
việc nâng cao năng lực số cho
công chức thông qua đào tạo, bồi dưỡng là yêu cầu cấp thiết nhằm thực hiện mục
tiêu xây dựng Chính phủ điện tử hướng tới Chính phủ số và xây dựng nền quản trị
quốc gia hiện đại, hiệu quả_Ảnh: IT
1. Mở đầu
Các công nghệ số như điện toán đám mây
(cloud computing), dữ liệu lớn (big data) và trí tuệ nhân tạo (AI), robot và
tự động hóa, internet vạn vật (IoT), chuỗi khối (blockchain)… đang trở
thành nền tảng cho những đổi mới trên toàn thế giới. Chính
phủ số dựa trên việc sử dụng và tái sử dụng dữ liệu và phân tích dữ liệu để đơn
giản hóa giao dịch cho người dân, doanh nghiệp cũng như các cơ quan chính phủ.
Kết quả là tất cả các bên tham gia vào quá trình chuyển đổi số, đặc biệt là cán
bộ, công chức cần phát triển những năng lực mới, đó là năng lực làm việc trong
bối cảnh chuyển đổi số hay được gọi là năng lực số.
2. Nội dung
2.1. Sự cần thiết xây dựng năng
lực số của công chức
Theo Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của
Liên hợp quốc (UNESCO), năng lực số là tổng hợp của năng lực sử
dụng máy tính, năng lực công nghệ thông tin, năng lực thông tin và năng lực
truyền thông. Đó là khả năng lựa chọn và sử dụng thành thạo, hiệu quả, an toàn
các phương tiện công nghệ thông tin, truyền thông và công nghệ số (tìm kiếm
thông tin, sử dụng các thiết bị công nghệ số, sử dụng mạng internet, các nghiệp
vụ thanh toán trực tuyến, sử dụng các kênh truyền thông đa phương tiện, vận
hành thiết bị(1)…
Tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế (OECD)
tiếp cận năng lực số theo nghĩa rộng hơn, không chỉ bao gồm năng lực sử dụng
các công nghệ thông tin, truyền thông và công nghệ số mà còn bao gồm các kiến
thức, kỹ năng, phẩm chất cần thiết khác để thực thi hiệu quả nhiệm vụ được
giao. Năng lực số của cá nhân là cách tiếp cận cá thể hóa, tính đến đặc điểm
riêng của từng công chức hoạt động trong môi trường số(2).
Như vậy, năng lực số của công chức là sự am
hiểu, là khả năng, kỹ năng, thái độ, kinh nghiệm công tác và các phẩm chất khác
cần có để công chức thực thi hiệu quả chức trách, nhiệm vụ trong điều kiện
phương thức làm việc, quản lý, điều hành, quy trình công việc được thực hiện
trên môi trường số. Nếu cán bộ, công chức không có sự chuẩn bị kỹ lưỡng cũng
như trang bị cho mình năng lực số cần thiết thì sẽ rất khó khăn để bảo đảm và
nâng cao chất lượng công việc và thực thi công vụ.
Để thực thi nhiệm vụ hiệu quả trong bối cảnh
chuyển đổi số hiện nay, công chức cần có năng lực số ở cả ba nhóm năng lực:
năng lực chung, năng lực chuyên môn và năng lực lãnh đạo, quản lý. Trong các
quy định hiện hành, yêu cầu về chuẩn kỹ năng sử dụng công nghệ thông tin và các
năng lực khác đối với các ngạch công chức cũng như trong các chương trình đào tạo,
bồi dưỡng cần được điều chỉnh, bổ sung phù hợp với yêu cầu chuyển đổi chính phủ
số.
2.2. Kinh nghiệm phát triển năng
lực số cho công chức tại một số quốc gia thông qua đào tạo, bồi dưỡng
Kinh nghiệm tại các quốc
gia có chỉ số dẫn đầu về phát triển chính phủ
điện tử, chính phủ số
Thực tiễn cho thấy, các quốc gia có chỉ số dẫn
đầu về phát triển chính phủ số đều tập trung vào nâng cao năng lực số cho công
chức thông qua đào tạo, bồi dưỡng. Các chương trình bồi dưỡng được thiết kế
theo các nhóm phát triển năng lực số chung, năng lực số cho các vị trí việc làm
theo chuyên môn và năng lực số cho người lãnh đạo, quản lý. Việc tổ chức xây dựng
nội dung chương trình đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực số chung và năng lực
số cho người lãnh đạo, quản lý do các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng có uy tín hàng đầu
quốc gia đảm nhận. Còn việc xây dựng nội dung, chương trình bồi dưỡng năng lực
số gắn với các vị trí việc làm của từng lĩnh vực chuyên môn do các cơ sở đào tạo,
bồi dưỡng thuộc các bộ, ngành thực hiện.
Các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng hàng đầu quốc
gia thực hiện bồi dưỡng năng lực số cho công chức tại các quốc gia dẫn đầu
trong lĩnh vực chuyển đổi số và nội dung các chuyên đề bồi dưỡng(3).
Bảng 1. Các cơ sở hàng đầu thực
hiện đào tạo, bồi dưỡng năng lực số cho công chức tại các quốc gia, vùng lãnh
thổ dẫn đầu trong lĩnh vực chuyển đổi số
|
Quốc gia
(nền kinh tế)
|
Các cơ sở hàng đầu quốc
gia, vùng lãnh thổ thực hiện đào tạo, bồi dưỡng năng lực
số cho công chức
|
|
Hoa Kỳ
|
Đại học Công nghệ số
|
|
Xinhgapo
|
Trường Chính sách công Lý Quang Diệu
|
|
Thụy Điển
|
Viện Hành chính công Thụy Điển
|
|
Đặc khu hành chính Hồng Kông (Trung
Quốc)
|
Viện Đào tạo và Phát triển Công vụ
|
|
Canada
|
Học viện Dịch vụ Kỹ thuật số Chính
phủ
|
|
Hà Lan
|
Viện Hành chính công châu Âu
|
|
Hàn Quốc
|
Viện phát triển nguồn nhân lực quốc
gia
|
|
Phần Lan
|
Viện Hành chính công Phần Lan
|
|
Anh
|
Học viện Công vụ
|
|
Các tiểu vương quốc
Ả Rập thống nhất
|
Học viện Kỹ thuật số
|
|
Áo
|
Viện Hành chính công Áo
|
Về nội dung, các khóa học được tập trung vào
các chuyên đề chính:
Bảng 2. Các chuyên đề chính
trong bồi dưỡng nâng cao năng lực số
|
Các chuyên đề
|
Số cơ sở
thực hiện chương trình
|
|
Lãnh đạo trong thời đại kỹ thuật số
|
(7/11) 64%
|
|
Bảo mật thông tin
|
(7/11) 64%
|
|
Truyền thông kỹ thuật số và tương
tác với người dân
|
(6/11) 55%
|
|
Những công nghệ mới và thách thức
|
5/11) 45%
|
|
Phương tiện truyền thông và mạng xã
hội
|
(5/11) 45%
|
|
Thiết kế các dịch vụ kỹ thuật số tập
trung vào người dùng
|
(5/11) 45%
|
|
Phân tích dữ liệu và học máy
|
(5/11) 45%
|
|
Trực quan hóa dữ liệu
|
(5/11) 45%
|
Bảng trên cho thấy, phần lớn các chương trình
đào tạo cho công chức (64%) tập trung vào giải quyết vấn đề ở hai lĩnh vực: an
ninh thông tin và đào tạo các nhà lãnh đạo thành công trong thời đại kỹ thuật số.
55% các chương trình tập trung vào phát triển năng lực của công chức trong hệ
thống hành chính công trong lĩnh vực truyền thông kỹ thuật số và tương tác với
người dân. Ví dụ, ở Singapore, công chức chính phủ được đào tạo kỹ năng sử dụng
văn phòng và văn thư, lưu trữ điện tử. Ở Hoa Kỳ, các khóa đào tạo riêng được tổ
chức cho công chức về khả năng cung cấp thông tin cho công dân một cách đơn giản.
Vấn đề quản lý mạng xã hội và hợp tác với truyền thông cũng được dành một vị
trí đặc biệt trong các chương trình. Cùng với đó là các khóa bồi dưỡng về kỹ
năng làm việc với dữ liệu (phân tích, giải thích và trực quan hóa đồ họa, thân
thiện với người dùng) khi tạo ra các dịch vụ công.
Việc xây dựng và mở các mã ngành đại học và
sau đại học mới liên quan đến hành chính số, chính phủ số cũng là một xu hướng ở
các nước trên thế giới trong 3-5 năm trở lại đây. Ví dụ như: Chương trình Thạc
sĩ về Quản trị số (Executive Master in e-Governance) tại Đại học Công nghệ Quốc
gia Thụy Sĩ; Chương trình Thạc sĩ về Chuyển đổi số trong Quản trị công và chính
sách công (Digital Public Management and Policy) tại Đại học Helsinki, Phần
Lan; Chương trình Thạc sĩ về Chính phủ điện tử và quản trị công cho các nước
ASEAN (KOICA-YONSEI Master's Degree Program in e-Government and Public Management
for ASEAN), Hàn Quốc.
Kinh nghiệm phát triển năng lực số cho
công chức tại Liên bang Nga
Để phát triển năng lực số, Chính phủ Liên
bang Nga đặc biệt quan tâm đến các chương trình đào tạo, bồi dưỡng kiến thức, kỹ
năng về chính phủ điện tử, chính phủ số và các kiến thức, kỹ năng liên quan đến
phát triển năng lực số.
Một trong các chương trình bồi dưỡng công chức
là Chương trình bồi dưỡng “Lãnh đạo số” do Quỹ Chương
trình đào tạo kinh tế và quản lý Liên bang Nga xây dựng(4). Chương trình này gồm 13
nhóm nội dung, bao quát tất cả các lĩnh vực công tác của lãnh đạo, trong đó có
đến 4 nhóm nội dung liên quan đến kỹ thuật số. Cụ thể là các nhóm nội dung sau:
(i) Chuyển đổi kỹ thuật số trong cơ quan, tổ chức. (ii) Kỹ năng làm việc với Cổng
thông tin điện tử quốc gia (bus.gov.ru)(5). (iii)
Kỹ năng làm việc trên Cổng thông tin thống nhất của hệ thống ngân sách Liên
bang Nga (budget.gov.ru)(6). Giám
sát các dự án quốc gia trong hệ thống thông tin tích hợp “Ngân sách điện tử”
(ГИИС “Элетрольный бюджет”).
Ở Nga, trong khuôn khổ dự án cấp liên bang
“Nhân lực cho nền kinh tế số”, các chương trình đào tạo lại về chuyên môn và
đào tạo nâng cao kỹ năng nghề nghiệp cho công chức được triển khai. Theo đánh
giá phân tích về những thay đổi của nền kinh tế số năm 2018-2019, các trường đại
học là nền tảng giáo dục chính cho các chương trình phát triển kỹ năng trong
lĩnh vực công nghệ thông tin - truyền thông. Tổ chức đào tạo, bồi dưỡng lớn nhất
cho công chức khu vực công là Trung tâm đào tạo các nhà quản lý chuyển đổi kỹ
thuật số thuộc Học viện Kinh tế quốc dân và Hành chính công, trực thuộc Tổng thống
Liên bang Nga, nơi vào năm 2019 có 13.000 công chức các cấp được đào tạo. Các
chương trình đào tạo trong lĩnh vực công nghệ số do các trung tâm đào tạo này
cung cấp:
Bảng 3. Các chương trình,
chuyên đề bồi dưỡng nâng cao năng lực số cho công chức tại Liên bang Nga
|
Tên
Chương trình
|
Đối tượng
|
Các chuyên đề
|
|
1. Tại Trung
tâm đào tạo các nhà quản lý chuyển đổi kỹ thuật số thuộc Học
viện Kinh tế quốc dân và Hành chính công, trực thuộc Tổng
thống Liên bang Nga
|
|
Lãnh đạo
chuyển đổi số
|
Thứ trưởng, Tổng cục trưởng
|
1) Nội dung và khuôn khổ chuyển đổi
số
2) Chuyển đổi kỹ thuật số trong hành
chính công
3) Thiết kế tổ chức trong chính phủ
số
4) Những thay đổi về tổ chức, phương
tiện giao tiếp và ra quyết định trong chính phủ số
5) Kỹ năng của người lãnh đạo trong
bảo mật thông tin số, ứng dụng dữ liệu lớn, trí tuệ nhân tạo
6) Kinh nghiệm liên ngành trong việc
chuyển đổi hành chính công và triển khai các giải pháp nền tảng
7) Xây dựng các đề án, dự án chuyển
đổi số
|
|
Tổ chức thực hiện các chương trình,
dự án chuyển đổi số
|
- Người đứng đầu về chuyển đổi số của
cơ quan vùng và cơ quan hành chính địa phương
- Những người tham gia dự án phát
triển kỹ thuật số của chính quyền
|
1) Phát triển kỹ thuật số
2) Phát triển văn hóa số trong tổ chức
3) Sử dụng các công nghệ số như công
cụ quản lý hiện đại
4) Kỹ năng làm việc với dữ liệu
5) Kỹ năng làm việc trên môi trường
số
6) Xây dựng cơ sở hạ tầng và nền tảng
số
7) Tổ chức thực hiện chương trình, đề
án, dự án chuyển đổi số
|
|
Chuyển đổi số và kinh tế số
|
Công chức cấp trung ương, cấp vùng
và địa phương
|
1) Tổng quan về chuyển đổi số và
kinh tế số
2) Các mô hình chuyển đổi số
3) Nhân lực trong nền kinh tế số
4) Kiến tạo và xây dựng các dự án kỹ
thuật số pục vụ phát triển kinh tế.
|
|
Nâng cao năng lực chung về chuyển đổi
số
|
Công chức và lãnh đạo cấp phòng, cấp
sở, vụ
|
1) Phần cơ bản: phát triển kỹ thuật
số
2) Phần chuyên sâu:
- Công cụ quản lý
- Làm việc với dữ liệu
- Văn hóa tổ chức và đội ngũ chuyển
đổi số
- Cơ sở hạ tầng số
|
|
2. Trung tâm Năng
lực nhân sự cho nền kinh tế số tại các trường đại học
|
|
Nâng cao năng lực chuyên ngành về
chuyển đổi số
|
Công chức cấp liên bang và cấp vùng
chịu trách nhiệm thực hiện các chính sách quốc gia chương trình “Kinh tế kỹ
thuật số”
|
1) Giới thiệu về quản lý dựa trên dữ
liệu
2) Các khía cạnh pháp lý của quản lý
dựa trên dữ liệu
3) Các khía cạnh công nghệ của quản
lý dựa trên dữ liệu:
- Chuẩn bị dữ liệu và kiến trúc
- Trí tuệ nhân tạo và dữ liệu lớn;
- Phương pháp phân tích dữ liệu và học
máy
- Trực quan hóa dữ liệu
- Kiểm tra dữ liệu và hệ thống
- Thực hiện các dự án quản lý dữ liệu
- Chuẩn bị dữ liệu;
- Các phương pháp công nghệ phần mềm
4) Các khía cạnh tổ chức của quản lý
dựa trên dữ liệu
5) Các khía cạnh ngành của quản lý dựa
trên dữ liệu
|
Bảng trên cho thấy, chương trình đào tạo lại,
bồi dưỡng công chức trong lĩnh vực số hóa được thiết kế cho các nhóm công chức
lãnh đạo, quản lý và thực thi, thừa hành. Nội dung tập trung vào những vấn đề
mà công chức đang hạn chế về năng lực, đặc biệt là năng lực lãnh đạo, năng lực
kỹ thuật số, năng lực xây dựng và triển khai các đề án, dự án chuyển đổi số
theo các mảng lĩnh vực chuyên sâu. Các khóa đào tạo, bồi dưỡng được xây dựng từ
các chương trình cơ bản đến nâng cao.
Tại Liên bang Nga, từ năm 2017, cùng với phát
triển chương trình đại học, Học viện Kinh tế quốc dân và Công vụ, trực thuộc Tổng
thống Liên bang Nga đã mở các chương trình đào tạo thạc sĩ, thời gian đào tạo 2
năm chuyên ngành “Chính phủ số” thuộc khối ngành “Quản lý nhà nước và địa phương”.
Học viện đã triển khai các chương trình liên kết đào tạo theo chuyên ngành này
bằng tiếng Anh và tiếng Pháp. Ví dụ, Khoa Khoa học chính trị, Đại học Quốc gia
St. Petersburg mở ngành thạc sĩ Quản lý công số. Chuyên ngành tương tự như vậy
cũng được mở tại nhiều trường đại học và các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng công chức.
2.3. Phát triển năng lực số cho công
chức ở Việt Nam thông qua đào tạo, bồi dưỡng
Ở Việt Nam, yêu cầu phát triển Chính phủ số,
kinh tế số, xã hội số đòi hỏi công chức cần có những thay đổi cơ bản. Công chức
lãnh đạo các cấp cần được đào tạo, bồi dưỡng để chuyển đổi nhận thức, sẵn sàng,
quyết liệt, làm gương ứng dụng công nghệ số trong công tác quản lý, điều hành;
sử dụng thành thạo công cụ số trong xử lý công việc nội bộ và cung cấp dịch vụ
số cho người dân(7).
Chương trình Chuyển đổi số quốc gia (ban
hành kèm theo Quyết định số 749/QĐ-TTg ngày 03-6-2020 của Thủ tướng
Chính phủ) xác định một trong các nhiệm vụ, giải pháp đối với các cơ sở đào
tạo đại học và sau đại học, đó là: “Xây dựng các mã ngành đào tạo mới và cập
nhật chương trình đào tạo nhân lực chuyên nghiệp ở đại học và các trường cao đẳng,
dạy nghề với các nội dung liên quan đến dữ liệu và công nghệ số như trí tuệ
nhân tạo, khoa học dữ liệu, điện toán đám mây, internet vạn vật, chuỗi khối,
dữ liệu lớn; Xây dựng trung tâm nghiên cứu, đào tạo nhân lực về trí tuệ nhân tạo
và các công nghệ số liên quan để đào tạo nhân lực chuyển đổi số”.
Chiến lược phát triển Chính phủ điện tử hướng
tới Chính phủ số giai đoạn 2021 - 2025, định hướng đến năm 2030 (ban hành
kèm theo Quyết định số 942/QĐ-TTg ngày 15-6-2021 của Thủ tướng Chính phủ)
yêu cầu: “Rà soát, cập nhật khung năng lực, chuẩn kỹ năng công nghệ thông
tin tích hợp kỹ năng số cho cán bộ, công chức, viên chức nhà nước. Đưa nội
dung đào tạo về kỹ năng số vào chương trình bồi dưỡng kiến thức, kỹ
năng quản lý nhà nước”.
Đặc biệt mới đây, để phù hợp với chủ trương,
chính sách của Đảng và Nhà nước trong bối cảnh mới của đất nước, Nghị định
171/2025/NĐ-CP ngày 30-6-2025 của Chính phủ về đào tạo, bồi dưỡng công chức đã
được ban hành. Nghị định xác định các nội dung bồi dưỡng gồm: (i) Lý luận chính
trị; (ii) Kiến thức quốc phòng và an ninh; (iii) Kiến thức, kỹ năng quản lý nhà
nước; (iv) Kiến thức, kỹ năng theo yêu cầu vị trí việc làm; (v) Kiến thức khoa
học công nghệ, đổi mới sáng tạo, kỹ năng số, công nghệ số.
Trong các chương trình trên, việc rà soát và
lồng ghép các nội dung chuyển đổi số là yêu cầu mang tính nguyên tắc. Để thực
hiện các nhiệm vụ trên, một số đề xuất cụ thể về xây dựng, phát triển các
chương trình đào tạo, bồi dưỡng cho công chức như sau:
Một là, đối
với các chương trình bồi dưỡng chung về kiến thức và kỹ năng quản lý nhà nước,
cần rà soát cập nhật, bổ sung kiến thức về chuyển đổi số, chính phủ số và kỹ
năng số.
Từ năm 2022, trong các chương trình bồi dưỡng
kiến thức và kỹ năng quản lý nhà nước cho công chức ngạch chuyên viên, chuyên
viên chính, chuyên viên cao cấp và tương đương theo Nghị định số 101/2017/NĐ-CP ngày 01-9-2017 của Chính phủ về
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức và Nghị định số 89/2021/NĐ-CP ngày 18-10-2021 của Chính phủ sửa
đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 101/2017/NĐ-CP,
cùng với việc cập nhật, bổ sung nội dung chuyển đổi số trong các chuyên đề đã
có, nhiều chuyên đề đã được xây dựng mới đưa vào chương trình như: Kỹ
năng làm việc trên môi trường số (chương trình chuyên viên); Chính
phủ điện tử và Chính phủ số; Kỹ năng quản lý thông tin và đảm bảo an toàn thông
tin (chương trình chuyên viên chính); Quản lý chuyển đổi số quốc
gia; An ninh phi truyền thống (chương trình chuyên viên
cao cấp).
Ngoài ra, nhiều chương trình, tài liệu về
chuyển đổi số đã được triển khai xây dựng, cập nhật nhằm nâng cao năng lực số
cho công chức như Chương trình, tài liệu bồi dưỡng về Chính phủ điện tử (Bộ Nội
vụ, năm 2020); Chương trình, tài liệu bồi dưỡng nghiệp vụ quản lý công chức,
viên chức (Bộ Nội vụ, năm 2023); Chương trình, tài liệu bồi dưỡng đội ngũ công
chức, viên chức trẻ tạo nguồn lãnh đạo các cấp của Bộ Nội vụ năm 2024; Chương
trình, tài liệu bồi dưỡng về chuyển đổi số trong lĩnh vực quản lý văn hóa (Học
viện Hành chính Quốc gia, nay là Học viện Hành chính và Quản trị công, năm
2024)…
Với bối cảnh, yêu cầu mới đặt ra và để thực
hiện Nghị định 171/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 30-6-2025 về đào tạo, bồi dưỡng
công chức, trong các Chương trình bồi dưỡng lãnh đạo, quản lý cấp thứ trưởng, cấp
vụ, cấp sở, cấp phòng và tương đương, tùy theo nhóm đối tượng của từng chương
trình, có thể tiếp tục kế thừa và phát triển các chuyên đề gắn với chuyển đổi số
và kỹ năng số đã xây dựng ở trên, các chương trình mới cần được tiếp tục cập nhật,
bổ sung toàn diện, đầy đủ hơn nữa; nội dung chuyển đổi số cần được lồng ghép
sâu hơn nữa ở tất cả các chuyên đề, ở các mảng kiến thức chung về nhà nước,
pháp luật, lý luận về hành chính nhà nước (với các nội dung về nhà nước số, sự
thay đổi chức năng của nhà nước trong chính phủ số; vai trò của chính phủ số
trong xây dựng nền quản trị quốc gia hiện đại, hiệu quả; yêu cầu về xây dựng thể
chế, chính sách, về xây dựng nguồn nhân lực trong bối cảnh chuyển đổi số; thay
đổi về quy trình ban hành chính sách, văn bản quy phạm pháp luật trên cơ sở ứng
dụng các công nghệ số, nền tảng số…); về ra quyết định dựa trên dữ liệu số; về
tái cấu trúc quy trình thủ tục hành chính; về chuyển đổi từ cung cấp dịch vụ
công trực tuyến sang dịch vụ công số với mô hình “một cửa số quốc gia”; về chuyển
đổi số trong quản lý nhà nước trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội;
về chuyển đổi số trong quản trị nội bộ cơ quan nhà nước; về văn hóa số, đạo đức
số của công chức; về quản trị truyền thông và bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng
trên môi trường số…
Hai là, đối
với các chương trình bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng theo yêu cầu vị trí việc làm,
cần xây dựng các chuyên đề gắn với nhóm năng
lực chuyên môn tập trung vào các nội dung như: Quản lý và sử dụng dữ liệu; Kỹ
năng ứng dụng các công nghệ số; Kỹ năng tổ chức thực hiện chiến lược chính phủ
số…
Ba là, đối
với các chương trình bồi dưỡng kiến thức khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo,
kỹ năng số, công nghệ số, cần xây dựng các chuyên đề gồm:
- Các chuyên đề gắn với nhóm năng lực số
chung của cán bộ, công chức như: Tổng quan về dữ liệu số; Kỹ năng trao đổi
thông tin trong môi trường số; Kỹ năng sử dụng AI và làm việc với các hệ thống
phân tích thông tin, quản lý dữ liệu, thông tin và nội dung số; Kỹ năng giải
quyết công việc trong trục liên thông văn bản điện tử giữa các cơ quan và tạo lập
nội dung số; Kỹ năng bảo đảm an toàn thông tin môi trường số: an toàn và bảo vệ
dữ liệu, bảo mật thông tin, bảo vệ thiết bị, bảo vệ môi trường số; Kỹ năng giải
quyết sự cố môi trường số.
- Các chuyên đề gắn với nhóm năng
lực lãnh đạo, quản lý, tập trung vào các nội dung như: Phát triển tầm nhìn và
tư duy chiến lược đáp ứng yêu cầu chuyển đổi số; Hoạch định và thực thi chính
sách phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chính sách chuyển đổi
số; Quản lý đổi mới sáng tạo và kỹ năng tư duy đổi mới sáng tạo trong cơ quan
nhà nước; Kỹ năng quản lý sự thay đổi gắn với chuyển đổi số; Kỹ năng quản lý
nhân sự phù hợp với yêu cầu chuyển đổi số; Xây dựng và quản lý các đề án, dự án
chuyển đổi số; Xây dựng và quản lý các hệ thống cơ sở dữ liệu số.
Bốn là, nghiên
cứu phát triển các chương trình đào tạo
Trước hết, cần rà soát cập nhật, bổ sung kiến
thức về chuyển đổi số, chính phủ số và kỹ năng số vào các chương trình đào tạo
đại học, sau đại học các ngành quản lý công, quản lý nhà nước, chính sách công
cũng như các chuyên ngành mà có mục tiêu đào tạo các vị trí việc làm trong cơ
quan nhà nước.
Khẩn trương triển khai nghiên cứu xây dựng mở
các chuyên ngành gắn với quản trị số, văn thư, lưu trữ số… thuộc chương trình
đào tạo đại học và thạc sĩ. Việc phát triển chương trình đào tạo sẽ theo hướng ứng
dụng, cần bổ sung thêm các học phần về công nghệ thông tin, công nghệ số để có
chuẩn đầu ra đáp ứng yêu cầu trong bối cảnh chuyển đổi số.
Khi thiết kế các chương trình đào tạo, bồi dưỡng
nhằm phát triển chuyên môn năng lực số của công chức đòi hỏi phải xây dựng nền
tảng đáng tin cậy để bảo đảm chất lượng đào tạo như: cần xác định năng lực số
phù hợp với từng nhóm nhân sự, tạo khuôn khổ pháp lý, xây dựng hợp tác với các
nhà cung cấp dịch vụ và công nghệ giáo dục, và đồng thời, dựa trên các chương
trình và tổ chức đào tạo liên tục, giám sát quá trình đào tạo và kết quả của
nó.
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, các
Học viện Chính trị khu vực, Học viện Hành chính và Quản trị công cần đi đầu
trong công tác ứng dụng công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực hành chính phục vụ
cho chuyển đổi số quốc gia.
Năm là, đổi
mới phương pháp giảng dạy
Cùng với việc đổi mới chương trình, tài liệu
thì năng lực và phương pháp giảng dạy của giảng viên cũng cần được đổi mới và
nâng cao. Bản thân đội ngũ giảng viên cơ hữu ở tất cả các mảng kiến thức và kỹ
năng quản lý nhà nước cần tăng cường học tập, nghiên cứu các nội dung của chuyển
đổi số gắn với lĩnh vực chuyên môn của mình. Đồng thời, năng lực kỹ thuật số của
công chức chỉ có thể được phát triển nếu học viên, sinh viên được tiếp cận các
phương pháp giảng dạy sử dụng công nghệ của giảng viên và được tiếp cận học tập
dựa trên thực hành để phát triển khả năng sử dụng các công cụ kỹ thuật số, được
trải nghiệm hình thức học tập hiện đại. Giảng viên cần có năng lực sử dụng các
công nghệ số trong xây dựng và thực hiện bài giảng như công cụ thiết kế các
trang trình chiếu, sử dụng AI; có kỹ năng giảng dạy trên các nền tảng trực tuyến
và từ xa hiệu quả. Đối với các chuyên đề gắn với chuyển đổi số, cung cấp kiến
thức và kỹ năng số cũng cần thu hút sự tham gia thỉnh giảng của các chuyên gia
công nghệ số, các nhà quản lý trong lĩnh vực này.
Sáu là,
thúc đẩy chuyển đổi số tại các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng
Việc đào tạo, bồi dưỡng không thể được thực
hiện nếu không sử dụng tích cực công nghệ số trong chính quá trình đào tạo, bồi
dưỡng. Bản thân quá trình chuyển đổi số phải được thực hiện mạnh mẽ và tích cực
trong chính cơ sở đào tạo, bồi dưỡng như một công cụ dạy - học. Chuyến đổi số
trong các hoạt động giảng dạy, quản lý đào tạo, quản trị nội bộ là một trong những
định hướng trọng tâm của các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức. Điều này
sẽ tạo cơ hội cho học viên, sinh viên có được các kỹ năng thực tế khi làm việc
với hệ thống quản lý hiện đại trong thời gian học tập tại trường, để sử dụng
trong các hoạt động nghề nghiệp sau này.
3. Kết luận
Chuyển đổi Chính phủ số có vai trò dẫn dắt chuyển
đổi số quốc gia. Đặc biệt trong bối cảnh sắp xếp, sáp nhập các quan hành chính
nhà nước, tổ chức chính quyền địa phương hai cấp thì việc vận hành bộ máy hành
chính trên các nền tảng số được xác định là cầu nối “sống còn”. Tổ chức đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ, công chức là nhiệm vụ, sứ mạng của Học viện Chính trị quốc
gia Hồ Chí Minh và các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức theo sự phân
công, phân cấp. Những đề xuất cụ thể nhằm nâng cao năng lực số cho
công chức thông qua đào tạo, bồi dưỡng góp phần cung cấp luận cứ khoa học và thực
tiễn trong xây dựng nội dung, chương trình đào tạo, bồi dưỡng công chức ở Việt
Nam trong bối cảnh mới.
(nguồn
lyluanchinhtri.vn)
Ngày
nhận bài: 18-8-2025; Ngày bình duyệt: 20-8-2025; Ngày duyệt đăng: 22-9-2025.
Email
tác giả: vanntt@apag.edu.vn.
(1) UNESCO: A global framework of reference on
digital literacy, UNESCO Institute for Statistics, 2018.
(2), (6) OECD. Skills for a digital world:
2016 ministerial meeting on the digital economy background report / OECD Digital
Economy Papers, 2016, No. 250. Paris: OECD Publishing.
http:// www.oecd-ilibrary.org/science-and-technology/skills-for-a-digitalworld_5jlwz83z3wnw-en.
(3) Профессиональное развитие цифровых
компетенций современных государственных служащих: российский и зарубежный опыт.
К. В. Петровна, В. М. Юрьевна. Государственное управление. Электронный вестник.
Выпуск № 88. Октябрь 2021 г.
(4), (5) Tumbas, S., Berente, N., &
Brocke, J. V. Digital innovation and institutional entrepreneurship: Chief
digital officer perspectives of their emerging role //Journal of Information
Technology. - 2018. - 33(3). - P. 188-202.
(7) Bộ Thông tin và Truyền thông: Cẩm
nang chuyển đổi số, Hà Nội, 2020, https://mic.gov.vn. tr. 25.