hội cho các đối tượng, tầng lớp nhân dân. Tới Đại hội IX (Tháng 4/2001) của Đảng khẳng định: “Thực hiện các chính sách xã hội hướng vào phát triển và lành mạnh hoá xã hội, thực hiện công bằng trong phân phối, tạo động lực mạnh mẽ phát triển sản xuất, tăng năng xuất lao động xã hội, thực hiện bình đẳng trong các quan hệ xã hội, khuyến khích nhân dân làm giàu hợp pháp”[2; tr.104]. Đại hội X, (Tháng 4/2006) của Đảng đã làm sâu sắc hơn mối quan hệ tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hoá, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, xem đây là một trong những nội dung, biện pháp quan trọng để phát triển đất nước bền vững theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đại hội X của Đảng nhấn mạnh: “Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển; tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hoá, y tế, giáo dục... giải quyết tốt các vấn đề xã hội vì mục tiêu phát triển con người”[3, tr.77]. Một trong những kinh nghiệm được Đại hội lần thứ XI của Đảng chỉ ra trong thực tiễn lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ X của Đảng là: “phải coi trọng kết hợp chặt chẽ giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; bảo đảm an ninh xã hội, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; gắn phát triển kinh tế với phát triển văn hoá”[4, tr.104]. Nghị quyết số 33-NQ/TW của Đảng cũng chỉ rõ: “Gắn các hoạt động văn hoá với phát triển kinh tế - xã hội”[8].

Đại hội XII (Tháng 1/2016) của Đảng tiếp tục khẳng định: “bảo đảm sự hài hoà giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hoá, với phát triển con người, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, đảm bảo an sinh xã hội, bảo vệ môi trường, phát triển xã hội bền vững”[6, tr.104]. Đại hội XIII (Tháng 1/2021) của Đảng tiếp tục khẳng định: “Phát triển toàn diện, đồng bộ các lĩnh vực văn hoá, môi trường văn hoá, đời sống văn hoá phong phú, đa dạng, văn minh, lành mạnh... để văn hoá thực sự là nền tảng tinh thần, nguồn lực nội sinh và động lực đột phá cho phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế”[7, tr.47].

Từ những quan điểm, đường lối của Đảng về phát triển kinh tế và phát triển văn hoá có thể rút ra một số nhận xét cơ bản sau: Một là, trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng luôn quan tâm, chú trọng đến việc giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế, phát triển văn hoá và thực hiện tiến bộ công bằng xã hội phù hợp với đặc điểm tình hình, yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra ở mỗi giai đoạn, thời điểm khác nhau. Hai là, cơ sở lý luận, thực tiễn giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hoá chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh hướng đến mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Ba là, giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hoá là quá trình thường xuyên, liên tục, lâu dài, được tiến hành ngay trong từng bước đi, từng chính sách cụ thể, thiết thực ở tầm vĩ mô và vi mô; mang tính ổn định, bền vững, bảo đảm rút ngắn khoảng cách chênh lệch giàu - nghèo, mọi người đều được tiếp cận, hưởng thụ các dịch vụ xã hội tốt nhất, có điều kiện phát triển toàn diện về đức - trí - thể - mỹ. Bốn là, gắn nhiệm vụ phát triển văn hoá với nhiệm vụ phát triển kinh tế và công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc.

2. Kết quả thực hiện quan điểm của Đảng về mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và phát triển văn hóa thời gian qua

Ưu điểm đã đạt được: trong những năm qua, Đảng đã giải quyết đúng đắn, phù hợp, hiệu quả mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và phát triển văn hoá, được cán bộ, đảng viên, quần chúng nhân dân đồng tình, ủng hộ, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ phát triển ổn định, bền vững của đất nước trong thời kỳ mới. Đảng đã đề ra chủ trương, chính sách, pháp luật của Nhà nước về phát triển văn hoá, xây dựng con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trên cơ sở thực hiện các chương trình, mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới, xây dựng đời sống văn hoá trong Nhân dân gắn với phát triển văn hoá, bảo đảm giữ gìn và phát huy giá trị văn hoá tốt đẹp của dân tộc từ đó khơi dậy tiềm năng, thế mạnh của mỗi cơ quan, đơn vị, địa phương trong thực hiện nhiệm vụ chính trị trung tâm là phát triển kinh tế, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho Nhân dân. Đảng, Nhà nước ta đã ban hành nhiều Nghị quyết về phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa như: Nghị quyết số 11-NQ/TW ngày 3-6-2017 Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XII về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; Nghị quyết số 20-NQ/TW ngày 16-6-2022 Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XIII về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể trong giai đoạn mới. Vì vậy, những năm gần đây tốc độ tăng trưởng kinh tế của nước ta khá cao, trên 7% năm 2024; đời sống của Nhân dân ngày càng được nâng cao, tỷ lệ hộ nghèo, khoảng cách chênh lệch giàu, nghèo giữa các vùng, miền ngày càng thu hẹp; chỉ số hạnh phúc tăng 11 bậc từ vị trí 65 (năm 2023) lên vị trí 54 với tổng điểm trung bình là 6,043... Cùng với đó, văn hoá cũng có bước phát triển đáng kể, toàn diện đạt được nhiều thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử: đời sống văn hoá tinh thần của Nhân dân được nâng lên rõ rệt, các sản phẩm văn hoá đa dạng, phong phú đáp ứng nhu cầu thị hiếu thẩm mỹ và hưởng thụ của Nhân dân; các giá trị văn hoá truyền thống tốt đẹp của dân tộc được giữ gìn và phát huy trong điều kiện lịch sử mới; văn hoá trong kinh tế, chính trị được coi trọng và có sức lan toả sâu rộng trong toàn xã hội; các hiện tượng vô văn hoá, phản văn hoá được đấu tranh mạnh mẽ, quyết liệt. Đồng chí cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định: “dưới sự lãnh đạo của Đảng... chúng ta có quyền tự hào về những đóng góp to lớn của nền văn hoá vào sự nghiệp cứu quốc và kiến quốc”[11, tr.39].

Tồn tại, hạn chế và vấn đề đặt ra: bên cạnh kết quả đạt được, việc gắn kết giữa phát triển kinh tế và phát triển văn hoá còn một số hạn chế: nhận thức, trách nhiệm của một số cấp uỷ, tổ chức đảng và người đứng đầu cơ quan, đơn vị, địa phương trong quán triệt, tuyên truyền, phổ biến quan điểm, đường lối của Đảng về tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hoá chưa sâu sắc, toàn diện, đầy đủ[12]; có thời điểm, giai đoạn còn chú trọng đến tăng trưởng kinh tế, chạy theo lợi ích chưa quan tâm đúng mức đến phát triển văn hoá; có địa phương đẩy mạnh thực hiện các công trình, dự án phát triển kinh tế, cho phép tư nhân mở rộng nhiều nhà máy, xí nghiệp trong khi đó không quan tâm đến bảo vệ môi trường, giữ gìn giá trị văn hoá truyền thống tốt đẹp của địa phương; kinh tế phát triển nhưng một số giá trị văn hoá bị đảo lộn, tệ nạn xã hội xuất hiện, con người sống không có tình, có nghĩa; làm giàu bất hợp pháp, không tuân thủ pháp luật; suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống. Đồng chí cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đánh giá: “văn hoá chưa được các cấp, các ngành nhận thức một cách sâu sắc và chưa được quan tâm một cách đầy đủ tương xứng với kinh tế và chính trị; chưa thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, động lực của sự phát triển bền vững đất nước”[11, tr.40].

3. Một số giải pháp giải quyết mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và phát triển văn hoá trong kỷ nguyên mới

Để bước vào kỷ nguyên mới của dân tộc với mục tiêu giải quyết hài hòa, biện chứng mối quan hệ giữa phát triển kinh tế, văn hóa cần thực hiện tốt một số nhiệm vụ sau:

Một là, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các chủ thể, lực lượng về mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và phát triển văn hoá.

Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện các nhiệm vụ, chương trình phát triển kinh tế, phát triển văn hoá của cấp uỷ, chính quyền địa phương, phục vụ hữu ích vào việc nâng cao chất lượng cuộc sống của Nhân dân. Các hoạt động kinh tế, phát triển văn hoá ở cơ quan, đơn vị, địa phương phải hướng đến giữ vững ổn định chính trị, bảo đảm bền vững không gây ô nhiễm môi trường, gắn kết với nhau để giải quyết và thực hiện tốt các chính sách an sinh xã hội. Đa dạng hoá nội dung, hình thức, biện pháp phát triển kinh tế và phát triển văn hoá: khuyến khích làm giàu theo đúng pháp luật; điều chỉnh, bổ sung cơ chế, chính sách, xây dựng hành lang pháp lý thông thoáng để người dân, doanh nghiệp tham gia thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia của Đảng, Nhà nước; đẩy mạnh ký kết, hợp tác với các doanh nghiệp, tập đoàn kinh tế lớn của Nhà nước để giải quyết việc làm cho người lao động, xây dựng công trình phúc lợi xã hội, phục vụ cho nhu cầu ngày càng cao của người dân. Xây dựng lòng tin trong người dân và doanh nghiệp về phát triển kinh tế và phát triển văn hoá, những quan điểm, đường lối của Đảng, Nhà nước về phát triển kinh tế và phát triển văn hoá hướng đến Nhân dân là trọng tâm, chủ yếu, đặt con người vào vị trí trung tâm của sự phát triển. Do đó, cần phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, sự chung sức, đồng lòng của mọi người dân cùng tham gia vào phát triển kinh tế và phát triển văn hoá theo đúng quan điểm, đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước.

Hai là, tiếp tục hoàn thiện pháp luật về phát triển kinh tế và phát triển văn hoá đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong từng thời điểm, giai đoạn đặt ra.

Đảng ta đã chỉ rõ: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy, xây dựng, hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển bền vững về kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, môi trường... tháo gỡ kịp thời những khó khăn, vướng mắc; khơi dậy mọi tiềm năng và nguồn lực, tạo động lực mới cho sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước”[7, tr.114]. Theo đó, các cơ quan, chức năng, ban, ngành có thẩm quyền từ Trung ương đến địa phương đẩy mạnh việc rà soát các văn bản đã ban hành về phát triển kinh tế và phát triển văn hoá nếu còn phù hợp cần điều chỉnh, bổ sung; không phù hợp thay thế bằng văn bản mới. Phát huy vai trò, trách nhiệm, tính tiền phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên, đặc biệt là người đứng đầu cơ quan, đơn vị, địa phương trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao; giải quyết công việc hàng ngày cho người dân và doanh nghiệp, thực hiện chế độ, tiêu chuẩn cho cán bộ, đảng viên, công chức trong hệ thống chính trị. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của uỷ ban kiểm tra các cấp đối với những bộ phận, lực lượng có thẩm quyền, chức năng, nhiệm vụ ban hành cơ chế, chính sách về phát triển kinh tế và phát triển văn hoá. Thường xuyên nghiên cứu, khảo sát thực tiễn việc thực hiện cơ chế, chính sách về phát triển kinh tế và phát triển văn hoá đạt được những thành tựu, hạn chế gì, đâu là điểm nghẽn, nút thắt cản trở, khó khăn, vướng mắc trong thực hiện chương trình, dự án, kế hoạch phát triển kinh tế, phát triển văn hoá tập trung tháo gỡ, khơi dậy tinh thần đổi mới sáng tạo, tinh thần tự chủ, tự tin, tự lực, tự cường, tự hào dân tộc của mỗi người.

Ba là, tăng cường quản lý Nhà nước về phát triển kinh tế và phát triển văn hoá, bảo đảm đúng đường hướng chính trị, thuần phong mỹ tục của dân tộc.

Trên cơ sở pháp luật của Nhà nước, cấp uỷ, chính quyền địa phương các cấp cần tăng cường quản lý, giám sát các hoạt động phát triển kinh tế của người dân, doanh nghiệp; các hoạt động văn hoá như: quảng bá, ký kết, tổ chức ngày hội văn hoá đúng với quan điểm, đường lối của Đảng, thuần phong mỹ tục của dân tộc, không được trái với bản chất, truyền thống tốt đẹp của con người Việt Nam. Các cá nhân và tổ chức kinh doanh cần phối hợp với cấp uỷ, chính quyền địa phương cùng tham gia vào việc chăm lo đời sống vật chất, tinh thần cho các đối tượng chính sách, bảo đảm không ai bị bỏ lại phía sau. Quản lý tốt mọi hoạt động phát triển kinh tế, phát triển văn hoá trên địa bàn, kịp thời xử lý các tình huống phát sinh, bảo đảm sự phát triển ổn định, bền vững, các hoạt động giao lưu thông thương của người dân, doanh nghiệp.

Kết luận

Nhận thức và giải quyết tốt mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và phát triển văn hoá là cơ sở, tiền đề để Đảng, Nhà nước hoạch định đường lối phát triển đất nước phù hợp, hiệu quả, khơi dậy ý chí, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc của các tầng lớp Nhân dân đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới. Trong quá trình tổ chức thực hiện các quan điểm, đường lối phát triển kinh tế, phát triển văn hoá của Đảng, Nhà nước cần phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị, của khối đại đoàn kết toàn dân tộc để mỗi người đều thấy trách nhiệm của mình trong đó, hành động mạnh mẽ, quyết liệt trong từng việc làm tạo ra của cải, vật chất nâng cao đời sống của Nhân dân, đưa đất nước vững bước vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.

 

Tài liệu tham khảo:

[1] Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

[2] Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.

[3] Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.

[4] Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội.

[5] Đảng Cộng sản Việt Nam (2014), Văn kiện Hội nghị lần thứ 9 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XI, Văn phòng Trung ương Đảng.

[6] Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

[7] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.

[8] Nghị quyết số 33-NQ/TW, ngày 9-6-2014 Hội nghị lần thứ 9 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XI, Về xây dựng, phát triển văn hoá, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước.

[9] Hồ Chí Minh (2011) Toàn tập, tập 12, Nxb. Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội.

[10] Tô Lâm (2024), Một số nội dung cơ bản về kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc; những định hướng chiến lược đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, Tạp chí Cộng sản điện tử, ngày 1-11-2024.

[11] Nguyễn Phú Trọng (2024), Xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.

[12] Pv/vov.vn (2022), Yếu kém trong xây dựng văn hóa, con người đã được Đảng chỉ rõ từ lâu, http://www.vov.vn

Đọc thêm

Việt Nam tích cực, chủ động hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng góp phần bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa trong tình hình mới

Tác giả: NGUYỄN ĐỨC HẠNH

(GDLL) - Hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng là một xu thế tất yếu, hàm chứa cả cơ hội và thách thức đối với các quốc gia trên con đường phát triển. Trong những năm qua, Việt Nam luôn tích cực, chủ động hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng góp phần quan trọng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa từ sớm, từ xa. Trên cơ sở khái quát bối cảnh tình hình tác động và những kết quả nổi bật trong tích cực, chủ động hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng những năm qua bài viết đề xuất một số giải pháp nhằm thực hiện có hiệu quả việc tích cực, chủ động hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng của Việt Nam trong tình hình mới.

Bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc trong đường lối đối ngoại thời kỳ đổi mới của Việt Nam

Tác giả: NGUYỄN ANH CƯỜNG - HOÀNG ANH TÚ - TRIỆU THANH CHÚC

(GDLL) - Trên cơ sở nghiên cứu lý luận về lợi ích quốc gia - dân tộc, bài viết phân tích sự kiên định về lợi ích quốc gia - dân tộc trong đường lối đối ngoại thời kỳ đổi mới của Việt Nam và khẳng định việc bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc trong chính sách đối ngoại của Việt Nam là hoàn toàn đúng đắn.

Phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số ở Việt Nam hiện nay: Thực trạng và khuyến nghị

Tác giả: PHẠM TÚ TÀI - CHU THỊ LÊ ANH

(GDLL) - Phát triển mạnh khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số được Đảng xác định là động lực chính của tăng trưởng kinh tế trong giai đoạn hiện nay. Bài viết phân tích cơ sở lý luận và thực tiễn về tăng trưởng kinh tế dựa vào khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số làm cơ sở khẳng định đây là động lực mới, quan trọng cho tăng trưởng kinh tế và phát triển bền vững. Đồng thời, bài viết cũng tập trung đánh giá thực trạng, đề xuất một số kiến nghị, giải pháp thúc đẩy phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số ở Việt Nam trong thời gian tới.

Quan điểm chỉ đạo của Đảng về xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong Nghị quyết 27-NQ/TW

Tác giả: TRẦN THỊ THANH MAI

(GDLL) - Sự ra đời của Nghị quyết số 27- NQ/TW Hội nghị Trung ương 6 khóa XIII ngày 09/11/2022 Về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Bài viết tập trung làm rõ một số quan điểm chỉ đạo của Đảng về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, qua đó thấy được giá trị lý luận và thực tiễn của Nghị quyết.

Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về bảo vệ an ninh quốc gia trong thời kỳ mới

Tác giả: NGUYỄN VĂN NGHĨA

(GDLL) - An ninh quốc gia và bảo vệ an ninh quốc gia là vấn đề hệ trọng của mỗi quốc gia, dân tộc. Hiện nay, Việt Nam đang phải đối diện với nhiều thách thức trong lĩnh vực an ninh quốc gia, trong đó có cả những vấn đề an ninh truyền thống và an ninh phi truyền thống. Công tác bảo vệ an ninh quốc gia là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên, được Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm lãnh đạo, nhất là trong thời kỳ đổi mới hiện nay. Bài viết khái quát quan điểm của Đảng về bảo vệ an ninh quốc gia, thực tiễn về bảo vệ an ninh quốc gia và đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm thực hiện tốt nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia trong thời kỳ mới.