Thứ Ba, ngày 15/04/2025, 10:58

Một số giải pháp tăng cường củng cố, xây dựng tổ chức cơ sở Đảng ở Việt Nam hiện nay

Đỗ Thị Thu Hà - Tạ Quốc Hưng
Học viện Chính trị khu vực I - Học viện Chính trị - Bộ Quốc phòng.

(GDLL) Tăng cường củng cố, xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong giai đoạn mới là nhiệm vụ quan trọng, yêu cầu cấp bách của công tác xây dựng Đảng. Bài viết tập trung khái quát các quan điểm của Đảng và đánh giá kết quả của công tác tăng cường củng cố, xây dựng tổ chức cơ sở đảng, từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của công tác trong tình hình mới hiện nay.

Phú Yên: Hội thảo vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh xây dựng “chi bộ bốn tốt”, “đảng bộ cơ sở bốn tốt” (nguồn news.vnanet.vn)

 

Đặt vấn đề

Củng cố, xây dựng tổ chức cơ sở đảng và nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên có đủ phẩm chất và năng lực, đáp ứng các yêu cầu của sự nghiệp cách mạng trong từng giai đoạn là nhiệm vụ thường xuyên của Đảng. Những năm qua, việc tăng cường củng cố, xây dựng tổ chức cơ sở đảng luôn được Đảng coi trọng và xác định là nhiệm vụ trọng yếu thường xuyên; được triển khai thực hiện một cách toàn diện, với đồng bộ các giải pháp và đạt được nhiều kết quả quan trọng. Tại Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XIII) đã quyết nghị, ban hành Nghị quyết số 21-NQ/TW, ngày 16/6/2022 về “Tăng cường củng cố, xây dựng tổ chức cơ sở đảng và nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên trong giai đoạn mới”. Đây là vấn đề quan trọng góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng, góp phần xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị ở cơ sở trong sạch, vững mạnh toàn diện, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị, góp phần hoàn thành thắng lợi các nhiệm vụ chính trị và mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước đáp ứng yêu cầu của kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam.

1. Tăng cường củng cố, xây dựng tổ chức cơ sở đảng hiện nay

1.1. Quan điểm chỉ đạo của Đảng về tăng cường củng cố, xây dựng tổ chức cơ sở đảng

Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Chi bộ là nền móng của Đảng, chi bộ tốt thì mọi việc sẽ tốt”[6, tr.278]; Người viết: “Muốn làm nhà cho tốt thì phải xây dựng nền cho vững, muốn thực hiện kế hoạch tốt phải chăm lo củng cố chi bộ”[5, tr.266]. Các chi bộ, đảng bộ cơ sở là “tổ chức cơ bản của Đảng”; là hạt nhân chính trị ở cơ sở; là “dây chuyền” để Đảng liên hệ với nhân dân. Tổ chức cơ sở đảng là nơi tiến hành các hoạt động giáo dục, rèn luyện đảng viên, phân công công việc cho đảng viên, kiểm tra và quản lý đảng viên; là nơi đào tạo, rèn luyện cán bộ của Đảng. Điều đó cho thấy, chi bộ, đảng bộ cơ sở có vai trò rất quan trọng là nơi trực tiếp nắm bắt tâm tư nguyện vọng của nhân dân phản ánh với Đảng, để Đảng đề ra đường lối, chính sách đúng đắn, hợp lòng dân.

Quán triệt quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về vai trò của tổ chức cơ sở đảng trong quá trình xây dựng Đảng và lãnh đạo cách mạng, Đảng đã bổ sung, phát triển những điểm mới, nhất quán khẳng định trong các văn kiện của Đảng qua các kỳ đại hội: Sự vững mạnh của các tổ chức cơ sở đảng là điều kiện bảo đảm cho sự vững mạnh của toàn Đảng. Điều lệ Đảng cũng xác định: “Tổ chức cơ sở đảng (chi bộ cơ sở, đảng bộ cơ sở) là nền tảng của Đảng, hạt nhân chính trị ở cơ sở”[4, tr.35].

Xây dựng, củng cố tổ chức cơ sở đảng đáp ứng các yêu cầu của sự nghiệp cách mạng trong từng giai đoạn là nhiệm vụ thường xuyên của Đảng. Trong những năm qua, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã ban hành nhiều chủ trương, nghị quyết lãnh đạo, chỉ đạo việc rà soát sửa đổi, bổ sung chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm, mối quan hệ công tác của các loại hình tổ chức cơ sở đảng, bảo đảm phù hợp với tiến trình đổi mới, sắp xếp tinh gọn tổ chức bộ máy của Đảng và hệ thống chính trị. Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng xác định: “Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ đảng viên; phát huy tính tiên phong, gương mẫu, trọng dân, gần dân, tin dân, hiểu dân, học dân của cán bộ, đảng viên; tăng cường hơn nữa mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân, củng cố và không ngừng nâng cao niềm tin của nhân dân đối với Đảng”[1, tr.229 -230] là nhiệm vụ cơ bản của công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị, góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng.

Tại Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII ngày 16/6/2022 đã ban hành Nghị quyết số 21-NQ/TW về “Tăng cường củng cố xây dựng tổ chức cơ sở đảng và nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên trong giai đoạn mới” trong đó thể hiện rõ các quan điểm:

Một là, tổ chức cơ sở đảng là nền tảng của Đảng, hạt nhân chính trị, cầu nối giữa Đảng với nhân dân, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng ở cơ sở. Xây dựng tổ chức cơ sở đảng phải gắn với xây dựng tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên, lâu dài, liên tục, là trách nhiệm của các cấp uỷ, tổ chức đảng, đảng viên, góp phần xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị, củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng.

Hai là, nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng phải gắn với xây dựng, chỉnh đốn Đảng về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ; đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng; bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, đề cao tính giáo dục, tính chiến đấu trong sinh hoạt đảng và đấu tranh phòng, chống quan liêu, tham nhũng, tiêu cực, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ; nâng cao chất lượng đội ngũ cấp uỷ viên cơ sở, nhất là bí thư cấp uỷ.

Ba là, đội ngũ đảng viên là nhân tố quyết định năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng. Tạo môi trường để đảng viên rèn luyện, phấn đấu, đồng thời mỗi đảng viên phải tự ý thức học tập, rèn luyện nhân cách, đạo đức, phong cách, không ngừng nâng cao bản lĩnh chính trị, tiên phong, gương mẫu, thực hiện nghiêm các nguyên tắc của Đảng và lời thề khi vào Đảng; tăng cường mối quan hệ mật thiết với nhân dân và chịu sự giám sát của nhân dân. Coi trọng chất lượng phát triển đảng viên, quan tâm phát triển đảng viên trong đoàn viên thanh niên và công đoàn, hội viên ưu tú, quần chúng tiêu biểu, nhất là ở địa bàn khó khăn, miền núi, biên giới, hải đảo, khu vực kinh tế ngoài nhà nước, vùng dân tộc thiểu số. Thường xuyên rà soát, sàng lọc, kiên quyết đưa đảng viên không còn đủ tư cách ra khỏi Đảng.

1.2. Kết quả của công tác tăng cường củng cố, xây dựng tổ chức cơ sở đảng hiện nay

Thực hiện các nghị quyết, kết luận, chỉ thị của Trung ương, cấp ủy, tổ chức đảng các cấp đã tập trung chỉ đạo cụ thể hóa, tổ chức thực hiện đạt kết quả nổi bật: “Việc củng cố, xây dựng tổ chức cơ đảng và nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên ngày càng đi vào chiều sâu và có sự chuyển biến tích cực hơn”[3, tr.162]. Tổ chức cơ sở đảng tiếp tục được củng cố, kiện toàn và bổ sung chức năng, nhiệm vụ, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng ở cơ sở và gắn với xây dựng tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Dự thảo văn kiện đại hội đại biểu lần thứ XIV chỉ rõ: “Tổ chức cơ sở đảng được rà soát, kiện toàn đồng bộ với đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy hệ thống chính trị, tổ chức kinh tế, đơn vị sự nghiệp công lập”[3, tr.162].

Nhiều tổ chức cơ sở đảng đã giữ vững và phát huy vai trò hạt nhân chính trị ở cơ sở; lãnh đạo cán bộ, đảng viên, nhân dân thực hiện có hiệu quả chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và sự chỉ đạo của cấp ủy cấp trên; thực hiện có kết quả nhiệm vụ chính trị và công tác chuyên môn của từng địa phương, cơ quan, đơn vị. Sinh hoạt cấp ủy, sinh hoạt chi bộ ngày càng đổi mới cả về nội dung và hình thức. Việc đánh giá, xếp loại chất lượng tổ chức đảng, đảng viên ngày càng đi vào thực chất, khách quan, thiết thực hơn, tình bước khắc phục bệnh thành tích. Đội ngũ cấp ủy viên thường xuyên được củng cố, kiện toàn, nâng cao bản lĩnh chính trị. Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở đảng được nâng lên, góp phần ngăn chặn, đẩy lùi những biểu hiện suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.

Tuy nhiên, bên cạnh kết quả đạt được, “chất lượng, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của một số tổ chức cơ sở đảng còn hạn chế, chậm đổi mới phương thức lãnh đạo; chưa kịp thời sửa đổi, bổ sung quy chế làm việc; thực hiện chưa nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ; chất lượng sinh hoạt chi bộ, đảng bộ cơ sở, sinh hoạt cấp ủy, tinh thần tự phê bình và phê bình, công tác đánh giá, xếp loại còn hạn chế; chưa thể hiện rõ vai trò lãnh đạo của Đảng trong giải quyết những khó khăn, bức xúc của nhân dân ở cơ sở”[2, tr. 156-157]; không ít tổ chức cơ sở đảng chưa thực sự phát huy hết vai trò là nền tảng của Đảng, là hạt nhân chính trị ở cơ sở, cầu nối giữa Ðảng với nhân dân, cũng như bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng ở cơ sở; “một số ít tổ chức đảng nội bộ mất đoàn kết, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu còn hạn chế, có nơi mất sức chiến đấu... Phẩm chất, năng lực, uy tín của một số cấp ủy viên, bí thư cấp ủy cơ sở, đảng viên chưa đáp ứng yêu cầu”[3, tr.163]. Một số cấp ủy cơ sở chưa nêu cao tinh thần trách nhiệm, thiếu gương mẫu; chưa chủ động, kịp thời kiểm tra tổ chức đảng, đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm; để xảy ra tiêu cực, tham nhũng, vi phạm kỷ luật đảng, vi phạm pháp luật, giảm niềm tin của nhân dân với Đảng. Mô hình tổ chức ở một số loại hình tổ chức cơ sở đảng còn bất cập, chậm được kiện toàn, sắp xếp. Xây dựng tổ chức cơ sở đảng khu vực ngoài nhà nước, nhất là doanh nghiệp tư nhân còn hạn chế, tỷ lệ có tổ chức đảng, đảng viên thấp, vai trò lãnh đạo mờ nhạt, lúng túng cả về nội dung và phương thức hoạt động. Một số tổ chức cơ sở đảng ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, ở ngoài nước... hoạt động còn khó khăn.

Nguyên nhân của những hạn chế nêu trên chủ yếu là do: Nhận thức của một số cấp uỷ, một bộ phận cán bộ, đảng viên, trong đó có cả cán bộ lãnh đạo, quản lý chưa sâu sắc, toàn diện về vai trò, vị trí, yêu cầu nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ đảng viên; năng lực lãnh đạo, chỉ đạo của một số cấp uỷ chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ. Một số tổ chức cơ sở đảng buông lỏng công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, chưa nắm chắc diễn biến tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của đảng viên; đánh giá, xếp loại chất lượng tổ chức cơ sở đảng, đảng viên còn biểu hiện nể nang, hình thức, nặng về thành tích; chưa làm tốt công tác quản lý, kiểm tra, giám sát đảng viên.

Như vậy, trải qua 95 năm xây dựng và phát triển, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn nhận thức rõ vị trí, tầm quan trọng của công tác xây dựng Đảng nói chung và công tác xây dựng tổ chức cơ sở đảng nói riêng; xuất phát từ yêu cầu, nhiệm vụ và thực tiễn đặt ra, Đảng luôn quan tâm, coi trọng công tác củng cố, xây dựng tổ chức cơ sở đảng; coi đây là nhiệm vụ rất quan trọng, một nội dung cốt lõi trong công tác xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh. Để phát huy vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng của tổ chức cơ sở đảng trong thời gian tới, cần khắc phục những hạn chế, vướng mắc trong thực tiễn và có biện pháp cụ thể nhằm tăng cường củng cố, xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong tình hình mới hiện nay.

2. Một số giải pháp chủ yếu nhằm tăng cường củng cố, xây dựng tổ chức cơ sở đảng hiện nay

Một là, củng cố, xây dựng tổ chức cơ sở đảng phù hợp với việc đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị. Đây là đòi hỏi khách quan, bởi tổ chức đảng nói chung, tổ chức cơ sở đảng nói riêng hoạt động không “đơn tuyến” mà nằm trong tổng thể của cả hệ thống và có mối quan hệ hữu cơ với các tổ chức khác trong hệ thống chính trị. Vì thế, củng cố, kiện toàn tổ chức cơ sở đảng phải đồng bộ với đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của cả hệ thống chính trị. Quá trình thưc hiện, phải gắn việc xây dựng, củng cố, kiện toàn cấp ủy, tổ chức đảng với xây dựng đội ngũ cán bộ chủ trì các cấp, hoàn thiện các chức danh,... cũng như phù hợp với cơ cấu, quy mô tổ chức của hệ thống chính trị cơ sở, bảo đảm sự thống nhất, đồng bộ của từng tổ chức, tạo động lực thúc đẩy sự phát triển ổn định, bền vững. Đồng thời, “khẩn trương rà soát, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện và thực hiện tốt các quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm, mối quan hệ công tác, quy chế làm việc của các loại hình tổ chức cơ sở đảng phù hợp với thực tiễn, yêu cầu, nhiệm vụ mới”[3, tr.176].

Hai là, nâng cao chất lượng hoạt động, bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện của Đảng ở các loại hình tổ chức cơ sở đảng, nhất là ở xã, phường, thị trấn; thực hiện nghiêm quy chế làm việc của cấp ủy cơ sở. Việc tập trung củng cố, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở đảng phải gắn với thực hiện đổi mới nội dung, hình thức, phương pháp hoạt động theo hướng vừa mở rộng dân chủ, vừa tăng cường kỷ cương, kỷ luật; khắc phục tính hình thức, đơn điệu trong sinh hoạt, bảo đảm tính lãnh đạo, tính giáo dục, tính chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng. Từ đó, tạo chuyển biến về chất lượng hoạt động của các loại hình tổ chức cơ sở đảng, bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện của Đảng trên mọi lĩnh vực để xây dựng và phát triển đất nước nhanh và bền vững. Cấp ủy các cấp trước hết cần đổi mới cách ra nghị quyết theo hướng ngắn gọn, rõ ràng, dễ hiểu, dễ nhớ, dễ làm, dễ triển khai thành chương trình hành động cụ thể. Đồng thời, các cấp ủy cần chỉ đạo xây dựng các đề án, chương trình, kế hoạch, giải pháp cụ thể để tập trung xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong sạch, vững mạnh, củng cố các tổ chức yếu kém.

Ba là, tập trung củng cố, nâng cao chất lượng đội ngũ cấp ủy viên, bí thư cấp ủy ở cơ sở. Đây là nhân tố then chốt nhất của việc nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng đáp ứng yêu cầu thực hiện nhiệm vụ chính trị của tổ chức cơ sở đảng trong những năm tới. Cấp ủy các cấp cần chú ý lựa chọn những đảng viên có tâm huyết, tinh thần trách nhiệm cao, biết tập hợp quần chúng, có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ vững vàng để lãnh đạo toàn diện công tác của tổ chức cơ sở đảng. Chú trọng việc rà soát, bổ sung quy hoạch, chuẩn bị tốt nhân sự cấp ủy cơ sở nhiệm kỳ tiếp theo. Xây dựng và thực hiện chương trình, kế hoạch bồi dưỡng kỹ năng lãnh đạo, quản lý, nghiệp vụ công tác đảng cho cấp ủy viên, bí thư cấp ủy.

Bốn là, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, hướng dẫn các doanh nghiệp trong việc thực hiện các văn bản của Trung ương về phát triển tổ chức đảng, đoàn thể trong doanh nghiệp khu vực ngoài nhà nước; quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng và phát triển tổ chức đảng, các tổ chức chính trị - xã hội trong doanh nghiệp khu vực ngoài nhà nước “thực hiện chủ trương bí thư cấp uỷ đồng thời là người đứng đầu doanh nghiệp nhà nước và đơn vị sự nghiệp”[3, tr.176]. Kịp thời sơ kết, tổng kết để rút kinh nghiệm từ những mô hình hay, cách làm sáng tạo, những điển hình tiên tiến, hiệu quả và nhân rộng mô hình “chi bộ bốn tốt”.

Năm là, thực hiện chủ trương bí thư cấp ủy đồng thời là thủ trưởng cơ quan, đơn vị. Bên cạnh việc nâng cao bản lĩnh chính trị, năng lực lãnh đạo, kỹ năng và nghiệp vụ công tác Đảng cho đội ngũ cán bộ cấp ủy ở cơ sở thì cần từng bước thực hiện mô hình bí thư cấp ủy đồng thời là chủ tịch hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân ở những nơi đủ điều kiện; bí thư chi bộ đồng thời là trưởng thôn, tổ trưởng tổ dân phố hoặc trưởng ban công tác mặt trận. Tiếp tục đổi mới và nâng cao hiệu quả công tác kiểm điểm tự phê bình và phê bình, đánh giá chất lượng tổ chức đảng, đảng viên.

Sáu là, tăng cường sự lãnh, chỉ đạo của cấp ủy tại chi bộ để nâng cao chất lượng sinh hoạt ở các loại hình chi bộ, bảo đảm tính lãnh đạo, tính giáo dục, tính chiến? Tiếp tục đổi mới, “nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ, phải coi sinh hoạt đảng là cuộc họp quan trọng nhất; phải bố trí thời gian thoả đáng cho các cuộc họp sinh hoạt chi bộ, cấp uỷ; chú trọng đổi mới nội dung và phương pháp tổ chức, gắn với nhiệm vụ, quyền hạn của đảng viên; phát huy dân chủ trong tranh luận, thảo luận, gắn với đề cao kỷ luật, kỷ cương”[3, tr.176]. Chú trọng việc thực hiện các Nghị quyết và Kết luận Hội nghị Trung ương 4 khóa XI, XII, XIII về xây dựng, chỉnh đốn Đảng gắn với đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh và gương mẫu thực hiện tốt trách nhiệm nêu gương, nhất là người đứng đầu các cấp.

Kết luận

Tăng cường củng cố, xây dựng tổ chức cơ sở đảng là một trong những nội dung quan trọng trong công tác xây dựng Đảng, luôn được Đảng coi trọng và xác định là nhiệm vụ trọng tâm, thường xuyên của Đảng, là trách nhiệm của các cấp ủy, tổ chức đảng và đảng viên. Quán triệt, thực hiện tốt các nội dung, giải pháp nêu trên có ý nghĩa quan trọng trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong tình hình mới, là điều kiện tiên quyết để nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng trong sạch, vững mạnh, phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng ở cơ sở, góp phần củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ, phấn đấu thực hiện thắng lợi các Nghị quyết tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng.

 

Tài liệu tham khảo:

[1] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập II, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.

[2] Đảng Cộng sản Việt Nam (2022), Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.

[3] Đảng Cộng sản Việt Nam (2024), Dự thảo các Văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.

[4] Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

[5] Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 10, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

[6] Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 15, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

Đọc thêm

Nghiên cứu, đề xuất xây dựng chuẩn chương trình bồi dưỡng cho cán bộ lãnh đạo, quản lý hiện nay

Tác giả: TRƯƠNG BẢO THANH

(GDLL) - Xây dựng chuẩn chương trình bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo quản lý đóng vai trò hết sức quan trọng, là căn cứ để cơ sở đào tạo tiến hành xây dựng, thẩm định, ban hành, thực hiện, đánh giá và cải tiến các chương trình bồi dưỡng trên thực tế. Bài viết tập trung nghiên cứu cơ sở chính trị, pháp lý, cơ sở thực tiễn, đề xuất xây dựng chuẩn chương trình bồi dưỡng cho cán bộ lãnh đạo, quản lý ở Việt Nam hiện nay.

Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế thích ứng linh hoạt với đại dịch Covid 19 tại Việt Nam

Tác giả: CHU THỊ LÊ ANH

(GDLL) - Đại dịch COVID-19 đã gây ra nhiều hậu quả tiêu cực tới đời sống xã hội và làm giảm sút tăng trưởng kinh tế của tất cả các quốc gia trên thế giới trong đó có Việt Nam. Bài viết phân tích các chính sách phục hồi và phát triển kinh tế ứng phó tác động của dịch bệnh COVID-19 tới nền kinh tế Việt Nam, từ đó đề xuất một số khuyến nghị chính sách để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế thích ứng linh hoạt với dịch bệnh trong thời gian tới nhằm thực hiện thành công Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng.

Giải pháp thực hiện các chính sách hỗ trợ tài chính để doanh nghiệp vượt qua khó khăn do đại dịch Covid-19

Tác giả: NINH THỊ MINH TÂM

(GDLL) - Đại dịch Covid-19 đã tạo ra cú sốc đối với nền kinh tế Việt Nam và tác động tiêu cực đến “sức khỏe”, tiềm lực và khả năng chống chịu của nhiều doanh nghiệp, dẫn đến nguy cơ phá sản. Trong bối cảnh đó, Đảng và Nhà nước đã ban hành và thực hiện nhiều chính sách hỗ trợ tài chính nhằm giúp các doanh nghiệp vượt qua khó khăn. Bài viết tập trung phân tích thực trạng và đề xuất một số giải pháp tiếp tục thực hiện các chính sách hỗ trợ tài chính nhằm tăng “sức bền” và hỗ trợ phục hồi sản xuất, kinh doanh cho các doanh nghiệp bị tác động tiêu cực bởi dịch bệnh.

Tổn thương của doanh nghiệp Việt Nam sau cú sốc đại dịch Covid-19 - thực trạng và khuyến nghị

Tác giả: HOÀNG VĂN HOAN

(GDLL) - Khủng hoảng thường tạo cú sốc cho doanh nghiệp xét về cả kết quả kinh doanh thực tế và kỳ vọng. Các cú sốc có thể tích cực (hữu ích) hoặc tiêu cực (có hại) gây tổn thương cho doanh nghiệp và cả nền kinh tế. Để có những biện pháp đối phó nhằm ngăn chặn sớm cũng như giảm bớt những tác động bất lợi của các cú sốc gây tổn thương cho doanh nghiệp cũng như xã hội, đặc biệt sau cú sốc đại dịch COVID -19, bài viết giúp nhận diện các cú sốc, mức độ tổn thương của doanh nghiệp Việt Nam sau cú sốc bất lợi từ đại dịch COVID-19 trong giai đoạn vừa qua, từ đó đưa ra những hàm ý chính sách.

Phát triển du lịch cộng đồng tạo sinh kế bền vững ở các tỉnh vùng Tây Bắc - một số vấn đề đặt ra

Tác giả: Tạ Thị Đoàn

(GDLL) - Phát triển du lịch cộng đồng đã và đang mang lại nhiều lợi ích cho các tỉnh vùng Tây Bắc, qua đó góp phần tạo sinh kế bền vững cho người dân địa phương. Trên cơ sở phân tích thực trạng phát triển du lịch cộng đồng tạo sinh kế bền vững ở các tỉnh vùng Tây Bắc thời gian qua, bài viết chỉ ra một số vấn đề còn tồn tại và đề xuất các giải pháp nhằm thúc đẩy phát triển du lịch cộng đồng tạo sinh kế bền vững ở các tỉnh vùng Tây Bắc trong thời gian tới.